MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU .1
I. Tính cấp thiết của đề tài 2
II.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu 3
1. Mục tiêu , nhiệm vụ nghiên cứu 3
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 4
3. Phương pháp nghiên cứu 4
B- PHẦN NỘI DUNG 5
I. Sự phát triển các quy định của pháp luật về quyền nhân thân 5
II. Khái niệm và đặc điểm của quyền nhân thân 7
1. Khái niệm quyền nhân thân 7
2. Đặc điểm của quyền nhân thân 8
III. Các quy định của pháp luật về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự 2005
1. Các quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình 10
2. Quyền nhân thân liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân . .
2.1 Quyền của cá nhân đối với họ và tên 14
2.2 Quyền xác định dân tộc 15
2.3 Quyền đối với hình ảnh 15
3. Quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con người trong xã hội 17
3.1 Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể 17
3.2 Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm 19
3.3 Quyền bí mật đời tư 20
4. Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của con người :
4.1 Quyền hiến bộ phận cơ thể người sống, quyền nhận bộ phận cơ thể 21
4.2 Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết 23
4.3 Quyền xác định lại giới tính 24
5. Các quyền liên quan tới hoạt động lao động sáng tạo của cá nhân .26
III. Thực tiễn áp dụng các quy định và hạn chế của các quy định pháp luật .27
IV. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền nhân thân
C- PHẦN KẾT BÀI 34
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13079 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 Bộ luật Dân sự 2005 quy định như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”
Như vậy, quyền bình đẳng của vợ và chồng là quyền nhân thân gắn liền với vợ chống mà không thể chuyển giao cho người khác. Đây là quyền và đồng thời cũng là nghĩa vụ của hai vợ chồng đối với nhau. Quyền được hưởng sự chung thủy của chồng hoặc vợ đối với mình là một quyền nhân thân rất trừu tượng. Do vậy, khi vợ, chồng nghi ngờ vợ hoặc chồng mình có hành vi không chung thủy thường có những hành vi để người còn lại thực hiện nghĩa vụ chung thủy đối với mình. Tuy nhiên, hành vi đó có thể làm ảnh hưởng tới nhân phẩm, danh dự của người còn lại. Hoặc khi vợ chồng rõ ràng vi phạm nghĩa vụ chung thủy, vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng thì người kia có quyền yêu cầu chấm dứt sự vi phạm đó, có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Đó là phương thức hữu hiệu để bảo vệ quyền nhân thân
Những quyền nhân thân giữa vợ chồng luôn có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, khi một quyền bị lạm dụng hoặc xâm phạm thì kéo theo các quyền nhân thân khác cũng bị ảnh hưởng theo
Ba là : Về quyền ly hôn Điều 42 Bộ luật dân sự 2005 quy định như sau:
“Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn.”
Quyền ly hôn đặt trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình là quyền nhân thân gắn với vợ chồng và không thể chuyển giao cho người khác. Bản thân vợ hoặc chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt quan hệ hôn nhân của họ. Pháp luật cho phép vợ hoặc chồng có quyền được xin Tòa án cho hộ ly hôn khi mối quan hệ vợ chồng không thể duy trì được nữa .Tuy nhiên cũng như quyền kết hôn, quyền ly hôn cũng bị hạn chế trong những trường hợp nhất định . Cụ thể, theo quy định tại khoản 2 điều 85 luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì : “Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.” Như vậy, khi vợ đang có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng thì người chồng không được phép ly hôn
Quyền ly hôn, về nguyên tắc chỉ thuộc về vợ - chồng có hôn nhân hợp pháp và hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận. Các trường hợp khác nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì pháp luật không thừa nhận họ là vợ chồng, đương nhiên họ cũng không có quyền ly hôn
Bốn là : Về quyền nhân thân có liên quan tới mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái và các thành viên khác trong gia đình : Người con được quyền khai sinh(Điều 29), có họ tên, thay đổi họ tên (Điều 26, 27) , dân tộc (Điều 28), quốc tịch (Điều 45); được hưởng sự chăm sóc lẫn nhau (Điều 41). Cụ thể hóa các quyền nhân thân cơ bản này, Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định rất cụ thể về các quyền nhân thân cơ bản của cá nhân với tư cách chủ thể là người con trong mối quan hệ với cha mẹ trong chương 4,chương 7, chương 8, chương 10
Điều 44 Bộ luật dân sự 2005 có quy định :
“Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ.
Việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật”
Trong quan hệ giữa cha mẹ và con, người con chưa thành niên chỉ đảm bảo quyền được thừa nhận làm con nuôi khi có những điều kiện nhất định về độ tuổi, về ý chí tự nguyện của người con đó và các chủ thể có liên quan, điều này cũng xuất phát từ các quyền của trẻ em.Khi thực hiện quyền làm con nuôi người khác, người con nuôi đó vẫn không mất đi một quyền nhân thân gắn liền với họ
Quyền nhận nuôi con nuôi là một quyền nhân thân của cá nhân khi đáp ứng các điều kiện do luật Hôn nhân và Gia đình quy định. Có thể nói quyền được nhận nuôi con nuôi đã tạo ra quyền làm cha, làm mẹ của người nhận nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trong quan hệ cha mẹ và con
Ngoài các quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 liên quan tới quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 có nhiều quy định chi tiết hóa các quyền nhân thân của cá nhân trong lĩnh vực này như quyền làm mẹ, quyền xác định cha, mẹ; cha mẹ có quyền đại diện, giám hộ cho con cái theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cũng có quy định thêm các quyền nhân thân giữa các thành viên trong gia đình như ông bà giám hộ cho cháu chưa thành niên( Điều 84 luật hôn nhân và gia đình 2000)
Tóm lại, Bộ luật dân sự 2005 đã có những quy định rất cụ thể về quyền nhân thân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cũng quy định chi tiết về các quyền nhân thân này. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để các cá nhân trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình tôn trọng, hưởng các quyền nhân thân do luật định
2. Quyền nhân thân liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân : Quyền của cá nhân đối với họ và tên, hình ảnh và dân tộc
Trong các quyền nhân thân thì quyền nhân thân mang tính cá biệt hóa cá nhân thể hiện rõ đặc trưng của luật Dân sự. Quyền của cá nhân đối với họ, tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh là những quyền cơ bản và thể hiện sự cá biệt rõ nét nhất trong số các quyền nhân thân mang tính cá biệt hóa cá nhân
2.1 Quyền của cá nhân đối với họ và tên
Mỗi cá nhân sinh ra đều có tên gọi do cha mẹ đặt cho để phân biệt cá nhân đó với những cá nhân khác. Điều 26 Bộ luật dân sự 2005 quy định về quyền của cá nhân đối với họ và tên và Điều 27 quy định về việc thay đổi họ tên.
Mặc dù một người có thể có nhiều tên gọi khác nhau như tên khai sinh, biệt hiệu, bí danh…nhưng khi tham gia quan hệ pháp luật mỗi cá nhân chỉ được công nhận mang một tên riêng đó là tên được ghi trong giấy khai sinh. Quyền đối với họ và tên là một quyền nhân thân của cá nhân.
Cá nhân có quyền này kể từ khi được sinh ra. Tuy nhiên, cá nhân cũng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ tên trong trường hợp : Tên mà họ dùng gây nhầm lẫn, ảnh hưởng tới tình cảm của moi người trong gia đình; theo yêu cầu của cha mẹ nuôi khi nhận con nuôi; theo yêu cầu của cha mẹ đẻ; yêu cầu của người xác định lại giới tính….Trong trường hợp, thay đổi họ tên của người từ 9 tuổi trở lên thì phải được sự đồng ý của họ
Tóm lại, quy định của luật dân sự 2005 về quyền đối với họ tên là khá cụ thể và chi tiết. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp trong giao dịch dân sự liên quan tới vấn đề họ và tên
2.2 Quyền xác định dân tộc
Đây là một trong những quyền nhân thân của cá nhân được quy định tại điều 28 Bộ luật dân sự 2005. Theo đó, cá nhân sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định theo là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha mẹ đẻ. Khác với quyền đối với họ tên, dân tộc của cá nhân được xác đinh theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ chứ không được tự do lựa chon. Dân tộc của cá nhân được hi vào giấy khai sinh khi trẻ được đăng ký khai sinh. Vấn đề xác định lại dân tộc cũng là một phần của quyền nhân thân của cá nhân.Việc xác định lại dân tộc phải thoản mãn các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
2.3 Quyền đối với hình ảnh
Theo Điều 31 Bộ luật dân sự 2005 thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình như sau :
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”
Qua Điều 31 Bộ luật dân sự 2005, ta có thể nhận thấy rằng khung pháp lý chưa đưa ra khái niệm thế nào là quyền đối với hình ảnh. Đây được xem là một trong những khó khăn cho các cơ quan thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới hình ảnh của cá nhân. Cũng như đối với giới luật học, khái niệm này cũng chưa được đề cập một cách khái quát nên việc hiểu quyền nhân thân đối với hình ảnh còn rất mơ hồ và không ai nhân thấy giá trị thật của quyền này.
Chúng ta có thể hiểu khái niệm hình ảnh của cá nhân là bao gồm các hình thức nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, bức tượng cá nhân. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự , chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên, người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.Như vậy, ta có thể hiểu quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân liên quan tới việc tạo dụng , sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh của mình theo ý chí của chính cá nhân đó
Cũng theo quy định tại điều luật này thì pháp luật bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân. Cá nhân có toàn quyền đối với hình ảnh của mình. Bất kỳ hành vi sử dụng hình ảnh nào của cá nhân mà không xin phép chủ sở hữu đều bị coi là vi phạm quyền này.Tuy nhiên, quyền này cũng không phải là tuyệt đối bởi lẽ nó còn bị giới hạn trong trường hợp liên quan tới lợi ích chung và lợi ích Nhà nước thì Nhà nước có quyền sử dụng hình ảnh của cá nhân mà không vi phạm nguyên tắc này.
3. Quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con người trong xã hội: Quyền được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, thân thể; Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền đối với bí mật đời tư
3.1 Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
3.1.1 Quyền được bảo toàn về tính mạng
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng là quyền dân sự của cá nhân, theo đó cá nhân có quyền duy trì sự sống, và quyền làm chủ cuộc sống
Từ bản hiến pháp đầu tiên cho tới những bản hiến pháp sau này đều quy định: “pháp luật bảo hộ về tính mạng cho công dân” luôn được ghi nhận ở ví trị trang trọng. Trở thành quyền hiến định của công dân trong lĩnh vực dân sự. cụ thể hóa quyền đó là nhiệm vụ của các ngành luật trong lĩnh vực dân sự
Pháp luật dân sự quy định quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng là một quyền nhân thân của cá nhân.Nó một lần nữa được quy định tại khoản 1 điều 32 Bộ luật dân sự 2005. Nội dung của nó được thể hiện ở khía cạnh là quyền được cứu chữa quy định tại khoản 2 điều 32 Bộ luật dân sự 2005 : “Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm đưa đến cơ sở y tế; cơ sở y tế không được từ chối việc cứu chữa mà phải tận dụng mọi phương tiện, khả năng hiện có để cứu chữa.”
Đây là quyền có nghĩa về mặt thực tế rất lớn, bởi lẽ tình trạng nguy hiểm tới tính mạng của cá nhân là một hiện tượng khách quan. Quyền này cũng đồng nghĩa với trách nhiệm, bổn phận của người phát hiện có điều kiện và cơ sở y tế.Việc một người có điều kiện nhưng đã không cứu giúp người khác đang trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng cũng là một căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quyền bảo đảm an toàn tính mạng của cá nhân còn thể hiện ở khía cạnh trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với người có hành vi vi phạm. Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999 đã dành 18 điều luật quy định những mức án nghiêm khắc nhất đối với các tội xâm phạm tới quyền sống của con người. Trên phương diện dân sự, trách nhiệm đặt ra đối với hành vi vi phạm này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp một phần những tổn thất gây ra. Cụ thể pháp luật dân sự quy định người có hành vi xâm phạm tới tính mạng của người khác phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc cho người bị thiệt hại trước khi chết, chi phí cho việc mai táng….Mức bồi thường do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì mức tối đa không quá 60 tháng lương tối thiệu do Nhà nước quy định (Điều 610 Bộ luật dân sự )
3.1.2 Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe
Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe của cá nhân là quyền của cá nhân được chăm sóc sức khỏe thường xuyên và quyền được khám, chữa bệnh khi đã mắc bệnh. Có thể nói đây là quyền có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với cuộc sống của con người. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi ngày càng xuất hiện nhiều căn bệnh hiểm nghèo, cướp đi sinh mạng của nhiều người trên thế giới. Việc bảo đảm quyền này không chỉ cần đến hành động chủ động của của chính bản thân cá nhân đó mà nó còn đòi hỏi sự phối hợp hành động của Nhà nước và toàn xã hội
Bộ luật dân sự 1995 lần đầu tiên quy định những quyền nhân thân của cá nhân trong đó có quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe tại điều 32, BLDS 2005 cũng kế thừa những quy định này. Bên cạnh việc thừa nhận nó là một quyền nhân thân, BLDS 2005 còn quy định trách nhiệm dân sự đối với người thực hiện hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác, đó là việc bồi thường thiệt hại. Pháp luật lấy yếu tố chi phí làm căn cứ để xác định thiệt hại. Chi phí đó bao gồm chi phí cho việc chữa bệnh, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút của người bị thiệt hại…..Mức bồi thường do các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định (Điều 609 Bộ luật dân sự)
3.1.3 Quyền được bảo đảm an toàn về thân thể
Quyền được bảo đảm an toàn về thân thể của cá nhân là quyền của cá nhân được tự do thân thể và được bảo đảm sự toàn vẹn của thân thể
Bộ luật dân sự 1995 thừa nhận quyền được bảo đảm an toàn về thân thể của cá nhân tại Điều 32. Trong điều luật, quyền này được thể hiện ở khía cạnh cá nhân có quyền quyết định về an toàn thân thể khi cho phép hay không cho phép một sự tác động từ bên ngoài vào cơ thể của mình đặc biệt trong việc chữa bệnh theo phương pháp mới hoặc trong việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận cơ thể. Theo điều luật trên thì bác sĩ không được phép phẫu thuật nếu không được sự đồng ý của bệnh nhân, nếu bệnh nhân là người chưa thành niên, mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải được sự đồng ý của người đại diện, người giám hộ của bệnh nhân.Tuy nhiên trong điều luật này thì cũng phải xét tới tình trạng nguy kịch của bệnh nhân cần phẫu thuật ngay, bác sĩ có thể tiến hành phẫu thuật không cần chờ ý kiến của người thân, người đại diện của bệnh nhân với sự cho phép của người đứng đầu cơ sở chữa bênh
Bộ luật dân sự 2005 ra đời một lần nữa khẳng định tính ổn định của quyền được bảo đảm an toàn về thân thể khi đã kế thừa toàn bộ nội dung quy định trong bộ luật dân sự 1995. Tuy nhiên, tính khả thi của quyền này được đẩy cao hơn khi có sự thay đổi về mặt thuật ngữ “người thân thích” trong bộ luật năm 1995 được cụ thể hơn trong bộ luật dân sự 2005 là “ vợ, chồng, con đã thành niên” ;sự thay đổi này làm cho điều luật dễ hiểu hơn
3.2 Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
Điều 37 Bộ luật dân sự quy định : “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”
Danh dự của cá nhân thể hiện sự coi trọng của dư luận xã hội đối với cá nhân đó, dựa trên những giá trị tinh thần đạo đức tốt đẹp. Nhân phẩm của con người là những phẩm chất và giá trị con người của cá nhân đó. Uy tín cá nhân thể hiện sự tín nhiệm và mến phục của cộng đồng hoặc một bộ phận dân sự đối với cá nhân. Cả 3 yếu tố trên tuy có tính độc lập tương đối nhưng lại đều hướng tới sự thể hiện giá trị tinh thần của cá nhân.
Theo điều 37 Bộ luật dân sự hiện hành, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền nhân thân. Mỗi cá nhân đều có quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình và đồng thời cũng có nghĩa vụ phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Điểm đặc biệt của quyền nhân thân về danh dự, nhân phẩm, uy tín so với các quyền nhân thân khác là ở chỗ quyền này được tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối. Dù trong bất kỳ trường hợp nào pháp luật cũng không cho phép đụng chạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Vì vậy, không ai có thể viện bất kỳ lý do nào để bào chữa cho hành vi xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, kể cả việc làm nhục kẻ phạm tội
3.3 Quyền bí mật đời tư
Quyền bí mật đời tư là một trong những quyền nhân thân cơ bản của con người. Nó được ghi nhân trong các văn bản pháp lý có hiệu lực cao như: Hiến pháp 1992,cụ thể hóa tại điều 38 bộ luật Dân sự 2005 và nhiều văn bản khác liên quan.
Tuy nhiên các văn bản này cũng như Bộ luật dân sự đều không định nghĩa như thế nào là “bí mật đời tư”. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin liên quan tới cá nhân mà bản thân cá nhân đó không muốn để người khác được biết. Quyền bí mật đời tư là quyền của cá nhân đối với các thông tin bản thân họ không muốn tiết lộ. Theo quy định tại điều 38 bộ luật dân sự 2005 thì ta có thể xác định nội dung của quyền bí mật đời tư như sau :
+ Cá nhân có quyền đối với các thông tin, tư liệu của mình : Có nghĩa là cá nhân có quyền công bố hoặc không công bố các thông tin liên quan tới bản thân họ ( ví dụ như : một hình ảnh, một kỷ vật…); khi cá nhân không công bố có nghĩa là thông tin này được coi là bí mật. Bất kỳ hành vi tiết lộ thông tin nào mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đều bị coi là xâm phạm quyền bí mật đời tư
+ Cá nhân có quyền bí mật đối với thư tín, thư tín và các hình thức thông tin điện tử khác : Có nghĩa là thư tín, điện tín và các hình thức thông tin khác của cá nhân chứa đựng những thông tin được chuyền tải giữa người gửi và người nhận thì chỉ có người gửi và người nhận biết.Pháp luật bảo vệ quyền bí mật này của cá nhân. Những người khác không có quyền can thiệp vào nội dung thông tin này. Tuy nhiên, việc bí mật trong thư tín và các hình thức thông tin khác cũng chịu sự giới hạn của pháp luật trong một số trường hợp cần thiết. Ví dụ như trong trường hợp quy định tai điều 140 Bộ luật tố tụng dân sự : “ Khi cần phải thi thập tài liệu, đồ vật liên quan tới vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm….”
Hoàn thiện pháp luật về đời tư và quyền bí mật đời tư là một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay, bởi lẽ trong thời gian gần đây, có nhiều vụ việc liên quan tới bí mật đời tư đã gây xôn xao dư luận, thậm chí có cả vụ việc đã Tòa án giải quyết như công bố danh tính những người giàu nhất Việt Nam, công khai thuế thu nhập cá nhân, công khai chuyện ly hôn của một cá nhân trên phương tiện thông tin đại chúng
Hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư đa dạng, đó có thể là tiết lộ thông tin bí mật, có thể là chiếm đoạt hoặc hủy hoại thông tin
Tùy thuộc vào mức độ của hành vi xâm phạm bí mật đời tư, người xâm phạm có thể bị xử lý hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc phải bồi thường thiệt hại
4. Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của con người : Quyền hiến bộ phận cơ thể, Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Quyền xác định lại giới tính
4.1 Quyền hiến bộ phận cơ thể người sống, quyền nhận bộ phận cơ thể
Quyền hiến bộ phận cơ thể là quyền nhân thân lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 33 của Bộ luật Dân sự 2005. Đây thực sự là một quyền rất mới mẻ đối với nước ta và có ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Đầu tiên, ta phải hiểu “Hiến bộ phận cơ thể là việc cá nhân tự nguyện cho bộ phận cơ thể mình kho còn sống. Trong đó bộ phận cơ thể được hiểu là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định”
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của cá nhân thể hiện ở những nội dung sau :
+ Nguyên tắc của việc hiến mô, bộ phận cơ thể phải xuất phát từ sự tự nguyện của người hiến và hướng tới mục đích nhân đạo.
Bởi lẽ cá nhân được pháp luật bảo vệ quyền tự do thân thể cũng như quyền bất khả xâm phạm thân thể nên việc hiến mô, bộ phận cơ thể phải tuyêt đối tuân thủ nguyên tắc này. Sự tự nguyên của người hiến được thể hiện ở việc người hiến chủ động thể hiện ý chí độc lập của mình khi quyết định cho các bộ phận trên cơ thể mình mà không bị chi phối của bất kỳ yếu tố nào thông qua đơn hiến mô,bộ phận cơ thể gửi tới tram y tế.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước đều xác định rõ mục đích của việc hiến mô, bộ phận cơ thể phải từ mục đích nhân đạo, phi thương mại. Tức là việc hiến phải phục vụ mục đích giảng dạy, chữa bệnh, nghiên cứu…không nhằm mục đích thương mại
+ Về độ tuổi của người hiến: Để đmả bảo yếu tố tự nguyện cũng như sức khỏe của người hiến mô, bộ phận cơ thể thì người hiến phải đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
+ Các cơ sở y tế là nơi tiếp nhân đơn của những người có nhu cầu hiến mô, bộ phận cơ thể
+ Cá nhân thể hiện nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể thông qua đơn gửi đến cơ sở y tế chính là việc cá nhân đã đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể. Việc đăng ký này có hiệu lực kể từ khi cơ sở y tế nhận được đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể của người hiến
+ Để khuyến khích việc hiến mô, cơ thể người sống chúng ta cũng cần phải có những chính sách ưu tiên hoặc những quyền lợi nhất định đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể như cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, được chăm sóc sức khỏe định kỳ….
Quyền nhận bộ phận cơ thể
Điều 35 Bộ luật dân sự 2005 quy định như sau : “Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình”
Đây cũng là một quyền mới được quy định trong luật dân sự. Theo điều luật trên thì mục đích của việc nhận mô, bộ phận cơ thể là để chữa bệnh chứ không có mục đích nào khác. Quyền nhận mô, bộ phận cơ thể liên quan mật thiết với hoạt động lấy mô, bộ phận cơ thể và ghép mô, bộ phận cơ thể trong đó lấy mô và ghép mô được hiểu như sau :
+ Lấy mô, bộ phận cơ thể là việc tách mô, bộ phận cơ thể người hiến khi còn sống
+ Ghép mô, bộ phận cơ thể người là việc cấy ghép mô hoặc bộ phận cơ thể tương ứng của cơ thể người hiến lên cơ thể người được ghép
Có thể nói rằng việc thừa nhận quyền được nhận mô, bộ phận cơ thể là quyền có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa nhân đạo lớn lao. Quyền này trở thành cơ hội được sống của nhiều người bệnh, đồng thời cũng tạo điều kiện cho ngành ghép tạng của Việt Nam phát triển ngang tâm quốc tế
4.2 Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, Bộ luật dân sự 2005 đã quy định quyền hiến xác, bộ phận cơ thể như một quyền nhân thân tại 34 như sau : “Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết”. Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể không những là bước tiến mới trong pháp luật dân sự Việt Nam, mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn. Nó tạo ra hàng ngàn cơ hội sống sót và chữ bệnh của những người đang bị bệnh hiểm nghèo và tạo ra nhiều sinh viên có chuyên môn cao hơn khi đã được thực hành trong nhà trường
Cũng như quyền hiến mô, bộ phận cơ thể sống, quyền hiến xác cũng cần có sự tự nguyện của người hiến . Xong, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chêt là một quyền nhân thân đặc biệt, nó chỉ được thực hiện khi người hiến chết nên dẫn tới nhiều khó khăn cho việc thực hiện quyền này, bởi vì khi người hiến chết đi thì bản thân người hiến không thể biết được ý chí của mình có được thực hiện hay không ?
Nhiều trường hợp trên thực tế, người hiến đồng ý hiến mô, bộ phận cơ thể mình sau khi chết, tuy nhiên người nhà, người thân thích của họ lại không đồng ý việc này. Hoặc khi người chết không có thẻ hiến xác mà người nhà họ lại mong muốn hiến xác để thực hiện nghĩa cử cao đẹp thì sẽ xử lý ra sao. Vậy sẽ giải quyết như thế nào trong trường hợp đó ? Pháp luật còn đang bỏ ngỏ vấn đề này.
Chính vì vậy, pháp luật dân sự cần có những quy định cụ thể hơn trong những trường hợp liên quan tới hiến xác, bộ phận cơ thể người chết
4.3 Quyền xác định lại giới tính
Đây là quyền nhân thân cũng lần đầu tiên được quy định tại Điều 36 Bộ luât dân sự 2005 : “ Cá nhân có quyền được xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật”
Như vậy, Bộ luật dân sự chỉ quy định quyền xác định lại giới tính chứ không quy định quyền thay đổi giới tính. Quy định về quyền xác định lại giới tính tạo điều kiện cho những người vì lý do tự nhiên hoặc bị trục trặc về giới tính nên được xác định đúng giới tính của mình. Mặt khác, hạn chế tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thay đổi giới tính
Tuy nhiên, xung quanh việc xác định lai giới tính, thay đổi giới tính thì các vấn đề liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân sẽ xử lý như thế nào? Ví dụ như vấn đề thay đổi các chứng thư hộ tịch cuẩ cá nhân. Pháp luật dân sự cũng không có những quy định cụ thể trong vấn đề này. Mặt khác, các quy định của các chuyên ngành luật liên quan cũng không đề cập tới tình huống này, chẳng hạn Luật Hôn nhân và gia đình 2000 cũng không dự liệu vấn đề hôn nhân của những người chuyển đổi giới tính…Thiết nghĩ, pháp luật dân sự cần chú ý những nội dung này trong quá trình hoàn thiện pháp luật
5. Các quyền liên quan tới hoạt động lao động sáng tạo của cá nhân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy định của pháp luật dân sự về quyền nhân thân.doc