Vùng Cao Lãnh bao gồm TP Cao Lãnh và ba huyện Cao Lãnh, Tháp Mười, Thanh Bình, về thực chất là khu vực phía Nam của vùng Đồng Tháp Mười; tổng diện tích tự nhiên 1.467 km2, chiếm 43% diện tích tự nhiên.
- Khu vực phía Tây phát triển nông nghiệp đa dạng: lúa tại vùng đồng bằng xa sông, rau màu và trái cây tại vùng ven sông Tiền và các cù lao, hình thành các vùng chuyên canh quy mô tập trung tạo sản phẩm hàng hóa có chất lượng xác nhận trên cơ sở thế mạnh của 2 chợ đầu mối gạo Thanh Bình và trái cây Mỹ Hiệp; phát triển mạnh thủy sản bãi bồi và xem như là ngành mũi nhọn.
- Khu vực phía Đông phát triển nông nghiệp chủ yếu là vùng lúa chuyên canh và chăn nuôi, hình thành vùng lúa chuyên canh, phát triển lâm nghiệp.
136 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 4063 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy hoạch môi trường tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong đất được chuyển từ thể tiềm tàng sang dạng hoạt động, gây hại cho môi trường đất và cây trồng. Hiện tượng này chỉ xảy ra ở một số nơi, đồng thời kết hợp với quá trình tháo chua rửa phèn nên hàm lượng các chất độc hại này được chuyển vào môi trường nước, cân bằng lại nồng độ phèn hoạt động trong môi trường đất.
Hầu hết đất đai trong tỉnh đều được canh tác nông nghiệp, một phần dùng để trồng tràm(vùng ĐTM).Hiện nay đất đai trong tỉnh đang gặp 2 vấn đề lớn:
-Thoái hoá đất: do tăng vụ theo kiểu độc canh nên đất đai không được cày xới thường xuyên,cùng với xử dụng phân hóa học đã làm cho đất đai ngày cày chai cứng,bí,chặt,quá trình gley hóa diễn ra mạnh mẽ nhất là vùng canh tác 3 vụ lúa/năm trong một thơì gian dài.Kết quả là dưỡng chất trong đất mất cân đối,năng suất cây trồng thấp.
-Mất đất canh tác nông nghiệp: phổ biến ở nứơc ta hiện nay.Thường là mất các loại đất tốt, điều kiện canh tác rất thuận lợi.Chỉ riêng trong 3 năm gần đây đã mất hơn 1.200 ha đất nông nghiệp để chuyển cho các hoạt động khác bao gồm:
+700 ha đất cho 2 khu CN Sadec và Trần Quốc Toản
+62 khu dân cư mới với diện tích khoảng 500 ha (kể cả đất đào đắp)
Tác động
Việc sử dụng không đúng quy định, sử dụng một cách bừa bãi thuốc BVTV với hàm lượng cao sẽ gây tác hại to lớn, cụ thể là lượng dư của các chất này sẽ bị tích tụ lại trong đất hoặc bị rửa trôi vào các nguồn nước.
Trong đất, một số loại thuốc BVTV khi tồn tại với lượng cao sẽ ảnh hưởng đến hệ động thực vật đất như : giun, hệ động vật không xương sống, hệ vi sinh vật, nấm, tảo… giảm độ màu mỡ của đất, làm đất chai cứng. Ngoài ra, thời gian bán phân hủy của các loại phân bón hóa học và thuốc BVTV khá dài, việc tích lũy lượng hóa chất ngày càng nhiều đã làm cho chất lượng đất thay đổi, khả năng phục hồi chậm, dễ bị thoái hóa.
Bên cạnh đó hoạt động khai thác khoáng sản nếu không thực hiện đúng các yêu cầu kỹ thuật quy định trong khai thác sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thảm thực vật che phủ bề mặt, gây xói mòn đất và trơ hóa đất
Hoạt động khai thác thủy sản như : đào ao, dẫn nước mặn vào để nuôi thủy sản đã gián tiếp gây nhiễm mặn , nhiễm phèn đất, làm suy thaói môi trường đất. Nguy cơ giảm một số diện tích đất ngập nước, đất đầm lầy do quy hoạch để nuôi tôm công nghiệp.
Hoạt động thoát lũ như việc hoàn thiện hệ thống thoát lũ nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu thoát lũ và cải thiện hệ thống giao thông khu vực đã làm thay đổi kết cấu đất do việc gia tăng cường độ thoát lũ làm gia tăng mức độ ngập ở một số vùng hạ lưu, giảm một số diện tích đất ngập nước.
2.3.4 Đáp ứng
Chiến lược phục hồi rừng: Tiếp tục thực hiện chỉ thị 08/2000/CT-UB của UBND tỉnh trồng cây phòng hộ trên địa bàn của tỉnh vào đầu mùa mưa mỗi năm. Đây là việc làm thường xuyên hàng năm của tỉnh đã đi vào nề nếp.
VẤN ĐỀ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG CẤP BÁCH VÀ CÁC VÙNG SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG DO THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
Vấn đề tài nguyên – môi trường cấp bách
1.1 Ô nhiễm không khí do ảnh ưởng bởi các hoạt động giao thông và phát triển kinh tế tại các đô thị, các KCN và làng nghề truyền thống
- Tại khu vực đô thị: Tại các khu vực có mật độ giao thông khá cao, ở một số khu vực hàm lượng bụi trong không khí vào mùa khô vượt tiêu chuẩn cho phép. Nguyên nhân là do cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
- Khu vực sản xuất TTCN: Riêng ở các khu sản xuất, tiểu thủ công nghiệp thì ồn và bụi vẫn là nét đặc trưng, điển hình là các cơ sở gia công cơ khí, khu vực sản xuất gạch. Trong đó đáng chú ý là khu vực sản xuất cụm lò gạch xã An Hiệp, huyện Châu Thành. Khu này hiện có 50 cơ sở sản xuất gạch ngói với khoảng 200 lò nung sản xuất theo công nghệ truyền thống. Căn cứ vào kết quả quan trắc thì nồng độ các chất ô nhiễm do đốt lò gạch tại khu vực này gây khói, bụi ảnh hưởng đến sinh hoạt của dân cư và cây trồng xung quanh.
Ngoài các chất thông thường còn có sự hiện diện của HF trong không khí đặc trưng cho vùng sản xuất gạch. Nồng độ HF trong không khí đôi khi lên đến 0,08 mg/m3 (vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép TCVN 5938-1995 là 0,005 mg/m3).
1.2. Ô nhiễm tài nguyên môi trường nước do ảnh hưởng bởi các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người tại các khu vực nông thôn, KCN, làng nghề truyền thống, khu vực nuôi trồng thủy sản và các bệnh viện
Hiện nay trung bình mỗi ngày các kênh mương và sông rạch tỉnh Đồng Tháp phải tiếp nhận một khối lượng nước thải khá lớn, trong khi đó nước thải sinh hoạt chưa được xử lý, vào mùa khô lưu lượng nước tại các con sông và các kênh rạch giảm xuống, tốc độ dòng chảy yếu, khả năng tự làm sạch cũng giảm đi. Do đó, hàm lượng các chất ô nhiễm sẽ rất cao, đặc biệt là các kênh đào chảy qua 2 đô thị lớn là thành phố Cao Lãnh và thị xã Sa Đéc.
Lưu lượng nước thải sinh ra từ các nhà máy xí nghiệp tại thành phố, thị xã, các thị trấn huyện thị, các khu, cụm công nghiệp và các làng nghề là rất lớn mà thành phần chủ yếu của nước thải là chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng. Trong đó bức xúc nhất hiện nay vẫn là ô nhiễm môi trường ở làng nghề làm bột nuôi heo xã Tân Phú Đông. Chỉ riêng xã này đã nuôi số heo bằng 10% tổng số heo trong toàn tỉnh (khoảng 30.000 - 40.000 con), lượng phân cần phải xử lý là 70 – 80 tấn/ngày, hiện mới chỉ giải quyết được khoảng 20% lượng phân thải ra (khoảng 7.000 – 8.000 con/năm) nên vấn đề ô nhiễm ở khu vực này ngày càng gia tăng.
Hiện nay, 3 bệnh viện lớn của tỉnh đã có hệ thống xử lý nước thải y tế đảm bảo chất lượng nước thải đạt tiêu chuẩn xả thải ra môi trường. Tuy nhiên, các bệnh viện còn lại trên địa bàn tỉnh hiện vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải, nước thải tại các bệnh viện này được thải trực tiếp, là nguồn gây ô nhiễm môi trường rất đáng quan tâm.
Bên cạnh đó, hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh cũng đã và đang gây ô nhiễm môi trường nước, cụ thể:
Từ năm 2000 trở lại đây, do tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa ngày càng có những chuyển biến tích cực: tăng nhanh về sản lượng xuất khẩu, mở rộng thị trường sang nhiều quốc gia và giá cả xuất khẩu khá ổn định. Từ đó, diện tích nuôi cá tra, cá ba sa xuất khẩu của tỉnh ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2005, diện tích nuôi cá tra, cá ba sa phục vụ xuất khẩu trong tỉnh khoảng 700 ha nuôi thâm canh và 200 bè. Tuy nhiên, do những năm gần đây việc nuôi cá tra, cá ba sa bè không đủ sức cạnh tranh về giá thành cũng như chất lượng so với nuôi cá tra ao ở những vùng đất bãi bồi, đất ven sông nên số lượng bè nuôi cá tra có chiều hướng giảm. Trong khi đó, diện tích và số lượng ao nuôi cá tra, cá ba sa khu vực các bãi bồi ven sông Tiền và Sông Hậu của tỉnh ngày càng phát triển và mở rộng, đã làm cho nguồn nước một số vùng trong tỉnh bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước tỉnh Đồng Tháp đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sức khỏe người dân trong khu vực. Số người mắc bệnh liên quan đến nước tăng cao như các bệnh phụ khoa, bệnh dịch tả, lỵ, trực tràng ... Tỷ lệ các bệnh liên quan đến sử dụng nguồn nước tại Đồng Tháp có xu hướng tăng theo từng năm, đặc biệt là các bệnh ngoài da và phụ khoa mà nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh.
Tình trạng ô nhiễm nguồn nước đã tác động mạnh mẽ đến đời sống dân cư nông thôn, tình trạng này nghiêm trọng nhất vào mùa mưa lũ, làm nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết như:
- Thiếu nước sạch cho dân trong mùa lũ.
- Ô nhiễm do chất thải sinh hoạt (phân, rác, nước thải) trong điều kiện lũ lụt kéo dài.
- Ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm do phân, rác, nước thải thải ra từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của người dân và từ các chuồng trại chăn nuôi.
- Gia tăng tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến nguồn nước ô nhiễm.
1.3 Ô nhiễm do chất thải rắn
Chất thải rắn đô thị chưa được thu gom triệt để, tỷlệ thu gom còn thấp. Theo ước tính thì tổng lượng rác thải ra toàn tỉnh ước tính 400 tấn/ngày, tuy nhiên chỉ thu gom được khoảng 52% của lượng thải trên trong ngày. Công tác xử lý rác thải chưa được thực hiện đúng .
Rác thải công nghiệp chưa được quản lý chặt chẽ, công tác thu gom xử lý chưa hoàn toàn tách rời với rác thải đô thị.
Rác thải sinh hoạt tại các khu dân cư nông thôn chưa được thu gom, xử lý. Người dân thải bỏ xuống kênh, rạch hoặc các chỗ trũng sau nhà.
Khối lượng rác thải y tế độc hại tại một số bệnh viện chưa được tiêu hủy đúng .
1.4. Suy thoái đất do việc độc canh cây lúa, lạm dụng phân hóa học và TBVTV
Hiện nay chưa ghi nhận được sự ô nhiễm đất mà chỉ có thoái hóa đất do độc canh cây lúa thể hiện qua năng suất lúa của vùng canh tác 3 vụ lúa/năm thấp hơn so với các vùng khác, rõ ràng nhất là khu vực huyện Châu Thành. Năng suất bình quân của vùng 3 vụ lúa/năm là 47,8 tạ/ha, thấp hơn rất nhiều so với năng suất bình quân của tỉnh là 53,63 tạ/ha. Với kết quả trên, nếu không thực hiện các biện pháp cải tạo đất như xen canh, luân canh thì chắc chắn rằng trong vòng 2 thập niên nữa hầu hết đất canh tác 3 vụ lúa/năm sẽ bị thoái hóa.
Mặt khác, do người dân lạm dụng hóa chất BVTV một cách phổ biến, không theo quy định của nhà sản xuất, kết hợp với lượng hóa chất tồn dư trong thời gian trước, làm gia tăng nồng độ các chất độc hại trong môi trường đất. Đặc biệt là việc lạm dụng TBVTV tại làng hoa kiểng thị xã Sa Đéc. Diện tích của làng hoa trên 250 ha với gần 2.000 hộ làm nghề. Ở đây có trên 1.000 chủng loại hoa, mỗi năm xuất đi các tỉnh, thành và cả sang Lào, Campuchia, Trung Quốc trên 10 triệu sản phẩm nên việc lạm dụng TBVTV và phân hóa học là điều không tránh khỏi và ngày càng nhiều hơn. Điều này dẫn đến lượng tồn dư hóa chất độc hại trong môi trường đất ngày càng nhiều gây suy thoái môi trường đất và ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân trong khu vực.
1.5 Tình trạng suy thoái tài nguyên sinh học tại các khu bảo tồn, Vườn quốc gia
Đồng Tháp là một tỉnh có tính đa dạng sinh học khá đa dạng và phong phú với hệ sinh thái của vùng đất ngập nước nổi tiếng thế giới được biết đến với cái tên Đồng Tháp Mười. Đây là một vùng tài nguyên thiên nhiên phong phú và độc đáo, nhưng đang bị suy giảm bởi áp lực phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế xã hội, nguồn tài nguyên đa dạng sinh học tại các khu bảo tồn, Vườn quốc gia và hệ sinh thái nhạy cảm tỉnh Đồng Tháp đang bị thu hẹp dần. Nguyên nhân chủ yếu là do các hoạt động nuôi trồng thủy sản của người dân ngày càng được đẩy mạnh làm cho một diện tích lớn đất nông nghiệp dần chuyển thành ao nuôi.
Hiện nay hệ sinh thái VQG Tràm Chim đang bị đe dọa bởi sự xuất hiện của loài sinh vật ngoại lai là cây mai dương. Đây là loài có sức sống mạnh, chúng xâm lấn môi trường sống của các loài khác khiến các loài này dần bị tiêu diệt. Hiện loài mai dương đang phát triển mạnh, diện tích đã lên đến 400 ha, đây là đối tượng cần phải loại trừ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của VQG.
1.6 Tình hình sạt lở và lũ lụt
Do nằm bên bờ sông Tiền nên sạt lở là sự cố môi trường thường xuyên xảy ra trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Trung bình hàng năm hiện tượng sạt lở mất khoảng 40 ha đất tại các bờ sông. Ở Đồng Tháp có 2 vùng sạt lở với quy mô lớn và quan trọng nhất là khu vực Hồng Ngự và khu vực Châu Thành - Sa Đéc.
Ngoài ra, do ảnh hưởng của dòng chảy nên sạt lở luôn diễn ra ở đầu cù lao và bồi phía đuôi làm cho các cù lao có khuynh hướng lùi dần về phía hạ du. Ở các nơi còn lại thường có sạt lở với quy mô nhỏ theo dạng bào mòn. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình hình sạt lở đó là do tình hình khai thác cát sông. Do tình trạng khai thác cát sông, không đúng trữ lượng và vị trí khai thác cho phép đã và đang diễn ra trong tỉnh, nhất là trong thời gian gần đây, làm biến đổi dòng chảy, kéo theo tình trạng sạt lở tại khu vực bờ sông. Những khu vực xảy ra tình trạng sạt lở do ảnh hưởng của quá trình khai thác trong thời gian qua chủ yếu tại một số khu vực thuộc huyện Hồng Ngự, Thanh Bình.
1.7 Cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn
Tình hình cung cấp nước sinh hoạt còn nhiều khó khăn do chất lượng nước suy giảm và khối lượng nước cấp trên đầu người còn thấp. Tình hình thiếu nước sạch tại các vùng nông thôn Đồng Tháp hiện nay vẫn còn phổ biến.
Theo báo cáo tổng kết chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 1999 – 2005 và định hướng giai đoạn 2006 – 2010, hiện tỉnh đã đầu tư xây dựng được 248 công trình cấp nước sạch, cải tạo sửa chữa 24 công trình, cấp phát 16.579 bộ bình lọc, xô lọc nước, 13.000 chai hóa chất khử trùng và chế phẩm xử lý và vận động các hộ dân thực hiện trên 1.200 bể chứa nước (loại 4 m3).
Các công trình cấp nước trên đã cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh tăng thêm cho 100.000 hộ dân, trong đó có 106 cụm, tuyến dân cư đã được xây dựng trạm cấp nước. Nâng tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch trong toàn tỉnh đến cuối năm 2005 là 43%. Trong đó, các huyện có hộ dân sử dụng nước sạch cao nhất là huyện Tân Hồng (chiếm 80%), các huyện có hộ dân sử dụng nước sạch thấp nhất là huyện Châu Thành (chiếm 7,2%). Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ cấp nước rất không đồng đều tại các địa phương trong tỉnh.
Nhìn chung, tại khu vực nông thôn chủ yếu sử dụng nguồn nước ngầm cho cấp nước sinh hoạt. Nước mưa cũng được sử dụng nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước ao hồ, kênh rạch còn chiếm khoảng 57%.
Các vùng suy thoái môi trường
Dựa vào quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và kết quả đánh giá hiện trạng môi trường tỉnh Đồng Tháp trong những năm gần đây có thể xác định các khu vực suy thoái trọng điểm như sau:
2.1 Các khu đô thị:
- Thành phố Cao Lãnh.
- Thị xã Sa Đéc.
2.2 Các khu vực trong và xung quanh các khu công nghiệp, làng nghề:
- KCN Trần Quốc Toản.
- KCN Sông Hậu.
- Làng nghề làm bột nuôi heo xã Tân Phú Đông và Tân Quy Tây.
- Cụm lò gạch xã An Hiệp, huyện Châu Thành.
- Làng bột Tân Bình và Tân Phú Trung.
2.3 Khu vực nuôi trồng thủy sản:
- Khu vực nuôi trồng thủy sản cồn Đông Giang, xã Tân Khánh Đông.
- Khu vực nuôi trồng thủy sản cồn Bình Mỹ, xã Bình Thạnh.
- Khu vực nuôi trồng thủy sản xã An Nhơn (khu vực nuôi ao hầm đuôi cồn Bạch Viên, xã An Nhơn: 100 ha).
- Khu vực nuôi trồng thủy sản xã Tân Nhuận Đông.
- Khu vực nuôi trồng thủy sản bãi bồi ven sông Tiền xã An Hiệp.
- Khu vực nuôi ao hầm ven sông Sa Đéc, xã An Hiệp.
- Khu vực bãi bồi ven sông Tiền từ Mương Điều trở về thượng nguồn xã Tân Khánh Trung.
2.4 Khu vực làng hoa kiểng Sa Đéc.
2.5 Khu vực các bãi rác:
- Khu vực bãi rác Quảng Khánh, thành phố Cao Lãnh.
- Khu vực bãi rác Phú Long, thị xã Sa Đéc.
2.6 Khu vực Vườn Quốc gia Tràm Chim
V. DỰ BÁO DIỄN BIẾN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG, TÀI NGUYÊN TỈNH ĐỒNG THÁP DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH ĐỒNG THÁP ĐẾN NĂM 2020:
1. Quy hoạch triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020:
1.1 Quy hoạch phát triển đô thị:
Dựa trên đặc điểm phát triển đặc thù của mạng lưới đô thị tỉnh Đồng Tháp, các đô thị sẽ được bố trí theo hướng đa trung tâm với các đô thị có tác động cấp vùng, kết hợp với các đô thị cấp tiểu vùng. Mạng lưới các đô thị vừa mang đặc điểm phân bố địa lý vừa mang đặc điểm phát triển vùng kinh tế (kinh tế công thương nghiệp, kinh tế nông nghiệp, kinh tế biên giới...) vừa là điểm nút của các trục giao thông chính hiện trạng và trong tương lai.
TP Cao Lãnh tiếp tục phát triển mạnh, đạt chuẩn đô thị loại 3 năm 2008, ngày càng khẳng định vai trò trung tâm hành chánh, chính trị và kinh tế của tỉnh, là tâm điểm giao lưu với các đô thị cấp tiểu vùng, là đô thị cửa ngõ hướng về vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đồng thời cũng là đô thị trung tâm vùng Cao Lãnh. Vai trò trung tâm của TP Cao Lãnh ngày càng được nâng cao sau khi tuyến đường N2-đường Hồ Chí Minh hoàn thành, tạo thành một trục giao thông mới hướng về vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Dự kiến nâng lên đô thị loại 2 sau năm 2015.
TX Sa Đéc phát triển nhanh kết cấu hạ tầng đô thị để sớm hoàn thành các tiêu chí đô thị loại 3, phát huy vai trò đô thị trung tâm của vùng Sa Đéc.
Thị trấn Hồng Ngự, đô thị trung tâm khu vực kinh tế biên giới và là đô thị trung tâm của vùng Hồng Ngự, sẽ được tiếp tục nâng lên cấp thị xã vào năm 2008.
Phát triển 2 đô thị cấp tiểu vùng lên đô thị loại 4:
Thị trấn Lấp Vò: đô thị trung tâm phía Tây Bắc, là cửa ngõ hướng về vùng Tứ giác Long Xuyên, có vị trí quan trọng sau khi cầu Vàm Cống hoàn thành
Thị trấn Mỹ An: đô thị trung tâm vùng nông nghiệp Đồng Tháp Mười, dự kiến nâng cấp lên thị xã sau năm 2015.
Riêng thị trấn Mỹ Thọ dự kiến sẽ sáp nhập vào TP Cao Lãnh nhằm để thành phố đạt chuẩn đô thị loại 2 sau năm 2015
Phát triển các đô thị loại 5 (bao gồm các thị trấn huyện lỵ và thị trấn không phải huyện lỵ) thành các đô thị vệ tinh và đảm nhiệm một số chức năng hỗ trợ cho thành phố Cao Lãnh và 4 đô thị cấp tiểu vùng, cụ thể như sau:
Chùm đô thị chịu tác động của TP Cao Lãnh: Thanh Bình, Bình Thành, An Phong (đầu cầu của thành phố hướng về vùng Hồng Ngự, với chức năng đầu mối vùng nguyên liệu gạo, rau màu và phát triển công nghiệp vệ tinh), Mỹ Hiệp (đô thị cửa ngõ hướng về QL.1A, đầu mối vùng nguyên liệu trái cây)
Chùm đô thị chịu tác động của TX Sa Đéc: Cái Tàu Hạ, Tân Nhuận Đông (đô thị cửa ngõ hướng về QL.1A), Lai Vung, Tân Thành, (đô thị đầu cầu và cửa ngõ hướng về sông Hậu)
Chùm đô thị chịu tác động của thị trấn Hồng Ngự: Thường Thới Tiền, An Long (đô thị vệ tinh trên trục ven sông Tiền), Thường Phước (cửa khẩu biên giới)
Các đô thị quy mô từ trung bình đến nhỏ, có tác động cấp tiểu vùng: Mỹ An (kết hợp với Trường Xuân hình thành chùm đô thị thương mại - dịch vụ - du lịch - công nghiệp vùng hạ lưu Đồng Tháp Mười), Sa Rài (kết hợp với Tràm Chim, Giồng Găng, Dinh Bà hình thành chuỗi đô thị thương mại - dịch vụ - du lịch - kinh tế biên giới vùng thượng lưu Đồng Tháp Mười), Lấp Vò (kết hợp với Vĩnh Thạnh, Định Yên hình thành chùm đô thị thương mại - dịch vụ hướng về vùng Tứ giác Long Xuyên)
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn thông qua hình thành các thị tứ nông thôn từ trung tâm một số xã với nhiều chức năng (khu tập trung dân cư, phát triển công thương nghiệp, chợ đầu mối….), dự kiến định hình khoảng 31 thị tứ.
1.2. Quy hoạch phát triển công nghiệp
Mục tiêu của Quy hoạch đưa ngành công nghiệp đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, bảo đảm mức tăng trưởng 14%/năm (14,1% giai đoạn 2006 - 2010, 14,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015 và 13,3%/năm trong giai đoạn 2016-2020), góp phần đưa tỉnh Đồng Tháp lên mức trung bình so với mặt bằng phát triển kinh tế - xã hội chung của Đồng bằng sông Cửu Long.
Phát huy lợi thế và khả năng thu hút đầu tư, Đồng Tháp sẽ tập trung vào các nhóm ngành chủ lực đạt hiệu quả cao, nâng tỷ trọng công nghiệp chế biến - chế tạo lên hơn 90% giá trị sản xuất vào năm 2020 với ngành công nghiệp sản xuất thực phẩm, đồ uống và công nghiệp hóa chất (các sản phẩm hóa chất chiếm trên 65% giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến). Tổng kinh phí đầu tư cho ngành công nghiệp tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2006-2020 là gần 55.000 tỷ đồng, trong đó vốn quốc doanh trung ương là 2,8%, quốc doanh địa phương 18,4%, vốn nước ngoài 19,8%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 59%. Về năng suất lao động công nghiệp, tỉnh Đồng Tháp phấn đấu nâng giá trị tăng thêm bình quân/lao động công nghiệp từ 1.623 USD của năm 2005 lên đến trên 9.500 USD trong năm 2020.
Đến năm 2020, tổng diện tích đất quy hoạch cho khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp khoảng 3.700 ha (nếu tính thêm các khu nguyên liệu và khu đô thị, các trung tâm thương mại dịch vụ vệ tinh, tổng diện tích đất khoảng gần 4.300 ha), trong đó phấn đấu xây dựng hoàn tất hạ tầng và lấp đầy 70%. Hình thành 4 khu kinh tế công nghiệp trọng điểm: Cao Lãnh, Sa Đéc, Lai Vung - Lấp Vò, Tháp Mười và khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước - Dinh Bà với các đô thị hậu cần công nghiệp, đô thị vệ tinh dịch vụ công nghiệp tương thích. Hoàn chỉnh hệ thống giao thông trục thủy bộ nối kết các khu kinh tế công nghiệp trọng điểm, hệ thống giao thông nội bộ khu - cụm công nghiệp, hệ thống cấp điện nước, hệ thống thông tin liên lạc, bảo đảm các khu - cụm công nghiệp thu gom và xử lý 100% chất thải. Đến năm 2020, tỉnh Đồng Tháp phấn đấu đạt trên 95% lao động công nghiệp qua đào tạo và 75% lao động qua đào tạo nghề./.
Hoàn chỉnh và mở rộng 3 khu công nghiệp tập trung hiện có (Sa Đéc, Trần Quốc Toản, Sông Hậu); dự kiến mở mới 02 khu công nghiệp ở địa bàn huyện Cao Lãnh và huyện Tháp Mười dọc tuyến Quốc lộ N2, cụm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp Hồng Ngự và 25 cụm nghiệp ở 11 huyện, thị xã, thành phố nhằm tạo động lực mới cho phát triển công nghiệp Tỉnh.
- Vùng Cao Lãnh: hoàn chỉnh và mở rộng khu công nghiệp tập trung Trần Quốc Toản, khu công nghiệp Cao Lãnh, khu công nghiệp Tháp Mười
- Vùng Sa Đéc: hoàn chỉnh và mở rộng khu công nghiệp tập trung Sa Đéc, Sông Hậu
- Vùng Hồng Ngự: mở mới cụm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp Hồng Ngự
1.3. Quy hoạch phát triển nông thôn
1.3.1. Cao Lãnh
Vùng Cao Lãnh bao gồm TP Cao Lãnh và ba huyện Cao Lãnh, Tháp Mười, Thanh Bình, về thực chất là khu vực phía Nam của vùng Đồng Tháp Mười; tổng diện tích tự nhiên 1.467 km2, chiếm 43% diện tích tự nhiên.
- Khu vực phía Tây phát triển nông nghiệp đa dạng: lúa tại vùng đồng bằng xa sông, rau màu và trái cây tại vùng ven sông Tiền và các cù lao, hình thành các vùng chuyên canh quy mô tập trung tạo sản phẩm hàng hóa có chất lượng xác nhận trên cơ sở thế mạnh của 2 chợ đầu mối gạo Thanh Bình và trái cây Mỹ Hiệp; phát triển mạnh thủy sản bãi bồi và xem như là ngành mũi nhọn.
- Khu vực phía Đông phát triển nông nghiệp chủ yếu là vùng lúa chuyên canh và chăn nuôi, hình thành vùng lúa chuyên canh, phát triển lâm nghiệp.
1.3.2. Vùng Hồng Ngự
Vùng Hồng Ngự là khu vực phía Bắc của vùng Đồng Tháp Mười, bao gồm ba huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông; tổng diện tích tự nhiên 1.117 km2, chiếm 33% diện tích tự nhiên và 24% dân số so với toàn Tỉnh.
- Khu vực phía Tây phát triển nông nghiệp trên cơ sở cây lúa, có kết hợp với rau màu tại vùng ven sông Tiền và các cù lao, ổn định tiến đến phát triển bền vững nghề nuôi cá bè và khai thác thủy sản mùa lũ; phát triển mạnh thủy sản bãi bồi. Trên cơ sở thị trấn Hồng Ngự, cảng Hồng Ngự và cửa khẩu Thường Phước, tập trung phát triển kinh tế biên giới nhằm đẩy mạnh phát triển của khu vực thương mại - dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tiểu vùng. Đô thị vệ tinh quan trọng của vùng là An Long
- Khu vực phía Đông phát triển nông nghiệp chủ yếu là vùng lúa chuyên canh và chăn nuôi đại gia súc có kết hợp với vỗ béo, nuôi tôm cá trong mùa lũ, phát triển lâm nghiệp. Trên cơ sở cụm cửa khẩu Dinh Bà-thị trấn Sa Rài, tập trung phát triển kinh tế biên giới về đường bộ, kết hợp với khai thác thế mạnh của khu bảo tồn Tràm Chim, khu Giồng Găng nhằm đẩy mạnh phát triển của khu vực thương mại - dịch vụ - du lịch
1.3.3. Vùng Sa Đéc
Vùng Sa Đéc bao gồm TX Sa Đéc và ba huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò, thuộc vùng giữa sông Tiền-sông Hậu; tổng diện tích tự nhiên 790 km2, chiếm 23% diện tích tự nhiên. Đối với khu vực 1, phát triển nông nghiệp đa dạng: lúa tại vùng đồng bằng xa sông, rau màu và trái cây tại vung ven sông Tiền và các cù lao, cây công nghiệp hàng năm tại khu vực địa hình cao phía Bắc, phát triển mạnh làng hoa Tân Quy Đông trên cơ sở đổi mới giống công nghệ và mở rộng thị trường tiêu thụ; phát triển mạnh thủy sản bãi bồi tại khu vực phía Nam và xem như là ngành mũi nhọn.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Tháp:
2.1. Mục tiêu chiến lược
- Phát triển nhanh nền kinh tế, đưa GDP đầu người lên mức thu nhập trung bình, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, chỉ số HDI đạt mức phát triển con người trung bình cao.
- Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, giáo dục và y tế, nối mạng hạ tầng hoàn chỉnh với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
- Định hình các khu cụm kinh tế công thương nghiệp, làng nghề, khu cụm du lịch sinh thái, khu nông nghiệp kỹ thuật cao, củng cố cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển ngay sau năm 2005.
- Định hình các khu dân cư, giải quyết tốt tái định cư, đảm bảo mỗi hộ dân đều có nhà ở phù hợp.
- Tăng cường đào tạo lực lượng công chức có chuyên môn kỹ thuật - nghiệp vụ và xây dựng đội ngũ, bộ máy nhân sự vững mạnh trong sạch cho yêu cầu trước mắt, tiến đến tổ chức chính quyền điện tử, chuẩn bị cho phát triển bền vững sau năm 2010.
- Đào tạo lực lượng công nhân lành nghề, trung cấp và cao cấp phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội, giải quyết tốt lao động từ nông nghiệp chuyển sang. Đây vừa là mục tiêu vừa là biện pháp để phát triển nhanh.
2.2. Định hướng phát triển kinh tế
2.2.1. Phát triển nông nghiệp, nông thôn:
- Trong thời kỳ 2006-2010 nền nông nghiệp tập trung vào các sản phẩm có thế mạnh với 2 mục tiêu chính là hiệu quả và chất lượng sản phẩm, nhằm hình thành và phát triển bền vững, ổn định các vùng chuyên canh, sản xuất nông sản phẩm hàng hóa trên quy mô tập trung với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và đạt hiệu quả sản xuất ổn định.
Các sản phẩm chủ lực có tính chiến lược và tính đặc thù cho từng ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp trong thời kỳ phát triển 2006-2020 là: lúa, hoa kiểng, rau đậu, xoài cát, quýt hồng và thịt heo, thịt bò.
a. Ngành trồng trọt
Tuy diện tích gieo trồng có khuynh hướng giảm dần theo tiến độ gia tăng các loại đất p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy hoạch môi trường tỉnh Đồng Tháp.doc