MỤC LỤC
Lời cảm ơn
A - Phần mở đầu
I - Lý chọn đề tài:
II - Mục đích nghiên cứu:
III - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
IV - Phương pháp nghiên cứu:
B - Phần nói chung
Chương I:
Những cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
I - Cơ sở lý luận:
1- Một số vấn đề liên quan đến nội dung dạy học:
2. Nguyên tắc dạy học chính tả:
II - Cơ sở thực tiễn:
1/ Trong quá trình giảng dạy, điều tra, khảo sát đối với phân môn chính tả, chúng tôi thấy cần phải sử dụng những đồ dùng dạy học đó là:
2/ Tài liệu dạy học:
3/ Bài chính tả chương trình mới có cấu trúc:
Chương II:
Đề xuất một số biện pháp
I - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân môn chính tả lớp 3:
1/ Đối với giáo viên:
2/ Về phía học sinh:
II - Đổi mới nội dung dạy học:
III - Đổi mới về phương pháp:
IV - Thực nghiệm:
Giáo án giảng dạy
Tường thuật tiết dạy
Tài liệu tham khảo 2
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 31286 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rèn kỹ năng viết đúng phân môn chính tả cho học sinh lớp 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Âm “cờ” viết là k
Âm “gờ” viết là gh
â “ngờ” viết là ngh
+ Khi đứng trước các nguyên âm còn lại:
âm “cờ” viết là c
âm “gờ” viết là g
â “ngờ” viết là ng
(Khi đứng trước âm đệm - viết là u, thì âm “cờ” viết là g)
Ngoài ra, ngoài ra ta còn dựa vào những kiến thức về từ vựng ngữ nghĩa để lập các quy tắc, các “mẹo” chính tả.
Ví dụ: Những từ nghi ngờ viết tr hay ch, nếu chúng chỉ những đồ dùng trong gia đình, thì hầu hết được viết là ch đ chai, chén chăn, chiếu, chảo, chum, chỉnh, chạm, chỏng, chậu…
Tóm lại, phát huy tính có ý thức trong dạy chính tả sẽ tiết kiệm được thì giờ và mang lại kết quả nhanh chóng, chắc chắn, cụ thể (có thể kiểm tra được ngay), hơn nữa, còn gây được hứng thú cho học sinh. Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức được coi là nguyên tắc cơ bản, chủ đạo trong việc dạy chính tả cho học sinh.
2.3/ Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực (xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai).
- Bên cạnh phương pháp tích cực (cung cấp cho học sinh các quy tắc chính tả, hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kỹ năng kỹ xảo chính tả), cần phối hợp áp dụng phương pháp tích cực (tức là đưa ra những trường hợp viết sai chính tả, hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa, rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng) nói cách khác, việc hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả cần tiến hành đồng thời với việc hướng dẫn học sinh loại bỏ các lỗi chính tả trong các bài viết.
- Về các lỗi chính tả của học sinh, trên đại thể có ba loại lỗi cơ bản sau:
+ Lỗi chính tả do không nắm vững chính tự: Loại lỗi này thường gặp khi viết các phụ âm đầu: d/gi; tr/ch; ng/ngh; s/x … để sửa loại này học sinh cần nắm vững các quy tắc chính tả, nhớ kỹ mặt chữ trong các từ có phụ âm đầu dễ lẫn lộn…
+ Lỗi chính tả do không nắm vững cấu trúc âm tiết Tiếng Việt. Vì không hiểu cấu trúc nội bộ của âm tiết Tiếng Việt nên học sinh viết thừa, viết sai.
VD: Qúet sạch, qoanh co, khúc khuỷ, ngoằn ngèo… Để sửa loại lỗi này học sinh cần hiểu âm tiết Tiếng Việt được cấu thành bởi mấy thành phần, là những thành phần nào, vị trí của từng thành phần trong âm tiết…
+ Lỗi chính tả do viết theo lỗi pháp âm địa phương hoặc do không nắm vững chính âm. Loại lỗi này mỗi địa phương sai một khác. Có vùng viết d thành r, có vùng viết l thành n… để sửa loại lỗi này, học sinh cần nắm vững chính âm trong Tiếng Việt, cần tập phát âm đúng chuẩn, tập viết nhiều lần những lỗi mà địa phương mình thường mắc. Cũng có thể xây dựng các “mẹo” để giúp học sinh viết đúng.
- Để học sinh sửa các loại lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây dựng cái đúng, đi từ cái sai đến cái đúng, giáo viên có thể nêu ra những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh tự mình phát hiện lỗi tìm hiểu nguyên nhân sai và chữa lại cho đúng.
- Phương pháp tiêu cực giúp học sinh phát hiện óc phân tích, xét đoán đồng thời kiểm tra, củng cố được kiến thức về chính tả của học sinh. Phương pháp tiêu cực chỉ nên coi là thứ yếu, có tính chất bổ trợ cho phương pháp tích cực, Trong quá trình giảng dạy chính tả, giáo viên cần phối hợp một cách hợp lý, hài hoà và có hiệu quả hai phương pháp này.
II - Cơ sở thực tiễn:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chọn trường tiểu học 2 Châu Khê - Con Cuông Nghệ An để khảo sát và tiến hành thực nghiệm giảng dạy phân môn chính tả nhằm giúp học sinh viết đúng phụ âm đầu, phần vần và phân biệt được dấu hỏi, với dấu ngã.
Trường Tiểu học 2 Châu Khê là một trường đóng trên địa bàn xã thuần nông. Nhân dân của xã hầu hết phát âm theo đặc trưng phương ngữ trung bộ.
Trường Tiểu học 2 Châu Khê gồm có 19 lớp / 554 học sinh.
Lớp 1: 3 lớp: 93 học sinh
Lớp 2: 3 lớp: 75 học sinh
Lớp 3: 3 lớp: 84 học sinh
Lớp 4: 5 lớp: 152 học sinh
Lớp 5: 5 lớp: 150 học sinh
Đây là trường nhiều năm liền đạt trường tiên tiến cấp huyện tỷ lệ học sinh đạt tốt nghiệp Tiểu học 99 - 100%. Riêng năm học 2004 - 2005 học sinh tốt nghiệp Tiểu học 100%. Xếp loại 2 mặt giáo dục năm học 2004 - 2005 như sau:
Học lực:
Loại giỏi: 93 học sinh
Loại khá: 184 học sinh
Loại TB: 275 học sinh
Loại yếu: 5 học sinh
Hạnh kiểm:
Loại tốt: 90%
Loại khá: 10%
Không có học sinh xếp loại cần cố gắng.
1/ Trong quá trình giảng dạy, điều tra, khảo sát đối với phân môn chính tả, chúng tôi thấy cần phải sử dụng những đồ dùng dạy học đó là:
+ Bảng phụ: Ghi nội dung bài tập chép; bài tập chính tả
+ Bảng con: Ghi các từ, tiếng khó
+ Giấy khổ to: Có thể ghi BT, đoạn khó
+ Các thẻ chữ, con chữ.
2/ Tài liệu dạy học: Chương trình chính tả mới có cái đặc biệt là tên được đổi mới
2.1/ Bài 1: Chính tả tập chép: Là hình thức chính tả đơn giản nhất có tác dụng rèn luyện đồng thời cả kỹ năng đọc chữ viết và trình bày bài viết. Trong bài tập chép học sinh đọc thầm văn bản in trong sách giáo khoa hoặc viết trên bảng lớp. Mục đích của việc chép này là giúp học sinh nhớ mặt chữ, các từ, câu trong đoạn. Cơ sở lý luận của hình thức chính tả này là phương pháp mô phỏng hay còn gọi là phương pháp rèn luyện theo mẫu. Học sinh dựa vào văn bản mẫu đọc bằng mắt và chép bằng tay đúng hình thức của văn bản mẫu.
Yêu cầu của việc tập chép này là học sinh đọc trơn được từng từ, từng cụm từ, câu và chép liền mạch các âm tiết chứ không chép từng chữ cái trong âm tiết.
2.2/ Chính tả nghe viết:
Nghe viết là hình thức chính tả đặc trưng nhất của chính tả Tiếng việt. Bởi vì chữ viết Tiếng việt là chữ viết ghi âm. Yêu cầu của hình thức này là học sinh nghe từng từ, từng cụm từ, câu do giáo viên đọc. Vừa nghe vừa tái hiện lại hình thức chữ viết của từng từ, cụm từ tức là học sinh phải có năng lực chuyển hoá âm thanh thành chữ viết.
Học sinh phải viết đủ số âm tiết đã nghe viết đúng, nhanh theo tốc độ quy định. Đối với hình thức chính tả này học sinh phải nghe, nhớ, viết.
- Việc nghe của học sinh phải gắn liền với việc hiểu nội dung của cụm từ, câu, văn bản, đoạn bài thì mới có thể viết đúng. Bởi vì chính tả Tiếng Việt không chỉ là chính tả ngữ âm mà là chính tả ngữ nghĩa .
Xét về mặt phương pháp dạy học thì việc đọc mẫu của giáo viên là quan trọng nhất. Giáo viên phảu đọc chính xác, đúng với chính âm. Giáo viên phải đọc thong thả và ngắt hơi hợp lý.
Sau mỗi cụm từ, câu giáo viên nhắc lại ba lần để học sinh theo dõi tốc độ đọc: Phải phù hợp với tốc độ viết của học sinh.
Trước khi viết cần phải được bài chính tả một lần để học sinh nắm được khái quát toàn bài, có ấn tượng về nội dung bài viết để có cơ sở mà viết đúng từng từ, nội dung các cấu trong bài.
- Về mặt văn bản có 3 yêu cầu sau:
+ Phải chứa các hiện tượng chính tả cần dạy, mật độ càng cao càng tốt.
+ Văn bản là phải có tính thẩm mỹ cao, phù hợp với lứa tuổi học sinh.
+ Độ dài cảu văn bản phù hợp với yêu cầu của từng lớp.
2.3/ Chính tả nhớ - viết:
- Loại chính tả này yêu cầu học sinh tái hiện lại hình thức âm thanh của văn bản đã học thuộc.
- Mục đích: Kiểm tra lại năng lực ghi nhớ của học sinh, cho nên hình thức nhớ viết chỉ thực hiện ở giai đoạn học sinh đã quen thuộc hình thức chữ viết Tiếng việt (tức là từ lớp 3 trở lên).
Quy trình của hình thức nhớ viết này có 2 bước:
Bước 1: Học sinh tái hiện lại hình thức, âm thanh của văn bản,
Bước 2: Học sinh chuyển hoá văn bản dưới hình thức âm thanh, văn bản viết.
Phương pháp dạy: Đối với hình thức chính tả này cần lưu ý:
- Phải bố trí thời gian để học sinh tái hiện lại khi viết bài. Tuy nhiên giáo viên nên có biện pháp tác động giúp học sinh tái hiện lại văn bản.
- Phải lưu ý trường hợp dễ viết sai trong văn bản.
Tóm lại:
Với chương trình cũ: Chương trình mới
1/ Chính tả tập chép đ Chính tả tập chép
2/ Chính tả nghe đọc đ Chính tả nghe - viết
3/ Chính tả trí nhớ đ Chính tả nhớ - viết
Từ đó ta thấy được chương trình mới chính tả lớp 3 được sắp xếp đi từ dễ đến khó một cách hợp ly và logíc.
So với chương trình cũ thì chương trình chính tả lớp 3 mới không có kiểu bài chính tả so sánh. Mà kiểu bài tập 2b có mục đích giống với chính tả so sánh.
Ví dụ: Điền vần ươn hay ương
Mồ hôi mà đổ xuống v…
Dâuxanh lá tốt vấn v… tơ tằm
Tuy nhiên đây là kiểu bài tập mở, đưa ra nhiều phương án luyện tập khác nhau (luyện viết đúng âm, vần, hanh dễ lẫn cho ảnh hưởng của các phương ngữ để giáo viên và học sinh lựa chọn theo đặc điểm phát âm của địa phương hay của bản thân học sinh và những loại lỗi chính tả mà học sinh địa phương thường mắc phải.
Ví dụ:
Đặt dấu hỏi hay dâu ngã trong những từ sau:
(Vui) ve… (tập) ve
(Lặng) le, le (loi)
(Lo) nghi, nghi (ngơi)
3/ Bài chính tả chương trình mới có cấu trúc:
+ Phần bài viết và phần bài tập
- Phần bài viết: Bài chính tả “đoạn bài” không có luyện viết đúng. Vậy có phải không cần phần luyện viết đúng cho học sinh hay không? Mà họ để quyền cho giáo viên tự chọn các từ viết đúng cho học sinh ở địa phương minh theo sự sáng tạo của giáo viên.
- Phần bài tập: Có 2 nhóm bài đó là:
ã Nhóm bài chính rả bắt buộc: Sử dụng chung cho tất cả các vùng phương ngữ trên toàn quốc.
ã Nhóm bài chính tả lựa chọn: Chính là chính tả phương ngữ. Giáo viên được chọn bài thích hợp để dạy cho lớp mình cho địa phương mình (nhất là đối với Miền Trung).
Hơn nữa để cho đồng đều của cả khối 3. Người tổ trưởng phải tập hợp các đồng chí trong tổ mình và thống nhất bài tập để cho các em cùng được học các bài tập như nhau dù là được tự chọn để phù hợp với phương ngữ địa phương cuả các em.
Các dạng bài tập rất nhiều nhưng dạng bài tập không phong phú.
Cụ thể:
- Dạng bài tập điền vào chỗ trống (tr hay ch…)
VD: Điền tr hay ch vào chỗ trống
Cuộn…. òn, ….ân thật, chậm…….ễ.
(Tiết 1, tuần 3 SGK TV3 T1)
- Tìm các từ theo yêu cầu:
VD: Chứa tiếng bắt đầu bằng tr hoặc ch có nghĩa như sau:
+ Trái nghĩa với riêng.
+ Cùng nghĩa với leo
+ Vật đựng nước để rửa mặt, rửa tay, rửa rau.
(Tiết 2, tuần 3 SGK TV3 T1)
- Giải câu đố:
VD: Vừa dài mà lại vừa vuông
Giúp học sinh kẻ chỉ, vạch đường thẳng băng
(Là cái gì?)
Tên nghe nặng tịch
Lòng dạ thẳng băng
Vành tai thợ mộc nằm ngang
Anh đi học vẽ, sẵn sàng đi theo.
(Là cái gì?)
- Nhận xét về hiện tượng chính tả
- Rút ra quy tắc chính tả
VD: + Xây dựng quy tắc viết âm đệm
Hỏi: Khi bào thì viết 0 khi nào thì viết u? 0: Hoa, hoè…
+ Quy tắc viết các âm chính u: Quả, quyển…
Khi nào thì viết i
y
- Viết i khi có âm đệm và các từ láy thuần việt: ầm ì, í éo.
- Viết y: Khi có cấu tạo âm tiết: y phục, y tá, quân y (trong các từ Hán Việt)…
+ Quy tắc viết các âm cuối:
- Khi nào thì viết: 0
u
- Viết O: Khi đứng sau âm chính là ao, eo, oeo, oao (báo, béo).
- Viết u: Viết trong các trường hợp còn lại: Báu, hưu, hầu, hươu
+ Quy tắc viết dấu thanh:
- Đặt dấu thanh ở trên hoặc dưới chữ ghi âm chính.
- Phát hiện lỗi sai chính tả
VD: Khi GV đọc cho học sinh viết 1 đoạn trong bài tập đọc.
- Khi chấm giáo viên cần phát hiện lỗi chính tả cho học sinh về dấu thanh.
Cụ thể:
Sáng hôm ấy, anh Đức Thanh dẫn Kim Đồng đến điểm hẹn. Một ông ké đã chờ sẵn ở đấy. Ông mỉm cười hiền hậu:
- Nào, bác cháu ta lên đường!
…. /
(TV 3 T1 - tuần 14 tiết 1)
- Hoạt động của giáo viên:
Giáo viên cần căn cứ vào từng địa phương mình dạy, xem lỗi thường mắc ở địa phương là những lỗi nào? Nếu như giáo viên khi dạy cứ lệ thuộc vào sách giáo viên mà không có sự linh hoạt, sáng tạo thì sẽ dẫn đến kết quả đó là: Dạy các bài chính tả còn chưa đi sâu vào các dấu thanh nên khi làm tập làm văn học sinh thường sai. Do dạy vừa thừa vừa thiếu nên các lỗi chính tả vẫn còn.
Đó là chưa kể đến sự bất đồng ngôn ngữ ở các vùng miền khi dạy chính tả giáo viên không thắc mắc về quá trình mà thường băn khoăn không biết chọn bài nào để dạy học phù hợp.
Chương II:
Đề xuất một số biện pháp
I - đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân môn chính tả lớp 3:
1/ Đối với giáo viên:
Để dạy đúng phân môn chính tả thì điều đầu tiên là người giáo viên phải phát âm đúng và viết đúng các chữ của Tiếng việt. Nếu phát âm chưa chuẩn, viết chưa đúng thì hàng ngày phải tập uốn lưỡi để phát âm cho đúng.
Trong các giờ dạy chính tả nghe - viết thì giáo viên phải đọc cho học sinh viết chứ không được chép bài viết lên bảng hoặc cho học sinh mở sách giáo khoa để viết theo. Mỗi câu giáo viên phải đọc 3 lần, đọc thong tả, rõ ràng, chính xác - học sinh lắng nghe để viết theo.
Trong quá trình dạy chính tả giáo viên phải thường xuyên cung cấp thêm một số mẹo chính tả thường dùng và một số quy tắc viết đúng chính tả cho học sinh.
Ví dụ: Quy tắc viết đúng tr/ch…
(Phần ví dụ này sẽ nói rõ ở phần hệ thống bài tập). Trong giờ chính tả giáo viên cần chú trọng đến phần luyện tập, xem đây là một nội dung cơ bản để học sinh rèn luyện viết đúng và hiểu nghĩa các từ. Nếu viết một bài chính tả phần luyện tập thì chỉ chấm điểm bài viết 5 điểm còn 5 điểm nữa chấm phần bài tập. Trong quá trình chấm bài cho học sinh giáo viên cần dùng bút mực đỏ để gạch chân và sửa lỗi (Ngoài lề) mà học sinh thường viết sai. Sau đó trừ điểm theo mức độ của học sinh thật cụ thể. Để từ đó học sinh thấy được những lỗi sai của mình mà khắc phục, sửa chữa trong những bài tới.
ở phần bài tập luyện tập tôi thường lồng ghép thêm một số bài tập về sửa lỗi phụ âm đầu như tr/ch, sửa lỗi về dấu thanh như hỏi/ngã, sửa lỗi về phần vần như ay/ấy… cho phù hợp lỗi mà phương ngữ hay sai để học sinh luyện tập thêm.
ở phân môn chính tả, mỗi tuần chỉ có 2 tiết, nên tôi chấm mỗi iết là 1/2 số học sinh của lớp, khi chấm tôi chấm luôn cả phần trình bày cũng như cách ghi ngày tháng để học sinh có ý thức khi viết bất kỳ một văn bản nào khác.
2/ Về phía học sinh:
Thông qua các phân môn tập đọc, tập làm văn tôi thường xuyên yêu cầu các em học sinh dạy phát âm, đọc sai thì phải phát âm và đọc lại cho đúng trước trước lớp bằng cách phân tích cho học sinh hiểu cách phát âm.
VD: Khi học sinh phát âm tra chưa đúng thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh cách đọc, đó là: Vốn đầu lưỡi, lưỡi chạm vào vòm cứng bật ra không có tiếng thanh. Giáo viên phát âm trước, học sinh phát âm sau, khi giáo viên làm mẫu thì giáo viên phải quay mặt xuống lớp để học sinh đó quan sát và làm theo. Có thể cho học sinh đó đọc đi đọc lại nhiều lần.
Còn đối với các từ khó, học sinh hay viết sai thì giáo viên cần phải giải nghĩa để học sinh nắm được nghĩa và viết cho đúng.
Ví dụ: “đòn bẩy” vật bằng tre, gỗ, sắt, giúp nâng hoặc nhắc một vật nặng theo cách: Tì đòn bẩy vào một điểm tựa rồi dùng sức nâng, nhấc vật nặng đó lên. Thường xuyên đề cao phong trào “Vở sạch chữ đẹp”. Để đạt được điều đó yêu cầu học sinh phải viết đúng chính tả, viết đúng quy trình các con chữ như kích cở moĩo chữ, chiều cao của con chữ? con chữ đó gồm mấy nét tạo thành… vào có ý thức giữ gìn vở ghi của mình. Đồng thời giáo viên phải treo bộ chữ mẫu ở lớp học để học sinh dễ dàng theo dõi hàng ngày để viết theo.
II - Đổi mới nội dung dạy học:
- Nội dung dạy chính tả ở lớp 3 là luyện viết đúng các âm, vần khó, viết đúng các tên riêng, các bài chính tả ngắn có nội dung gần gũi với lứa tuổi học sinh. Thông qua một số bài chính tả, học sinh còn được mở rộng vốn từ, mở rộng hiểu biết về cuộc sống.
* Từ tình hình thực tiễn của học sinh trường mình dạy, tôi thấy học sinh còn viết sai nhiều về từ có phụ âm đầu tr/ ch, dấu thanh hỏi/ ngữ và phần vân ay/ ây. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất ý kiến về nội dung bài chính tả lớp 3.
Qua nghiên cứu và thống nhất với Ban giám hiệu nhà trường cùng với tổ chuyên môn 2 - 3 về việc tăng cường, bổ sung, hướng dẫn vào nội dung kiến thức về phân môn chính tả (viết sai) phổ biến để dạy cho học sinh theo chương trình để thay thế những bài mà xét thấy không cần thiết đối với học sinh vùng mình bằng những bài có nội dung cần thiết. (Mà sách giáo khoa chưa đề cập đến). Giải quyết được những tồn tại, những vướng mắc trong quá trình rèn luyện học sinh viết đúng chính tả. Muốn thực hiện được điều đó thì trước hết giáo viên phải điều tra, khảo sát để nắm được những lỗi sai phổ biến của học sinh trường mình dạy.
Cụ thể ở trường Tiểu học Quỳnh Thạch học sinh thường mắc các lỗi khi nói cũng như khi viết đó là:
+ Phụ âm đầu ch/tr: Trong đ chong
Trăng đ chăng
Trung đ tung
+ Về dấu hỏi, dấu ngã: Quãng đ quảng
vẽ đ vẻ
+ Về phụ âm: Ay/ây: Thầy đ thày
Cây đ cay
Để từ đó có kế hoạch tiến hành giảng dạy một cách linh hoạt, sáng tạo, cụ thể trong xây dựng nội dung bài sao cho sát hợp với đối tượng học sinh minh dạy
VD: ở bài tập của tuần 14 (tiết 1) bài người liên lạc nhỏ.
Bài tập 2: Điều ay hay ây vào chỗ tróng
Bài tập 3: Bài tập lựa chọn hoặc chọn bài tập 3a hoặc 3b. Nhưng với tôi thì tôi có thể thay bài tập 3a thành bài tập tôi chọn ngoài để học sinh nắm chắc hơn về phụ âm đầu tr/ch.
Cụ thể: Tìm 5 tiếng có phụ âm đầu là tr
Tìm 5 tiếng có phụ âm đầu là ch
Và khi học sinh làm xong thì giáo viên hỏi học sinh để học sinh nắm chắc hơn về phụ âm:
- Hỏi vì sao con viết là tr?
- Hỏi: Vì sao con viết là ch?
- Gọi 6 em đọc lại các từ học sinh tìm đúng và với bài tập này tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi.
+ Trong chương trình Tiếng việt 3, phân môn chính tả phần bài tập để học sinh luyện tập viết đúng các phụ âm đầu tr/ch dấu hỏi nga, nặng còn tương đối ít. Vì vậy trên cơ sở giáo viên đã nắm được những lỗi chính tả của học sinh để xây dựng hệ thống bài tập sát hợp với học sinh lớp mình dạy. Các bài tập này phải bám sát các cơ sở tâm lý học, cơ sở ngôn ngữ học của phân môn chính tả và đặc biệt là vận dụng linh hoạt, sáng tạo các nguyên tắc dạy chính tả như: Nguyên tắt dạy chính tả theo khu vực, nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức, nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực và phương pháp tiêu cực.
Bài tập:
Bài 1: Em hãy chọn từ nào trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống:
a/ (Trâu, châu)
Bạn em đi chăn……., bắt được nhiều……. chấu.
+ (Chật, trật)
Phòng họp……….chội và nóng bức như mọi người vẫn rất……..tự .
(Chăn, trâu)
Bọn trẻ ngôi… hẫu, chờ bà ăn… rồi kể chuyện cổ tích.
b/ (Bão, bảo)
Mọi người…… nhau dọn dẹp đường làng sau cơn….
(Vẽ, vẻ)
Em……….mấy bạn……. mặt tươi vui đang trò chuyện
(Sữa, sửa)
Mẹ cho em bé uống………..rồi…………..soạn đi làm
(Tiếng việt 3 - trang 132)
Bài tập 2: Điền vào chỗ trống ay hay ây?
.
- Cây……..s…….., ch…. giã gạo
?
?
.
.
- d………học……., ngủ d………..
- số b ………. đòn b……….
Bài 3:
a/Tìm 5 từ láy có phụ âm đầu là tr theo mẫu
b/ Tìm 5 từ lấy có phụ âm đầu là ch theo mẫu
VD: a/ Trắng trẻo, trập trùng….
b/ Chập chững, chen chúc…
(Tiếng việt 3 - trang 114)
bài tập
Bài 1: Điền vào chỗ trống và ghi lời giải câu đố:
a/ tr hoặc ch
Mình…..òn, mũi nhọn
…. ăng phải bò,… âu
Uống nước ao sâu
Lên cày ruộng cạn
Bài 2: Là cái gì?
Tìm và viết vào chỗ trống những tiếng có thể ghép trước hoặc sau mỗi tiếng dưới đây:
Trung
…………….
Chung
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
Trai
…………….
Chai
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
Trống
…………….
Chống
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
(Tiếng việt 3 - tiần 7 - trang 60)
Bài 3: Điền dấu hỏi, dấu ngã vào các tiếng gạch chân rồi đọc cho đúng.
Rau cai, ra nga, hai quân, suy nghi, ky niệm, lang mạn.
III - Đổi mới về phương pháp:
- Để đổi mới được về phương pháp dạy học thì giáo viên phải thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các biện pháp dạy học của phân môn nhằm rèn cho học sinh kỹ năng viết đúng chính tả và trình bày bài sạch đẹp. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị và thực hành bài viết chính tả, chấm chữa bài chính tả kịp thời; hướng dẫn học sinh làm bài tập chính tả theo yêu cầu chung (bắt buộc) và yêu cầu cụ thể (do giáo viên chọn) sao cho phù hợp với đối tượng học sinh địa phương.
- Chuẩn bị các điều kiện và phương tiện thích hợp để tổ chức học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động thực hành luyện tập: Bảng lớp bảng phụ, bảng con (hoặc giấy khổ rộng) vở nháp, đồ dùng dạy học đơn giản.
Để thực hiện tốt điều đó giáo viên phải nắm được đặc điểm phương ngữ của học sinh để có cách điều chỉnh các bài tập rèn luyện thêm cho học sinh phải xác định được trọng tâm chính tả cần dạy cho học sinh.
Trong giờ học phân môn chính tả cần cho học sinh nắm được các quy tắc chính tả, các luật chính tả, mẹo chính tả để học sinh viết đúng chính tả.
Cụ thể:
a/ Một số quy tắc phân biệt tr.ch trong chính tả.
+ Quy tắc trong âm tiết
Trước các vần oam, oă, oe chỉ có thể viết ch mà không viết tr.
VD:
+ Quy tắc trong từ Hán Việt.
Các yếu tố hán việt có dấu nặng hoặc dấu huyền chỉ có thể viết tr mà không viết với ch.
- Yếu tố Hán Việt có dấu nặng như: Triệt để, tự giá, triệu phú, trụ sở, truỵ lạc.
- Yếu tố Hán Việt có dấu huyền nh: Trào lưu, trầm tư, triều đại, trình độ, trần gian.
+ Quy tắc trong từ láy.
Trong từ láy tr, ch không bao giờ láy với nhau. Do đó gặp âm tiết đã biết chắc chắn là tra hoặc ch thì âm tiết thứ hai nhất thiết phải là tr hoặc ch tức là hiện tượng lặp âm đầu. ã Tr: Xuất hiện trong một sô trường hợp sau: Trồng trọt, trung thực, trừng trị, trai tráng, tròn trịa.
ã Ch xuất hiện trong nhiều từ láy phụ âm đầu, chững chặc, chăm chỉ, chắt chiu, chong chóng…
Từ đó có mẹo chính tả như sau:
- Nếu gặp từ láy (hoặc từ có thể tạo từ láy) đệm âm đầu và phụ âm giữ tr/ch nếu không rơi vào trường hợp điệp với tr thì ta cứ viết ch.
Tr không láy với phụ âm nào khác từ 3 - 4 trường hợp, ngoại l láy âm l: như trọc lóc, trụi lũi… trái lại ch láy với nhiều phụ âm: Chơi bời, chèo lẻo, chào mào.
+ Quy tắc ngữ nghĩa:
- Những từ chỉ quan hệ gia đình đều được viết với ch: Ví dụ: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng…
- Những đồ dùng trong nhà đều được viết với ch: Chảo, chum, chỉnh, chăn, chiếu, chổi, chõng, chuồng…
- Chú ý từ phủ định thì viết ch: Chưa, chẳng, chớ, chăng…
- Những từ thường viết với tr: Trái lại, trai gái, trắng trẻo…
- Những từ viết với ch: Chung thuỷ, chân lý, chắt lọc, chỉ tiêu, vợ chồng, chốt lại, chiếm giữ…
b/ Phân biệt thanh hỏi, thanh ngã:
+ Quy tắc trong từ láy:
Trong các từ láy của Tiếng việt có quy luật trầm bổng thanh điệu trong Tiếng việt được căn cứ vào độ cao và chia làm 2 nhóm.
- Nhóm bổng gồm: Thanh sắc, thanh hỏi, thanh không
- Nhóm trầm gồm: Thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng
Trong từ láy tiếng thứ nhất mang thanh bổng thì tiếng thứ hai sẽ cùng âm mang âm bổng. Ngược lại tiếng thứ nhất mang thanh trầm thì tiếng thứ hai cũng mang thanh trầm.
Ví dụ: Tương ứng với các thanh bổng: Vui vẻ, lủng cũng…
Tương ứng giữa các thanh trầm: Lưỡng lự, dễ dàng, đỉnh đạc.
Từ đó ta có mẹo về dấu thanh như sau:
Chị huyền mang nặng ngã đau
Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành
Khi gặp từ láy có tiếng băn khoăn không biết viết hỏi hay ngã thì nhìn ở tiếng đi cùng. Nếu tiếng đó mang thanh huyền hoặc ngã, nặng thì cứ viết thanh ngã. Nếu tiếng đó có thanh sắc, hỏi hoặc không dấu thì cứ viết thanh hỏi. nếu gặp một từ không biết thanh hỏi hay thanh ngã thì tạo từ láy. Nếu tạo được thì cũng theo luật bổng trầm để xem xét.
+ Quy tắc trong từ Hán Việt
- Từ đầu bằng nh: Nhẫn nại, nhã nhặn, tham nhũng…
- Bắt đầu bằng l: Lãnh đạo, lễ độ, lãng phí…
- Bắt đầu bằng n: Trí não, nổ lực
- Bắt đầu bằng m: Mỹ thuật, biểu mẫu, mĩ mãn, mã lực.
- Bắt đầu bằng d: Dĩ vãng, diễm lệ, diễn đàn…
- Bắt đầu bằng ng: Ngôn ngữ, ngoan ngoãn…
Ngoài các phụ âm (m, nm l, d, ng) nêu trên thì từ Hán Việt đi với phụ âm khác hoặc bắt đầu bằng nguyên âm thì viết với dấu hỏi.
+ Quy tắc ngữ nghĩa:
Những từ song âm, nghĩa rộng (gần giống với nhau vì có cùng nguồn gốc) về mặt thanh điệu cũng một từ không biết viết với thanh hỏi hay thanh ngã thì tìm một dạng song thức với dấu ngã hoặc huyền.
Những từ song (âm, nghĩa rộng gần giống nhau vì có cùng nguồn gốc) về mặt thanh điệu cũng được phân bổ theo quy luật trầm bổng. Tức là khi đứng trước một từ không biết với thanh hỏi hay thanh ngã thì tìm một dạng song thức viết với dấu ngã hoặc huyền, hoặc nặng, thì viết thanh hỏi. Nếu dạng song thức viết với thanh hỏi hoặc thanh sắc hoặc thanh không thì viết thanh ngã.
Ví dụ: Chia lìa, đã đòi,…
Những chữ viết với dấu ngã, ví dụ: Cơn bão, giữ gìn, dữ dội…
Cũng (cùng) đã (đà) lưỡi (lợi), mã lực (mãnh bạo)…
Bãi bỏ, bữa ăn, chỗ ăn, bát đũa, lễ là, kỷ luật, mãi mãi, lẻ phải, hữu ích…
c - Phân biệt thanh hỏi, thanh nặng:
+ Đặc điểm vầ ngữ âm:
ở huyện 2 Châu Khê - tỉnh Nghệ an nói chung thường phát âm thanh hỏi thanh nặng. Quá trình phát âm có xu hướng trầm hoá thanh điệu.
+ Quy tắc trong từ láy:
Trong từ láy của Tiếng việt tuân theo luật trầm bổng của thanh điệu: Ta sử dụng lại quy luật nói trên để giải quyết lỗi sai này. Nếu trong từ láy còn chưa biết thanh hỏi, hay thanh ngã, thanh nặng ta tạo từ láy của từ đã cho. Nếu tiếng láy có thanh ngã hoặc thanh nặng thì từ đang xét viết với dậu nặng. Ngược lại tiếng láy với thanh hỏi hoặc không dấu thì từ đang xet viết với dấu hỏi.
Ví dụ: Nghỉ ngơi, nghỉ gợi, dở gang…
+ Quy tắc ngữ nghĩa:
Ta cũng tạo theo từ song thức để xét về thanh điệu và tuân theo luật trầm bổng. Chính vì vậy giáo viên cần được hệ thống bài tập chính tả phù hợp với phương ngữ học sinh.
IV - Thực nghiệm:
1/ Mục đích thực nghiệm:
Để đề tài này được thành công, chúng tôi đã tổ chức thực nghiệm bằng cách đưa một số ý kiến đề xuất của mình vào một bài học cụ thể và tổ chức dạy ở lớp 3B - trường tiểu học Quỳnh Thạch nhằm đánh giá tính khả thi của các biện pháp đã được đề xuất ở trong luận văn này.
2/ Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm:
Chúng tôi tiến h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van c ta(ha bay).doc