MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2
3. Các bước tiến hành, thời gian 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Lịch sử vấn đề 4
7. Cấu trúc đề tài 5
PHẦN II: NỘI DUNG 5
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.2. Cơ sở thực tiễn 6
Chương 2: Thực trạng của việc dạy và học Tập viết lớp 2 ở trường Tiểu học Lí Thường Kiệt. 8
2.1. Tập viết là phân môn thực hành giúp trẻ vận dụng những kiến thức đã học vào trang giấy. 8
2.2. Thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết 8
2.2.1. Ưu điểm
2.2.2. Hạn chế 9
2.2.3. Một số lỗi sai học sinh thường mắc phải 11
2.2.4. Nguyên nhân của việc mắc lỗi 12
2.2.4.1. Từ phiá giáo viên 13
2.2.4.2. Từ phía học sinh 14
2.2.4.3. Sự tác động của các yêu tố khách quan 12
Chương 3: Một số biện pháp khắc phục 12
3.1. Phương pháp cải thiện chữ viết cho học sinh
3.1.1. Đối với giáo viên 12
3.1.2. Đối với học sinh 14
3.2. Biện pháp sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu 14
3.3. Phân loại các nhóm đối tượng khi rèn luyện 15
3.3.1. Khai thác từng nhóm đối tượng cụ thể 16
PHẦN III: KẾT LUẬN 17
PHỤ LỤC 18
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10932 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2, trường Tiểu học Lí Thường Kiệt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng của việc dạy và học Tập viết lớp 2 ở trường Tiểu học Lí Thường Kiệt.
Chương 3: Một số biện pháp khắc phục.
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lí luận
Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi và nắm bắt thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận tri thức…Do vậy việc dạy cho học sinh biết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của phân môn Tiếng Việt.
Viết đúng, viết đẹp không chỉ góp phần vào việc rèn cho các em những phẩm chất tốt đẹp như tính cẩn thận, tỉ mỉ, tính thẩm mĩ mà còn góp phần vào việc hình thành ở các em có tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng cũng như thái độ tôn trọng người đọc. Chính vì thế cha ông ta ngày xưa đã nói: “Nét chữ-nết người”. Dạy học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, kỉ luật và lòng tự trọng đối với chính mình.
Nếu phân môn tập đọc - học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo sẽ tạo hiệu quả tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Kết quả của việc rèn chữ viết cho học sinh không phải ngày một, ngày hai là có được. Mà đó là kết quả của một quá trình dày công khổ luyện của cả thầy và trò, dưới sự dìu dắt, chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô giáo. Chính vì những lí do trên, việc rèn chữ cho học sinh là mối quan tâm hàng đầu đối với ngành giáo dục và toàn xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tập viết là một trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học.Tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ cái Tiếng Việt và những yêu cầu kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này phân môn tập viết cung cấp cho học sinh một công cụ để các em học tập suốt đời.
Phân môn Tập viết có liên hệ mật thiết với các môn học khác. Trong trường tiểu học, việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy học vần, chính tả, tập làm văn, việc ghi bài vào vở các môn học và nhiều trường còn yêu cầu có vở luyện viết chữ đẹp cho học sinh. Nếu chữ viết rõ ràng đúng mẫu viết tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện chép bài nhanh, nhờ vậy mà kết quả học tập sẽ cao hơn. Chữ viết xấu tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng đến một phần không nhỏ tới chất lượng học tập. Đồng thời chữ viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về chữ viết mà còn rèn kỹ thuật viết chữ. Trong chương trình phân môn tập viết lớp 2, về yêu cầu số bài và thời lượng: Mỗi tuần có một bài tập viết, học trong một tiết. Trong cả năm học, học sinh được học 31 tiết tập viết.Về nội dung: Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường. Chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị; riêng hai chữ cái viết hoa y, g được viết với chiều cao 4 đơn vị. Về hình thức rèn luyện: Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy. Về kĩ năng: yêu cầu HS viết đúng quy trình viết nét, viết chữ cái và liên kết chữ cái tạo ra chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ. Ngoài ra, giáo viên cần rèn các kĩ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở cho học sinh. Qua đó ta thấy, số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh lớp 2.
Tuy nhiên, học sinh lớp 2 học môn Tập viết để viết đẹp là rất khó bởi đa phần nhiều giáo viên chưa nắm bắt được tính chất có mục đích của việc dạy học Tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của phân môn này ở trường Tiểu học cũng như chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh mà lại đi quá sâu vào việc giải thích quy trình viết chữ nên học sinh không được luyện viết nhiều, do đó việc luyện viết còn mang tính hình thức.
Thực tế cho thấy việc rèn kĩ năng thực hành trong giờ tập viết có ý nghĩa cực kì quan trọng, không những nó giúp học sinh hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ mà còn tạo cho học sinh lòng quyết tâm và tinh thần hăng say trong việc luyện chữ. Nếu được thực hành nhiều, rèn luyện nhiều thì học sinh sẽ nhanh chóng hình thành lòng say mê tập viết ở bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu.
Việc rèn kĩ năng tập viết bắt đầu từ những bảng chữ cái dần dần tăng mức độ khó là luyện viết đến từ và câu và cuối cùng là đoạn văn hoặc đoạn thơ, kĩ năng này phải tiến hành từ thấp đến cao. Cứ luyện như vậy thì sẽ rất nhanh có hiệu quả, học sinh sẽ nhanh chóng nắm bắt kĩ năng viết, viết đúng rồi tiến tới viết nhanh, viết đẹp.
Chương 2: Thực trạng của việc dạy và học Tập viết
lớp 2 ở trường Tiểu học Lí Thường Kiệt.
2.1. Tập viết là phân môn thực hành giúp trẻ vận dụng những kiến thức đã học vào trang giấy.
Tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Tính chất thực hành có mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của phân môn này ở trường tiểu học. Ngoài ra tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ.
Người ta thường nói: “Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết”. Nếu phần môn tập đọc - học vần là nền móng giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo, thực hành của môn tập đọc. Đọc thông, viết thạo là động lực giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.
2.2. Thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết
2.2.1. Ưu điểm
Thông qua quá trình điều tra, em nhận thấy rằng giáo viên trường Tiểu học Lí Thường Kiệt đã nhận biết được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2 nên các thầy cô thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở môn tập viết mà còn ở tất cả các môn khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài.
Đối với các bài tập cho học sinh luyện tập, giáo viên đã chú ý đến các chữ có nét giống nhau đồng dạng với nhau thì cùng xếp vào một nhóm để rèn luyện. Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, giáo viên cho học sinh tiến hành từ thấp nên cao, tăng dần độ khó để học sinh dễ tiếp thu: viết đúng rồi viết nhanh viết đẹp.
Ví dụ: Dựa và các nét chữ đồng dạng ta chia chữ cái viết hoa thành các nhóm như sau:
Trong khi học sinh viết, giáo viên kiên trì hướng dẫn tận tình, quan sát sửa sai cho từng học sinh, cho các em luyện tập thật kỹ trước khi viết vào vở.
Để kĩ năng thực hành trong giờ tập viết được nâng lên các thầy cô đã sử dụng phù hợp các hình thức luyện tập như:
Tập viết chữ trên bảng lớp: Giáo viên thường tiến hành khi kiểm tra bài cũ, hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp.
Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Giáo viên cho học sinh viết vào bảng con.Khi viết xong giơ bảng lên để kiểm tra theo lệnh của giáo viên
Luyện tập trong vở tập viết: Giáo viên hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng của từng bài viết sau đó học sinh viết vào vở theo yêu cầu của giáo viên.
2.2.2. Hạn chế
Giáo viên cho học sinh rèn chữ với số lượng khá nhiều nhưng lặp lại
rất ít lần dẫn đến việc học sinh không nhớ được mặt chữ nên viết sai.
Do thời gian giành cho việc luyện tập hạn chế nên còn ít giáo viên cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài để có thể dễ dàng nhận ra lỗi sai của mình. Chính vì vây, rất khó để nắm bắt tình hình viết chữ cũng như nhận xét sự tiến bộ của học sinh.
Theo mẫu hiện hành, chữ hoa tuy đẹp nhưng lại rất khó viết, các nét chữ cong, mềm mại và thay đổi liên tục trong một con chữ. Hơn thế nữa, do đặc điểm tâm lí của các em lớp 2 đang còn ở tuổi tiếp thu là rất chậm nên giáo viên rất chú trọng đến việc hướng dẫn quy trình tập viết để các em có thể nắm bắt dẫn đến thời gian giành cho việc rèn chữ là rất ít, không những thế giáo viên ít để ý về tư thế ngồi viết cách cầm bút và để vở của học sinh
Khi học các môn học khác, giáo viên chưa có những yêu cầu về chữ viết của học sinh nên việc luyện tập chữ viết trong những tiết học này là rất có hạn.
2.2.3. Một số lỗi sai học sinh thường mắc phải
Chính vì những hạn chế trên dẫn đến việc học sinh mắc phải một số lỗi sai đáng lưu ý như:
2.2.3.1. Lỗi sai về thế chữ, hình dáng, kích thước.
Đa phần học sinh không nắm được chiều cao của các chữ cái hoa Y, G được viết với chiều cao 4 đơn vị. Các em hay sai ở điểm uốn lượn như chữ M N L E
Một số học sinh viết sai gãy nét chữ, cụ thể là: Sai các nét móc xuôi, móc ngược, nét thẳng và nét xiên .
2.2.3.2. Lỗi sai về khoảng cách
Đối với những học sinh viết sai khoảng cách các con chữ
Học sinh không nắm vững khoảng cách giữa các con chữ trong từng tiếng, khoảng cách giữa các tiếng trong từ, trường hợp viết nối không thuận lợi.
Khoảng cách các nét khuyết trên thường gãy, nét chữ rời và vụn nét và các con chữ thường bị rộng.
Ví dụ: Đối với trường hợp viết nối không thuận lợi
Xảy ra giữa một số chữ hoa đứng trước không có nét liên kết và chữ cái thường đứng sau không có nét liên kết.
Ví dụ: D ; Ñ ; V ; I
Ñoáng Ña ,Vaøm Coû Ñoâng , Gia Vieãn
Do học sinh không nắm được yêu cầu về trường hợp viết nối dẫn đến chữ viết không liền mạch, nét chữ rời và vụn không đảm bảo tính cân đối và thẩm mĩ của chữ viết.
2.2.3.3. Một số trường hợp khác
Về tư thế ngồi: Ngồi không ngay ngắn, thậm chí có em nằm xuống bàn viết, khoảng cách giữa mắt và vở không đúng quy định từ 25 – 30cm.Vở bị xê dịch khi viết.
Về cách cầm bút: Một số học sinh không cầm bút và điều khiển bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, cái, giữa) của bàn tay phải dẫn đến chữ viết không liền mạch.
2.2.4. Nguyên nhân của việc mắc lỗi.
2.2.4.1. Mắc lỗi từ phía giáo viên.
Y Về quá trình hướng dẫn học sinh luyện tập viết.
Do thời gian hạn chế nên giáo viên rất ít cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài dẫn đến việc học sinh khó nhận ra lỗi của mình để khắc phục.
Giáo viên quá chú trọng đến việc giải thích quy trình viết chữ hay rèn cho học sinh viết mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết, cầm bút và để vở của học sinh.
Giáo viên chưa yêu cầu về luyện chữ viết của học sinh khi học các môn học khác.
Giáo viên phần lớn rất ít hướng dẫn cho các em xác định đường kẻ, dòng kẻ, toạ độ viết chữ xác định khoảng cách, vị trí, cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kĩ năng viết đúng mẫu mà chỉ chú trọng đến cấu tạo các chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ...
Y Về việc thiếu tính thực hành
Chính vì quá chú trọng đến quy trình viết mà giáo viên ít cho học sinh thực hành.
Sau khi đã hướng dẫn học sinh nắm vững các yêu cầu cơ bản khi tập viết và những đặc điểm cơ bản của mẫu chữ viết, giáo viên cho học sinh áp dụng những điều đã học để tự rèn luyện chữ viết của mình, tuy nhiên đối với các em lớp 2 thì những điều giáo viên nói chỉ là lí thuyết suông bởi các em còn quá nhỏ để nhận thức được.
Tuy mỗi học sinh có một quyển vở luyện viết chữ đẹp theo từng chủ đề riêng để luyện viết thêm ở nhà nhưng phần lớn các em không luyện viết mà chỉ đến khi nào nhà trường yêu cầu nộp thì các em mới viết gấp rút nên chữ rất xấu và cẩu thả.
Lúc đầu, học sinh luyện viết theo bảng chữ cái, dần dần, luyện viết đến từ, câu và cuối cùng là đoạn văn hoặc đoạn thơ. Mỗi lần viết như thế đều có sự hướng dẫn và kiểm tra chặt chẽ của giáo viên tuy nhiên mỗi tuần chỉ có một bài tập viết, học trong một tiết. Do thời gian có hạn nên học sinh có rất ít thời gian rèn chữ viết trên lớp.
Giáo viên thường xuyên liên hệ với gia đình của các em, để cùng theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ các em thực hiện tốt hơn. Nhưng có một số phụ huynh học sinh lại cho rằng chỉ cần con em của họ học giỏi là đủ nên việc chữ đẹp hay xấu là không quan trọng. Chính vì vậy, sự tiến bộ trong chữ viết của các em là rất khó
Trong các môn học khác như: Toán, Tập làm văn, Tự nhiên xã hội… giáo viên thường yêu cầu các em rèn luyện chữ viết bằng cách chép ghi nhớ bài học vào vở sao cho viết đúng mẫu, sạch và đẹp. Nhưng do đây là những phân môn không yêu cầu đến việc rèn luyện chữ như phân môn Tập viết nên các em viết rất cẩu thả.
2.2.4.2. Mắc lỗi từ phía học sinh.
Về kiến thức: Do các em mới chuyển từ lớp 1 sang lớp 2 nên hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao các chữ viết hoa là rất hạn chế.
Về kĩ năng: Một số em viết đủ nhưng không đúng, và rõ ràng các chữ ghi tiếng ứng dụng (cỡ vừa và cỡ nhỏ), các cụm từ ứng dụng.
2.2.4.3. Sự tác động của các yếu tố khách quan.
Chất lượng về chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào yếu tố chủ quan như (năng lực, sự kiên trì luyện tập, trình độ sư phạm của giáo viên...) mà còn có sự tác động của các yếu tố khách quan (điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy và học tập viết…). Chính vì vậy, một số nguyên nhân dẫn đến lí do chữ xấu là đó là:
+ Bảng con, phấn (bút dạ), khăn lau không đúng quy định vì hiện nay bảng con mà học sinh đang sử dụng viết rất trơn, không ăn phấn, dòng kẻ mờ hoặc không thống nhất về dòng kẻ.
+ Phấn viết ngắn quá, hay dài quá. Bút mực không chuẩn.
+ Vở viết là loại vở có chất liệu giấy không tốt để viết nên bị nhoè mực.
MỘT SỐ CHỮ CÁI HOA ĐỂ KHẢO SÁT KĨ NĂNG VIẾT CHỮ CỦA HỌC SINH LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC LÍ THƯỜNG KIỆT
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT KĨ NĂNG VIẾT CHỮ CỦA HỌC SINH LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC LÍ THƯỜNG KIỆT
Tổng số học sinh
(45)
Viết chữ đúng mẫu tương đối đẹp
Viết chữ đúng nhưng chưa đẹp
Viết chữ còn sai mẫu
Kết quả
12
20
13
Tỉ lệ(%)
26.67 %
44.44 %
28.89 %
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH TRONG GIỜ TẬP VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2, TRƯỜNG TIỂU HỌC LÍ THƯỜNG KIỆT
Y&Y
Xin chào quý thầy (cô), tôi là sinh viên trường Cao Đẳng Sư Phạm Thừa Thiên Huế, để hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình, nay tôi thiết kế Phiếu khảo sát nhằm mục đich tìm hiểu về việc thực hành và rèn luyện của học sinh đối với chữ cái viết hoa lớp 2. Rất mong quý thầy cô dành ra ít phút để giúp tôi hoàn thành các câu hỏi có liên quan dưới đây. Tôi rất cảm ơn sự cộng tác của quý thầy(cô)!
Tổng số điều tra:..5..Giáo viên (Khối lớp 2 - Tiểu học Lí Thường Kiệt)
STT
Nội dung điều tra
Kết quả
Tỉ lệ(%)
1
Thầy (cô) có nhận xét gì về phân môn tập viết lớp 2 ?
Dễ
Khó
Bình thường
Ý kiến khác
0
0
2
3
0 %
0 %
40 %
60 %
2
Môn tập viết chữ cái Hoa đưa vào chương trình lớp 2 là phù hợp ?
Phù hợp
Không phù hợp
5
0
100 %
0 %
3
Số tiết dành cho môn rèn luyện chữ cái viết Hoa lớp 2 là hợp lý ?
Hợp lí
Không hợp lí
5
0
100 %
0 %
4
Thầy (cô) có gặp khó khăn gì khi dạy phân môn tập viết lớp 2?
Khó khăn
Bình thường
Không khó khăn
Ý kiến khác
2
0
0
3
40 %
60 %
5
Theo thầy (cô) nguyên tắc thực hành được thể hiện như thế nào trong phân môn tập viết lớp 2?
Găn kết
Bình thường
Không gắn kết
Ý kiến khác
4
0
0
1
80 %
0 %
0 %
20 %
6
Học sinh thích học phân môn tập viết lớp 2?
Có
Không
Ý kiến khác
1
0
4
20 %
0 %
80 %
7
Học sinh có gặp khó khăn khi rèn luyện chữ cái viết Hoa không ?
Có
Không
5
0
100 %
0 %
Ý kiến khác:
Theo quý thầy(cô) để nâng cao hơn nữa chất lượng của việc dạy chữ cái viết Hoa thì gia đình, nhà trường cần làm những gì? (Có thể viết thêm ở phía sau trang giấy)
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Thông tin bổ sung: Giới tính: ০ Nam ০ Nữ Tuổi:……
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN !
Chương 3: Một số biện pháp khắc phục
3.1. Phương pháp cải thiện chữ viết cho học sinh
3.1.1. Đối với giáo viên cần
Trước hết chữ viết của giáo viên phải mẫu mực để học sinh noi theo.
Giáo viên nên tạo sự thống nhất từ cách trình bày bảng tới cách trình bày vở.
Khi dạy viết chữ hoa, cần chú ý cho học sinh phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm, tập viết thật kĩ chữ đầu tiên của nhóm cho thật đẹp, từ đó học sinh có thể phân tích và tự rèn các chữ còn lại.
Cần nhận xét sau mỗi bài viết để học sinh tìm ra nguyên nhân viết sai và giáo viên nên có cách sửa hiệu quả với từng đối tượng học sinh.
Luôn tạo cho học sinh tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết. Nên cho các em xem những bài viết chữ đẹp của anh chị lớp trước (hoặc của chính học sinh trong lớp).
Tổ chức những cuộc thi “Vở sạch chữ đẹp” và tuyên dương khen thưởng những em có nhiều cố gắng, tiến bộ.
Khảo sát, thống kê các lỗi sai để có thể tìm cách khắc phục.
Lập kế hoạch khảo sát trên thực tế đưa ra danh sách luyện viết chữ cho học sinh, yêu cầu học sinh tự rèn luyện viết chữ ở nhà, ở lớp vào những thời gian thích hợp. Giáo viên chấm vở luyện chữ theo ngày, tuần, tháng.
Kể những gương rèn chữ mà giáo viên sưu tầm được sau đó để lại lớp cho học sinh xem hằng ngày để qua đó gợi lên ở các em lòng say mê, ham thích luyện viết chữ đẹp.
Ví dụ: Kể cho các em nghe tấm gương rèn chữ của: “Cao Bá Quát tuy là người học giỏi, hiểu rộng nhưng chữ lại xấu”. Chính vì vậy mà ông đã kiên trì luyện viết ngày đêm mới để có được chữ đẹp và sau đó ông trở thành nhà thư pháp nổi tiếng. Qua đó động viên, khích lệ các em tinh thần học hỏi, quyết tâm rèn luyên chữ viết ngày càng đẹp hơn.
Sưu tầm những bài vè về dạy luyện viết chữ đẹp cho các em. Nó rất dễ thuộc và nhớ lâu. Khi dạy chữ giáo viên sử nên dụng những hình ảnh mang tính tượng trưng phù hợp với tâm lí trẻ tiểu học. Học như vậy không gò bó mà rất vui nhộn cho trẻ và trao đổi với phụ huynh học sinh về cách rèn chữ cho học sinh khi ở nhà.
Ví dụ: Khi học sinh viết chữ O không chính xác, giáo viên cho học sinh xem chữ O mẫu rồi hỏi: Chữ O giống hình gì? – học sinh trả lời: Chữ O giống quả trứng gà, giống số 0…Từ đó, giáo viên cho học sinh so sánh và hướng dẫn học sinh viết đúng.
Y Phân loại nhóm chữ viết và rèn luyện từ dễ đến khó
a. Đối với chữ viết hoa
Tất cả đều có độ cao hai đơn vị chữ. Đặc điểm giống nhau của hai loại chữ này là phần lớn các chữ đều có điểm đặt bút, điểm dừng bút ở 1/3 đơn vị chữ.
Khi rèn chữ viết cho học sinh giáo viên cho học sinh luyện từ bảng chữ cái rồi dần dần luyện viết đến từ và câu và cuối cùng là đoạn thơ hoặc đoạn văn.
Căn cứ vào cấu tạo của cách viết các chữ cái giáo viên nên chia ra các nhóm chữ và vào quy trình viết chữ ghi tiếng để rèn cho cho học sinh.
Ví dụ:
- Dựa vào các nét chữ đồng dạng ta chia chữ cái viết hoa thành các nhóm như sau:
- Về độ cao giáo viên có thể phân loại hệ thống chữ cái Tiếng Việt thành các nhóm chữ có các nét gần giống nhau để luyện viết cụ thể là:
Nhóm 1: Nét móc: gồm 9 chữ cái (Chữ cái ở nhóm này thường được cấu tạo bởi các nét móc “móc xuôi, móc ngược, móc hai đầu).
I U ¦ T N M V R P
- Học sinh viết chưa đẹp ở điểm uốn lượn hoặc sai ở điểm bắt đầu và điểm kết thúc của chữ.
Ví dụ: viết nét móc đầu tiên của chữ m ( ) học sinh viết sai thành nét xiên ( / ).
- Giáo viên sửa sai cho những học sinh đó bằng cách viết mẫu nét móc của chữ m bên dưới bài viết của học bằng bút đỏ và yêu cầu học sinh luyện lại nét đó.
- Giáo viên nên lưu ý rằng học sinh viết đẹp các chữ có nét móc sẽ thuận lợi để viết đẹp các chữ thuộc nhóm 3.
b. Đối với những học sinh viết sai độ cao các chữ cái
Trước hết giáo viên nên chấm bằng bút đỏ điểm ở bắt đầu và điểm kết thúc để học sinh ghi nhớ viết đúng độ cao. Sau đó viết mẫu vào vở những chữ cái mà học sinh hay viết sai để học sinh tự rèn rồi tiến hành kiểm tra, chỉnh sửa.
c. Sai ở điểm uốn lượn như chữ M N E
Giảng lại cấu tạo, quy trình viết chữ. Nếu học sinh vẫn chưa sửa được dùng bút đỏ viết lại cho đúng, chấm bằng bút đỏ điểm ở bắt đầu và điểm kết thúc của từng chữ.
d. Đối với những học sinh viết sai khoảng cách các con chữ
Giáo viên phải cho học sinh nắm vững khoảng cách giữa các con chữ trong từng tiếng, khoảng cách giữa các tiếng trong từ.
Muốn để học sinh viết đúng khoảng cách giữa các con chữ giáo viên phải cho học sinh nắm vững được cấu tạo của các con chữ cái dựa vào các ô vuông và các chữ cái được chia thành các nhóm chữ. Dựa vào đặc điểm cơ bản của một số tiếng mà học sinh cần phải co khoảng cách các con chữ hay dãn khoảng cách các con chữ sao cho đẹp.
Ví dụ 1: Mong manh
Chữ m,n cần phải phải viết nét móc
Ví dụ 2:Nhaáp nhoâ
Con chữ n phải dãn khoảng cách con chữ h thì chữ mới đẹp.
3.1.2. Đối với học sinh
Phải rèn chữ viết ở mọi lúc mọi nơi: Rèn viết ở lớp, rèn viết ở nhà.
Kiên trì,bền bỉ khắc phục khó khăn.
Có thời gian biểu khoa học giành cho việc luyện viết.
Thực hiện đúng quy định khi viết chữ như: Khi ngồi học bài, viết bài cần ngồi đúng tư thế, cách đặt vở, cách cầm bút đúng qui định...
Có ý thức tự học tự rèn, có phương pháp học tập, có tính thi đua trong học tập.
3.2. Biện pháp sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu
a. Phương pháp luyện theo mẫu
Là phương pháp hoạt động có ý thức, trong đó giáo viên chọn và giải thích các mẫu, hoạt động lời nói rồi phân biệt làm cho học sinh hiểu và nắm được cơ chế của chúng và bắt chước mẫu đó để tạo ra lời nói của mình.
b. Cách thức thực hiện
Trong dạy Tập viết, giáo viên nên vận dụng tổng hợp các phương pháp giảng dạy một cách phù hợp, tuy nhiên cần chú trọng đến phương pháp luyện tập theo mẫu để hình thành kĩ năng viết chữ cho học sinh. Bởi đây là một phương pháp cực kì quan trọng, có tính chất thực hành.
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải thực hiện từ thấp đến cao để các kĩ năng hình thành một cách thuận lợi: lúc đầu là viết chữ đúng quy trình, hình dáng, cấu tạo, kích thước, sau đó là viết đúng tốc độ quy định, viết đẹp.
Việc luyện tập trong phân môn Tập Viết phải luôn được thực hiện theo mẫu. Mẫu cần quan sát là các loại chữ mẫu trong vở tập viết, mẫu chữ của giáo viên. Mẫu còn là quy trình viết mà giáo viên thực hiên để học sinh quan sát.
Giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở môn tập viết mà còn ở tất cả các môn khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài. Hoạt động rèn luyện kĩ năng viết phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như các phân môn khác
Các bài tập cho học sinh luyện tập cần chú ý. Các chữ có nét giống nhau thì cùng xếp vào một nhóm để rèn. Rèn chữ với số lượng ít nhưng lặp lại nhiều lần với yêu cầu cao dần.
Cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài để giáo viên dễ dàng nhận ra lỗi sai của học sinh đồng thời cũng dễ nhận xét sự tiến bộ của học sinh.
Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần chú ý uốn nắn để các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế. Nơi ngồi viết cần phải đảm bảo đủ ánh sáng, ghế ngồi viết phải phù hợp với chiều cao của học sinh.
Khi học sinh viết chậm khi rèn chữ thì nên tăng thời lượng ở những bài đầu năm và sau đó giảm dần.
3.3. Phân loại các nhóm đối tượng khi rèn luyện
Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kĩ năng viết, nhất là kĩ năng viết chữ cái hoa và phân loại học sinh theo 3 đối tượng:
3.3.1. Đối tượng 1: Học sinh viết chữ đúng mẫu tương đối đẹp
3.3.2. Đối tượng 2: Học sinh viết chữ đúng nhưng chưa đẹp.
3.3.3. Đối tượng 3: Học sinh viết chữ còn sai mẫu.
Dựa vào đó, giáo viên nên sắp xếp chỗ cho học sinh, những em viết chữ chưa đúng ngồi cạnh những em viết chữ đúng mẫu để đôi bạn cùng tiến. Tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập viết để các em nắm được trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản của việc rèn luyện kĩ năng viết chữ cái hoa. Hướng dẫn mỗi em mua thêm một quyển vở luyện viết chữ hoa để các em luyện viết thêm.
3.4. Khai thác từng nhóm đối tượng cụ thể
Sau khi tiến hành các phương pháp trên, em đã cố gắng áp dụng vào giảng dạy để luyện việc thực hành cho 2 em cạnh nhà, sản phẩm là chữ viết của các em đúng và đẹp. Qua đó có thể mở rộng ở quy mô lớp học, em tiến hành như sau:
Chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và ở các môn học khác.
Khi luyện tập viết chữ, luôn luôn chú ý uốn nắn để các em cầm bút và ngồi viết đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi kèm vớí tư thế đúng, rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của giáo viên. Trong quá trình luyện tập của học sinh, em thường lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
Hình thức thứ nhất: Luyện các thao tác chuẩn bị viết chữ
Học sinh viết bằng ngón tay vào khoảng không trước mặt, nếu cần có thể tập viết nét khó, nét đặc biệt chú ý để chữ viết hoa được đúng và đẹp.
Hình thức thứ hai: Luyện viết chữ hoa trên bảng lớp, bảng con của học sinh
Hình thức này có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ hoa và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ hoa của học sinh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2, trường Tiểu học Lí Thường Kiệt.doc