LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA 2
I. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa theo công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế 2
II. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại Việt Nam 2005 4
CHƯƠNG II: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VÀ THEO LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2005 7
I. Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo công ước Viên 1980 7
1. Sự hình thành và phát triển của công ước Viên 1980 7
2. Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo công ước Viên 1980 9
II. Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại Việt Nam 2005 17
1. Sự hình thành và phát triển của luật thương mại Việt Nam 2005 17
2. Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại Việt Nam 2005 19
III. So sánh quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo công ước Viên 1980 và theo luật thương mai Việt Nam 2005 26
1. Sự giống nhau 26
2. Sự khác nhau 28
Chương III: Một số kiến nghị 31
KẾT LUẬN 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8309 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại Việt Nam 2005 và Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uối cùng Working Group đã quyết định soạn thảo 1 dự thảo mới. Từ năm 1970- 1978, nhóm đã làm làm việc 7 lần để xem xét nội dung của Công ước mua bán hàng hóa sẽ được soạn thảo; và thêm vào đó là 2 lần để chuẩn bị nội dung điều chỉnh sự hình thành hợp đồng mua bán hàng hóa. Working Group đã đệ trình một bản dự thảo mua bán tới hội đồng năm 1977, và nội dung của bản dự thảo về sự hình thành đó vào năm 1978. Sau khi danh sách các dự thảo này, hội đồng đã quyết định hợp nhất nội dung các dự thảo này và yêu cầu tới General Assembly triệu tập cuộc họp quốc tế để xem xét nội dung của UNCITRAL năm 1978. General Assembly đã ban hành ra lệnh triệu tập cuộc họp quốc tế vào tháng 3-4/1980 tại trụ sở của UNCITRAL ở Viên với sự tham gia của của 62 đại biểu của các quốc gia, đại diện cho các khu vực của cộng đồng thế giới. Tại đây, hội nghị đã quyết định thông qua và ban hành Công ước Viên 1980 để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
Hiện nay đã có rất nhiều quốc gia tham gia là thành viên cảu Công ước này. Hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được điều chỉnh bởi Công ước này. Bởi vì hầu hết các hợp đồng này được kí kết giữa các thành viên của Công ước, hay theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế thì luật áp dụng là Công ước, hoặc cũng do sự thỏa thuận của các bên chọn Công ước Viên là luật áp dụng.
Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo công ước Viên 1980
Giao hàng và chuyển giao chứng từ có liên quan:
Điều 30 CƯV quy định “Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá theo đúng quy định của hợp đồng và của Công ước này”. Vì tính chất của hợp đồng là thỏa thuận ý chí của các bên nên việc giao hàng và chuyển chứng từ được ưu tiên thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng. Thông thường, khi các bên ký kết với nhau thường sẽ thỏa thuận về địa diểm giao hàng, cách thức giao hàng, diều kiện giao hàng… hay sẽ thỏa thuận các tập quán mà các bên đã có hay sử dụng incoterm và những thỏa thuận này sẽ được quy định tai các điều khoản của hợp đồng. Và đây cũng là cơ sở để các bên thực hiện hợp đồng và cũng là căn cứ cho các bên bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm hại.
Trong trường hợp hợp đồng không quy định người bán bắt buộc phải giao hàng tại một nơi nhất định nào đó, thì nghĩa vụ giao hàng của người này là:
“Nếu hợp đồng mua bán quy định cả việc vận chuyển hàng hoá thì người bán phải giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên để chuyển giao cho người mua;quy định này áp dụng trong trường hợp hợp đồng có quy định về việc vận chuyển. Và người bán chỉ có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên.
nếu trong những trường hợp không dự liệu bởi điểm nói trên, mà đối tượng của hợp đồng mua bán là hàng đặc định hoặc là hàng đồng loại phải được trích ra từ một khối lượng dự trữ xác định hoặc phải được chế tạo hay sản xuất ra và vào lúc ký kết hợp đồng, các bên đã biết rằng hàng đã có hay đã phải được chế tạo hoặc sản xuất ra tại một nơi nào đó thì người bán phải có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi đó. Đây là một địa điểm mà người mua sẽ đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người bán trong trường hợp hợp đồng không dự liệu các điểm nói trên và hàng hóa trong hợp đồng là hàng đồng loại hay hàng đặc định được trích ra từ một khối lượng dự trữ.
trong các trường hợp khác, người bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi nào mà người bán có trụ sở thương mại vào thời điểm ký kết hợp đồng”. Như vậy, trong các trường hợp khác, trụ sở thương mại của người bán vào thời điểm kí kết hợp đồng là địa điểm để người bán đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua.
-Về thời hạn giao hàng thì theo điều 33 Công ước này, bên bán phải giao hàng đúng vào ngày giao hàng mà hợp đồng đã quy định, hay có thể xác định được bằng cách tham chiếu vào hợp đồng. Nếu hợp đồng có ấn định thời khoảng thời gian giao hàng hay có thể xác định khoảng thời gian đó bằng cách tham chiếu vào hợp đồng nếu như không thể căn cứ vào các tình tiết để biết ngày giao hàng mà người mua ấn định là ngày nào thì người bán có thể giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian đó. Còn trong trường hợp khác thì người bán giao hàng và chứng từ trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi ký kết hợp đồng.
Về việc chuyển giao chứng từ thì theo điều 34 quy định: “Nếu người bán phải có nghĩa vụ phải giao các chứng từ liên quan đến hàng hoá thì họ phải thi hành nghĩa vụ này đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng hình thức như quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp người bán giao chứng từ trước kỳ hạn, thì họ có thể, trước khi hết thời hạn quy định sẽ giao chứng từ, loại bỏ bất kỳ điểm nào không phù hợp với chứng từ với điều kiện là việc làm này không gây cho người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên, người mua vẫn có quyền đòi người bán bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này”.
b. Đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng và quyền của người thứ ba.
Ngoài nghĩa vụ giao hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hóa phù hợp với các điều khoản của hợp đồng và phù hợp với các quy định của Công ước này thì người bán còn có nghĩa vụ đảm bảo tính phù hợp của hàng háo đối với hợp đồng và quyền của người thứ ba đối với hàng hóa đó. Điều 35.1 quy định “. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu”. Tuy nhiên Công ước Viên không quy định thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng mà chỉ đưa ra các trường hợp hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng. Khoản 2 điều 35 Công ước này quy định: “2. Ngoại trừ những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:
a. Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng.
b. Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.
c. Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã cung cấp cho người mua.
d. Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo vệ hàng hoá đó”. Khi tham gia ký kết các hợp đồng, các bên có thể đưa ra các điều khoản quy định các trường hợp hàng hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng. Và đương nhiên các bên chỉ cần dựa vào đó mà xem xét hàng hóa đó có phù hợp với hợp đồng hay không. Còn trong trường hợp các bên không thỏa thuận thì tính phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng sẽ được xem xét dựa trên các quy định này của Công ước. Khi giao hàng thì người mua có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng hóa hoặc bảo đảm có sự kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn ngắn nhất mà thực tế có thể làm được tùy từng trường hợp cụ thể.
Vậy nếu người bán giao hàng không phù hợp với hợp đông thì trách nhiêm của các bên ra sao?
Khi người bán giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì theo điều 36 quy định, người bán sẽ phải chịu trách nhiệm chiếu theo hợp đồng và Công ước này vào lúc chuyển giao quyền rủi ro cho người mua, ngay cả khi sự không phù hợp của hàng hóa chỉ được phát hiện sau đó. Sau thời điểm chuyển giao hàng hóa nói trên, người bán vẫn phải chịu trách nhiệm về sự không phù hợp của hàng hóa nếu sự không phù hợp đó là hậu quả của việc người bán vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào của mình kể cả việc không thể hoàn toàn đảm bảo rằng trong một thời hạn nào đó, hàng hóa vẫn thích hợp cho mục đích sử dụng thông thường hay mục đích cụ thể hoặc vẫn duy trì được những tính chất hay đặc tính đã quy định. Người bán cũng chịu trách nhiệm về mọi sự không phù hợp của hàng hóa xảy ra sau thời điểm đã nói ở điểm trên và là hậu quả của việc người bán vi phạm bất cứ một nghĩa vụ nào của mình.
Điều 37 quy định trong trường hợp giao hàng trước thời hạn, người bán có quyền, cho tới trước khi hết hạn giao hàng, giao một phần hay một số lượng thiếu, hoặc giao hàng mới thay cho hàng đã giao không phù hợp với hợp đồng, hoặc khắc phục mọi sự không phù hợp của hàng hóa đã giao với điều kiện là việc làm đó của người bán không gây cho người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên người mua có quyền đòi hỏi bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.
Tuy nhiên theo quy định tại điều 39 thì người bán sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với sự không phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng nếu như người mua không thông báo cho người bán những tin túc về việc không phù hợp đó trong thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó. Và khoản 2 điều này quy định trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người bán biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo hành quy định trong hợp đồng.
Tuy nhiên theo quy định tại điều 40 thì người bán không có quyền viện dẫn các quy định của các điều 38 và 39 nếu như sự không phù hợp của hàng hóa liên quan đến các yếu tố mà người bán đã biết hoặc không thể không biết và họ đã không thông báo cho người mua.
Quyền của người thứ 3 đối với hàng hóa
Điều 41 quy định trách nhiệm của người bán là phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy.
Tuy nhiên, nếu những quyền hạn và yêu sách đó được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ khác thì nghĩa vụ của người bán sẽ được điều chỉnh theo điều 42. Đó là người bán phải có nghĩa vụ giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu trí tuệ khác mà người bán đã biết hoặc không biết vào thời điểm ký kết hợp đồng, với điều kiện nếu các quyền và yêu sách nói trên được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác.
a. Chiểu theo pháp luật của quốc gia nơi hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng bằng cách khác, nếu các bên có dự đoán vào lúc ký kết hợp đồng rằng hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng bằng cách khác tại quốc gia đó, hoặc là:
b. Trong mọi trường hợp khác - chiểu theo luật pháp của quốc gia có trụ sở thương mại của người mua.
Trong trường hợp sau đây, người bán không bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ nêu trên, nếu:
a. Vào lúc ký kết hợp đồng, người mua đã biết hoặc không thể không biết về sự hiện hữu của quyền lợi hay yêu sách nói trên, hoặc là:
b. Quyền lợi hay yêu sách bắt nguồn từ sự kiện người bán đã tuân theo các bản thiết kế kỹ thuật, hình vẽ, công thức hay những số liệu cơ sở do người mua cung cấp.
Tuy nhiên, theo quy định tại điều 43 thì người bán sẽ không phải chịu trách nhiệm này nếu như người mua không thông báo cho người bán những tin tức về tính chất của quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba, trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về quyền hoặc yêu sách đó. Tuy nhiên trong trường hợp người bán đã biết về quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba và về tính chất của quyền hạn hay yêu sách đó thì người bán không được miễn trách nhiêm nói trên.
c. Quyền và nghĩa vụ của người bán trog trường hợp có sự vi phạm hợp đồng
Theo quy định tại điều 61 thì nếu người mua không thực hiện một nghĩa vụ nào đó theo hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người bán có thể:
“a. Thực hiện các quyền quy định tại các điều 62 và 65.
b. Ðòi bồi thường thiệt hại như quy định tại các điều từ 74 đến 77.”
Tuy nhiên theo quy định tại khoản 2 điều này thì người bán không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền áp dụng các biện pháp bảo hộ pháp lý khác.
Người bán có thể yêu cầu người mua trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của người mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác không thích hợp với các yêu cầu đó
Theo điêu 63 thì:
1. Người bán có thể chấp nhận cho người mua một thời hạn bổ sung hợp lý để thực hiện nghĩa vụ của mình.
2. Trừ phi nhận được thông báo của người mua cho biết sẽ không thực hiện nghĩa vụ trong thời gian ấy, người bán, trước khi mãn hạn, không thể viện dẫn bất cứ một biện pháp bảo hộ pháp lý nào mà họ được sử dụng trong trường hợp người mua vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, do sự việc này, người bán không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại vì người mua chậm thực hiện nghĩa vụ.
Trong trường hợp người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng, hoặc nếu người mua không thi hành nghĩa vụ trả tiền hoặc không nhận hàng trong thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận cho họ chiếu theo khoản 1 điều 63 hay nếu họ tuyên bố sẽ không làm việc đó trong thời hạn ấy. thì người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng
Tuy nhiên trong những trường hợp khi người mua đã trả tiền, người bán mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu họ không làm việc này:
“ a. Trong trường hợp người mua chậm thực hiện nghĩa vụ - trước khi người bán biết nghĩa vụ đã được thực hiện, hoặc:
b. Trong trường hợp người mua vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào khác ngoài việc chậm trễ - trong một thời hạn hợp lý:
- Kể từ lúc người bán đã biết hay đáng lẽ phải biết sự vi phạm đó, hoặc:
- Sau khi hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận chiếu theo khoản 1 điều 63 hay sau khi người mua đã tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn bổ sung đó.”
Ðiều 65 quy định quyền của người bán có thể tự mình xác định hàng hóa chiếu theo nhu cầu của người mua mà họ có thể biết mà không làm hại đến các quyền lợi khác nếu theo hợp đồng người mua phải xác định hình dáng, kích thước hay những đặc điểm khác đặc trưng của hàng hóa và nếu người mua không làm điều ấy vào thời hạn đã thỏa thuận hay trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc nhận được yêu cầu của người bán, Nếu chính người bán tự mình thực hiện việc xác định hàng hóa, họ phải báo chi tiết cho người mua biết nội dung việc xác định và cho người mua một thời hạn hợp lý để người này có thể xác định khác. Nếu, sau khi nhận được thông báo của người bán mà người mua không sử dụng khả năng này trong thời hạn nói trên, thì sự xác định hàng hóa do người bán thực hiện có tính chất bắt buộc.
Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại Việt Nam 2005
Sự hình thành và phát triển của luật thương mại Việt Nam 2005
Luật Thương mại đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 10 tháng 5 năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1998. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất từ trước đến nay quy định thống nhất về hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Thương mại năm 1997 đã có những tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại vào nề nếp, khuyến khích và phát triển hoạt động thương mại hợp pháp, ngăn chặn và xử lý hành vi bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thương mại.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải sửa đổi vì nhiều lý do, trong đó có thể kể đến các lý do cơ bản sau đây:
- Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do có một số nội dung chưa phù hợp với thực tiễn phát triển của hoạt động thương mại tại Việt Nam
- Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế
- Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do còn có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với những quy định khác của pháp luật trong nước
- Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do có những quy định bất cập trong bản thân Luật, không phản ánh được quá trình vận động của thực tiễn thương mại
* Nguyên tắc chỉ đạo việc soạn thảo dự luật thương mại 2005
- Bảo đảm thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng chính sách, pháp luật thương mại tạo điều kiện phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ là vấn đề trọng tâm.
- Tôn trọng và phát huy quyền tự do hoạt động thương mại
- Phù hợp với các nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự, trong đó nguyên tắc tôn trọng tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được xác định là nền tảng của hoạt động thương mại
- Phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành về thương mại, trong đó Luật Thương mại điều chỉnh những nguyên tắc, định chế chung của thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ
- Bảo đảm sự phù hợp với các Điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập và pháp luật, tập quán thương mại quốc tế
- Bảo đảm tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước nhưng không gây cản trở cho hoạt động thương mại hợp pháp trên thị trường
Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại Việt Nam 2005
a. Giao hàng và chuyển giao chứng từ có liên quan
Điều 34 Luật thương mại 2005 quy định về giao hàng và chứng từ liên quan đến hàng hóa: “ Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng; Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của Luật này.”
Địa điểm giao hàng: Điều 35 quy định địa diểm giao hàng: “Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận. Thông thường, các bên thường đưa vào hợp đồng các điều khoản thỏa thuận về điạ điểm. Tuy nhiên không phải tất cả các hợp đồng đều có sự thỏa thuận của các bên về địa điểm. Theo quy định tại khoản2 điều 35 quy định “trong trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau:
a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó;
b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó;
d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.
Để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa này, các bên thỏa thuận địa điểm giao hàng mà tai đó người bán giao hàng và nhận tiền, còn người mua nhận hàng và thanh toán tiền. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào đích thân bên mua hoặc bên bán tiến hành hoat động trên mà các bên có thể sẽ ký kết các hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Như vậy sẽ xuất hiện trách nhiệm giao hàng của ngời bán có liên quan đến người vận chuyển. Điểm b điều 35 quy định nếu hợp đồng không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thi nếu trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên. Điều 36 quy định:
“1. Trường hợp hàng hóa được giao cho người vận chuyển nhưng không được xác định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức khác thì bên bán phải thông báo cho bên mua về việc đã giao hàng cho người vận chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận biết hàng hoá được vận chuyển.
2. Trường hợp bên bán có nghĩa vụ thu xếp việc chuyên chở hàng hoá thì bên bán phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện tới đích bằng các phương tiện chuyên chở thích hợp với hoàn cảnh cụ thể và theo các điều kiện thông thường đối với phương thức chuyên chở đó.
3. Trường hợp bên bán không có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển, nếu bên mua có yêu cầu thì bên bán phải cung cấp cho bên mua những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá và việc vận chuyển hàng hoá để tạo điều kiện cho bên mua mua bảo hiểm cho hàng hoá đó.”
Về thời hạn giao hàng thì theo điều 36 quy định bên bán phải giao hàng đúng vào thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng. Thời gian hợp lý này được tính dựa trên tính chất của hợp đồng cũng như tính chất của hàng hóa đó……Thông thường, các bên dựa trên các điều khoản của hợp đồng để thực hiện hợp đồng đó. Tuy nhiên cũng có trường hợp mà người bán đã giao hàng trước thỏa thuận. Theo điều 38 thì “trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Khi người bán tiến hành giao hàng cho người mua thì đồng thời người bán cũng phải giao chứng từ liên quan đến hàng hóa. Cũng theo nguyên tắc tự do ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng mà có thể có các điều khoản về việc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa. Theo điều 42 quy định thì trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận. Còn trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn, địa điểm giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua thì bên bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn và tại địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng và việc giao chứng từ cũng phải phụ thuộc vào việc giao hàng hóa của các bên. Trong trường hợp bên bán đã giao chứng từ liên quan đến hàng hoá trước thời hạn thỏa thuận thì bên bán vẫn có thể khắc phục những thiếu sót của các chứng từ này trong thời hạn còn lại. Khi bên bán thực hiện việc khắc phục những thiếu sót quy định tại khoản 3 Điều này mà gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên mua thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó.
b. Đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng và quyền của người thứ ba:
Hàng hóa là đối tượng mà các bên hướng tới, là mục đích để các chủ thể tiến hành các họat động mua bán này. Chính vì thế mà sự phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng là một yếu tố quan trọng. Khi vi phạm điều này cũng chính là vi phạm những điều khoản cơ bản của hợp đồng. Chính vì vậy mà LTM cũng quy định về quyền và nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Tai khoản 1 điều 44 quy định trường hợp các bên có thỏa thuận để bên mua hoặc đại diện của bên mua tiến hành kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng thì bên bán phải đảm bảo cho bên mua hoặc đại diện của bên mua có điều kiện tiến hành kiểm tra. Khoản 1 điều 39 quy định hàng hoá không phù hợp với hợp đồng
“Trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể thì hàng hoá được coi là không phù hợp với hợp đồng khi hàng hoá đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hoá cùng chủng loại;
b) Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;
c) Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hoá mà bên bán đã giao cho bên mua;
d) Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường”. Như vậy, trước tiên, hàng hóa đó có phải phù hợp với hợp đồng hay không là phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Nếu hàng hóa đáp ứng đủ các điều kiện quy định trong hợp đồng là không phù hợp vơí hợp đồng thì người bán phải chịu trách nhiệm về sự không phù hợp đó. Trong trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể thì hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 43. Khoản 2 điều này quy định “bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này”. Như vậy khi kiểm tra hàng hóa mà phát hiện ra hàng hóa đó không phù hợp với hợp đồng thì người mua có thể từ chối nhận hàng vào ngay lúc đó.
Vậy trách nhiệm của người bán đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng là như thế nào?
Điều 40 quy định trách nhiệm đối với hàng hoá không phù hợp với hợp đồng. Theo khoản 1 điều này thì trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng cũng được ưu tiên xét theo thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về những khiếm khuyết đó; trừ trường hợp nay thì trong thời hạn khiếu nại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24905.doc