Đề tài Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá, và sự vận dụng quy luật này trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Chương I: Những vấn đề cơ bản của quy luật giá trị 2

1/ Nội dung của quy luật giá trị 2

2/ Các quy luật có liên quan và mối quan hệ của chúng với quy luật giá trị 2

2.1/ Quy luật lưu thông tiền tệ 2

2.2/ Quy luật cung cầu hàng hoá, dịch vụ 3

2.3/ Quy luật cạnh tranh 4

Chương II: Quy luật giá trị trong sản xuất hàng hoá

6 1/Khái niệm sản xuất hàng hoá 6

2/ Đặc trưng của sản xuất hàng hoá 6

3/ Hàng hoá 6

3.1/ Hai thuộc tính của hàng hoá 6

3.2/ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá 7

3.3/ Lượng giá trị hàng hoá 8

4/ Tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá 9

Chương III: Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta11

1/ Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta về bản chất và cấu trúc của nó 1.1/ Về bản chất 11

1.2/ Về cấu trúc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 11

2/ Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 12

3/ Sự vận dụng quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 12

Kết Luận

 

 

15

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6251 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá, và sự vận dụng quy luật này trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i dung của quy luật này là: M = P * Trong đó: M là lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thông P là mức giá cả hàng hoá, dịch vụ Q là khối lượng hàng hoá , dịch vụ đem ra lưu thông V là vòng quay trung bình của đồng tiền cùng loại - ở dạng cụ thể, khi C.Mác xem xét công thức khái quát gắn với các chức năng thanh toán, gắn với tín dụng, công thức biểu diễn nội dung quy luật này là: M = (1) - (2) – (3) – Trong đó: (1) là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đem bán (2) là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ bán chịu (3) là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ khấu trừ cho nhau (4) tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đến kỳ thanh toán (5) là vòng quay trung bình của tiền tệ cùng tên gọi. Từ công thức trên có thể thấy những nhân tố có quan hệ đến lượng tiền phát hành đến lượng tiền phát hành, trong đó: M tỷ lệ thuận với (1) và (4) và tỷ lệ nghịch với (2), (3) và (5). Cần ý thức rằng quy luật lưu thông tiền tệ như đã phân tích ở trên là quy luật lưu thông của tiền (vàng). Khi vận dụng quy luật này trong điều kiện tiền giấy thì tình hình có sự khác đi nhất định. Vì tiền giấy không có tác dụng tự điều chỉnh qua hai kênh lưu thông và tích luỹ như tiền (vàng) . Bởi vậy, để quy luật này có hiệu lực trong điều kiện tiền giấy phải rất coi trọng khi điều khiển và khống chế lượng tiền giấy phát hành cho lưu thông. 2.2/ Quy luật cung cầu hàng hoá, dịch vụ lý luận và thực tiễn đều khẳng định: ở nơi nào có nhu cầu thì ở nơi đó cũng xuất hiện luồng cung ứng hàng hoá, dịch vụ để hình thành mối quan hệ cung cầu. Mối quan hệ nhân quả giữa cung và cầu liên tục tiếp diễn trên thị trường, tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người được gọi là quy luật cung cầu. Sự hoạt động của quy luật này thể hiện ở cơ chế vận động giữa giá cả thị trường và giá trị hàng hoá thông qua các trường hợp: cung bằng cầu, cung lớn hơn cầu và cung nhỏ hơn cầu: - Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá trong sản xuất - Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất - Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất Vai trò của quy luật cung cầu: Quy luật cung cầu giải thích rõ nhất, chính xác nhất vì sao giữa giá trị và giá cả thị trường lại không ăn khớp với nhau, tạo điều kiện cho quy luật giá trị có cơ chế hoạt động. Tuy cung cầu không trực tiếp quyết định sự hình thành giá trị hàng hoá, nhưng nó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến chu kỳ sản xuất sau đối với sự hình thành giá trị hàng hóa, thông qua tác động của thị trường làm thay đổi điều kiện sản xuất và thay đổi năng suất lao động, giúp các giám đốc có những quyết định năng động, linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh và trong ký kết các hợp đồng kinh tế. 2.3/ Quy luật cạnh tranh Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, nhằm dành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Những người sản xuất, tiêu thụ có điều kiện khác nhau về trình độ trang bị kỹ thuật, chuyên môn, không gian, môi trường sản xuất, điều kiện nguyên vật liệu... nên chi phí lao động cá biệt khác nhau. Kết quả có người lãi nhiều, có người lãi ít, có người phá sản. Để dành lấy các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc họ phải cạnh tranh. Cạnh tranh có hai loại: canh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là dùng tài năng của mình về kinh tế và quản lý để tăng năng suất, chất lượng, và hiệu quả, vừa có lợi cho nhà kinh doanh, vừa có lợi cho xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh là dùng những thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm pháp luật( trốn thuế, nâng giá...) có hại cho xã hội và người tiêu dùng. Quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộ để thúc đẩy xã hội phát triển. Tóm lại: nghiên cứu các quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ và cung cầu không chỉ để nhận thức lực lượng khách quan chi phối thị trường , mà còn có ý nghĩa đối với việc thực hiện chức năng quản lý ở hai tầng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước và quản lý vi mô của các doanh nghiệp. Có thể khái quát mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường qua sơ đồ sau: Quy luật giá trị Quy luật lưu thông tiền tệ Quy luật cạnh tranh Quy luật cung cầu Từ sơ đồ trên cho thấy không thể làm chủ kinh tế thị trường và cơ chế vận hành của nó nếu không nắm bắt và vận dụng một cách tổng hợp các quy luật kinh tế nói trên trong kinh tế và quản lý kinh tế. Cũng từ sơ đồ trên cho thấy các quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu chỉ là những quy luật phát sinh từ quy luật giá trị. Nó có tác dụng bổ sung và thông qua bổ sung tạo ra vẻ đẹp cho sự hoạt động hay tạo ra cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Từ đó cần phê phán những quan điểm không đúng khi họ cường điệu quá đáng, thậm chí thừa nhận quy luật cung cầu mà không thừa nhận quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và C.Mác phát hiện và hoàn thiện quy luật này. Chương II: Quy luật giá trị trong sản xuất hàng hoá 1/ Khái niệm sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá: Là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó nhưng người sản xuất ra sản phẩm không phải để tiêu dùng cho mình mà để bán trên thị trường. 2/ Đặc trưng của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá không phải để mình dùng, mà là để bán. Nhu cầu lớn và không ngừng tăng lên là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Người tiêu dùng được tự do lựa chọn hàng hoá phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán và thị hiếu của mình. Sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở của phân công lao động và lại thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động, phát triển chuyên môn hoá, tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, tạo điều kiện cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hoá trong môi trường cạnh tranh gay gắt, trong điều kiện quy mô sản xuất lớn, các nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, buộc người sản xuất phải không ngừng cải tiến, đổi mới kỹ thuật, công nghệ nâng cao năng suất, chât lượng, hiệu quả sản xuất và sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất. Trong sản xuất hàng hoá, với sự phát triển của sản xuất, với vai trò của động lực của nhu cầu, với sự phát triển của giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các vùng, các nước mà đời sống tinh thần đều được nâng cao, phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, độc lập cuả cá nhân. Tính chất “mở” là đặc trưng của các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mở trong quan hệ giữa các doanh nghiệp, giữa các địa phương, các vùng và với nước ngoài. 3/ Hàng hoá. Hàng hoá: là sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua - bán với nhau. Hàng hóa là một phạm trù lịch sử. Sản phẩm lao động mang hình thái của hàng hoá khi nó là đối tượng mua - bán trên thị trường. Hàng hoá có thể ở dạng vật thể (hữu hình) hay ở dạng phi vật thể. 3.1/ Hai thuộc tính cuả hàng hoá Hàng hoá có hai thuộc tính: a/ Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng là công cụ của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, hoặc là nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân như lương thực, thực phẩm... hoặc là nhu cầu cho sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu; là nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần... Chính công cụ của vật phẩm làm cho nó trở thành một giá trị sử dụng hay có một giá trị sử dụng. Bất cứ một số vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Giá trị sử dụng được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất. Xã hội càng tiến bộ, khoa học, kỹ thuật và phân công lao động ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại càng phong phú, đa dạng, chất lượng cao. Trong xã hội hiện đại, bên cạnh những hàng hoá vật thể hữu hình còn có những dịch vụ mà người ta mua và bán trên thị trường. Nhiều nhà kinh tế học gọi đó là hàng hoá phi vật thể hay hàng hoá - dịch vụ. b/ Giá trị Giá trị là lao động xã hội thể hiện và vật hoá trong sản xuất hàng hoá. Các hàng hoá khác nhau về giá trị sử dụng nên không thể lấy giá trị sử dụng để đo lường các hàng hóa. Các hàng hoá khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh với nhau trong khi trao đổi, đó là các hàng hoá đều là sản phẩm của lao động. Cơ sở cho hai hàng hoá trao đổi với nhau là lao động xã hội hao phí vào việc sản xuất ra những hàng hóa đó. Thực chất của trao đổi hàng hoá là trao đổi lao động ẩn giấu trong hàng hoá đó. Lao động hao phí để tạo ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là cơ sở chung của trao đổi, được gọi là giá trị hàng hoá. Giá trị hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị hàng hoá là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Nó là một phạm trù lịch sử - có sản xuất hàng hoá và hàng hoá thì mới có giá trị hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Như vậy, hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất với nhau ở một hàng hoá. Người sản xuất làm ra hàng hoá để bán, nên mục đích của họ là giá trị chứ không phải giá trị sử dụng; trong tay họ có giá trị sử dụng, nhưng cái mà họ quan tâm là giá trị hàng hoá. Họ chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để đạt mục đích giá trị. Ngược lại, người mua cần giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó, tức là phải thực hiện được giá trị hàng hoá thì mới chi phối được giá trị sử dụng. 3.2/ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó của hàng hoá do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá: lao động cụ thể và lao động trìu tượng. a/ Lao động cụ thể: Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Thí dụ, lao động cụ thể của người thợ may, thợ dệt, thợ cơ khí. Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích, phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng. Chính cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Trong xã hội, có vô số giá trị sử dụng muôn hình, muôn vẻ do vô số lao động cụ thể cũng muôn hình muôn vẻ tạo ra. Lao động cụ thể tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào; nhưng hình thức của lao động cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của kỹ thuật, của lực lượng sản suất và phân công lao động xã hội. Khoa học, kỹ thuật, phân công lao động càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng phong phú và đa dạng. b/ Lao động trìu tượng: Là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái chung đồng nhất. Đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của con người. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trìu tượng có quan hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá. Tính tự chủ làm cho lao động của những người sản xuất hàng hoá trở thành việc riêng của họ. Mỗi người sản xuất hàng hoá tự lựa chọn mặt hàng mà họ nhận thấy thích hợp. Nhưng mặt khác, phân công xã hội làm nảy sinh rất nhiều mối liên hệ giữa người sản xuất, người này làm việc vì người kia, lao động của mỗi người trở thành một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá thông qua trao đổi. Việc trao đổi hàng hoá không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động chung nhất, lao động trìu tượng. 3.3/ Lượng giá trị hàng hóa Giá trị hàng hóa là do lao động trìu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy, lượng giá trị hàng hoá do lao động tiêu hao để làm ra hàng hoá quyết định. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính theo thời gian lao động. Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá là không giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị hàng hoá không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội. Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thường trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá đó trên thị trường. Cần chú ý rằng, trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện lao động bình thường của xã hội ở mỗi nước, mỗi ngành là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thay đổi thì lượng giá trị hàng hoá sẽ thay đổi. Điều đó phụ thuộc vào nhiều nhân tố, vào năng suất lao động, vào mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động. 4/ Tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động sau đây: Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá thường xảy ra tình hình: người sản xuất bỏ ngành này đổ xô vào ngành khác; quy mô sản xuất của ngành này bị thu hẹp, trong khi ngành khác lại mở rộng, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được phân bố lại giữa các ngành. Hiện tượng này được gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường. Có thể hiểu vai trò điều tiết này thông qua những trường hợp biến động quan hệ cung - cầu xảy ra trên thị trường: - Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ để thoả mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy với lãi cao, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, những người trước đây sản xuất hàng hoá khác nay chuyển sang sản xuất hàng hoá này. Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. - Khi cung lớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hoá bán không chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành này thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này và tăng lên ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn. Quy luật giá trị không chỉ điều tiết lĩnh vực sản xuất, mà còn điều tiết cả lĩnh vực lưu thông qua sự biến động của giá cả. Hàng hoá được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Như vậy, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị có tác dụng phân phối hay điều tiết luồng hàng trên thị trường. Thứ hai: Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, nên có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải đựơc trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội ở thế có lợi, sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch; người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì ở thế bất lợi. Muốn đứng vững trong cạnh tranh và khỏi bị phá sản, họ phải làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá của mình nhỏ hơn, hay bằng giá trị xã hội. Do đó, họ tìm cách cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Lúc đầu việc cải tiến còn lẻ tẻ, nhưng do cạnh tranh với nhau, nên cuối cùng việc cải tiến mang tính xã hội. Rõ ràng, quy luật giá trị thông qua tác động này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thứ ba: Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá. Trong quá trình cạnh tranh chạy theo lợi ích cá nhân, những người sản xuất hàng hoá có điều kiện sản xuất khác nhau, tính năng động khác nhau, khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường khác nhau, khả năng đổi mới kỹ thuật , công nghệ, hợp lý hoá sản xuất khác nhau, do đó giá trị cá biệt của hàng hoá khác nhau, phù hợp với nhu cầu xã hội và thị trường khác nhau. Trong tình trạng đó không tránh khỏi tình trạng một số người giàu lên, mua sắm thếm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, còn một số người khác bị thua lỗ, thu hẹp sản xuất, thậm chí phá sản trở thành người nghèo. Đầu cơ, lừa đảo, khủng hoảng kinh tế làm tăng thêm tácđộng phân hoá này. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có sự điều tiết để hạn chế sự phân hoá giàu nghèo. Chương III: Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 1/ Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về bản chất và cấu trúc của nó. 1.1/ Về bản chất. Bản chất kinh tế thị trường đã quy định việc tổ chức nền kinh tế theo bốn nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc về sở hữu: Với tính đa dạng về hình thức, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo. - Nguyên tắc về cơ chế vận hành: Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Nhà nước nói ở đây là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân. - Nguyên tắc về phân phối và thu nhập: Thực hiện sự kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội (phân phối theo lao động, phân phối thông qua phúc lợi xã hội) và nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường như phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối theo vốn, theo tài sản. - Kết hợp hài hoà giữa văn hoá truyền thống dân tộc và văn hoá hiện đại có chọn lọc, trong đó văn hoá dân tộc là gốc. 1.2/ Về cấu trúc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ bản chất và nguyên tắc cơ bản đã phân tích ở trên có thể hình dung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về mặt cấu trúc thể hiện rõ ở các điểm sau: - Một là: Dựa trên tính đa dạng về hình thức sở hữu và do đó đa thành phần kinh tế. Đặc điểm này có tác dụng tạo tiền đề cho tự do kinh tế (tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ) mà thiếu nó kinh tế thị trường không thể tồn tại và phát triển được. - Hai là: Dựa trên một lực lượng sản xuất sao cho thúc đẩy tăng trưởng cao và lâu bền, đi tắt vào những ngành những lĩnh vực mũi nhọn của thời đại, sớm hình thành cơ cấu thị trường đồng bộ. Tất cả được triển khai theo hướng ưu tiên cho sự hình thành các nhân tố xã hội chủ nghĩa. - Ba là: lấy cơ cấu kinh tế như một hệ thống mở cả trong lẫn ngoài để tồn tại và phát triển kinh tế thị trường. Độ mở của hệ thống kinh tế tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các thành phần kinh tế, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Thích ứng với đặc trưng này là chiến lược về xuất khẩu, chuyển giao công nghệ mới; đồng thời với việc sản xuất thay thế nhập khẩu những hàng hoá ta có điều kiện và lợi thế. - Bốn là: Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện qua vai trò chủ đạo trong thực tế của khu vực kinh tế nhà nước; qua việc giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc dân tộc Việt Nam và qua vai trò quan lý kinh tế vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Như ta đã biết hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường hiện đại đều có sở hữu nhà nước và do đó có khu vực kinh tế nhà nước. Song một vấn đề có ý nghĩa về nguyên tắc là cần phân biệt sự khác về bản chất kinh tế thị trường ở nước ta và kinh tế thị trường ở các nước khác về định hướng phát triển kinh tế thị trường. Một yếu tố rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự tác động của nhà nước thông qua vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường. Với tư cách là cái chung của kinh tế thị trường hiện đại, vai trò nói trên của nhà nước thì các nước đều có, nhưng ở nước ta, vai trò đó có sự khác biệt. 2/ Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Việt Nam là nước phát triển muộn về kinh tế thị trường, lại diễn ra trong bối cảnh khác nhiều so với trước. Để nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, rút ngắn khoảng cách lạc hậu, tụt hậu xa so với các nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn, không thể phát triển theo mô hình kinh tế thị trường cổ điển, mà nên chọn mô hình phát triển kinh tế rút ngắn, hiện đại là thích hợp. Tất nhiên không hoàn toàn giống như các nước đã đi theo mô hình này, nhất là về tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau: - Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa quy luật phát triển tuần tự với quy luật phát triển nhảy vọt. - Phát triển cùng một lúc ba trình độ phát triển của hình thái kinh tế hàng hoá, đó là hình thái kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do (cổ điển) và kinh tế thị trường hỗn hợp (hiện đại). Tất nhiên, trong từng thời điểm, tính trội của mỗi trình độ có khác nhau. - Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, coi trọng việc kết hợp vai trò thúc đẩy sự ra đời các nhân tố của kinh tế thị trường và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại. 3/ Sự vận dụng quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong sự vận động của quy luật giá trị, thì ngoài những tác tích cực thì nó còn có những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Để tận dụng tốt các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực, đòi hỏi chúng ta phải hiểu rõ quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị sao cho có hiệu quả nhất. Cụ thể là: Thứ nhất: Phát triển khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất. Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên thời gian lao động xã hội cần thiết. Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm phải cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội. Xét ở tầm vĩ mô: Mỗi doanh nghiệp phải có các biện pháp để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Do vậy, mỗi người phải luôn tự hoàn thiện mình, nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó: Loại bỏ những nhân tố kém hiệu quả, kích thích các cá nhân, ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Thứ hai: Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là loài bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hoạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra, phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình, thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì. Mặt khác, cùng với xu hướng công khai doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA, WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập ập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trong nước, giữa các doanh nghiệp trong nước và với các doanh nghiệp nước ngoài, giữa cá nhân trong nước với cá nhân trong nước, giữa cá nhân trong nước với cá nhân nước ngoài. Thứ ba: Tạo ra sự năng động của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trước sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thì đòi hỏi các thành phần kinh tế phải năng động. Trong cạnh tranh, mỗi người phải tìm cho mình một con đường đi mới trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau, các con đường đó luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Cạnh tranh năng động sẽ làm cho hàng hoá đa dạng về mẫu mã, nhiều về số lượng, cao về chất lượng. Mặt khác, do sự đào thải của quy luật giá trị thì đòi hỏi các thành phần kinh tế phải năng động. Thứ tư: Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Mỗi nước đều có những lợi thế, ưu thế riêng. Do thời gian và xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110892.doc
Tài liệu liên quan