Đề tài Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9

MỤC LỤC

 

A. MỞ ĐẦU trang 1

 

1. Lý do chọn đề tài .trang 1

2. Đối tượng nghiên cứu trang 1

3. Phạm vi nghiên cứu .trang 2

4. Phương pháp nghiên cứu .trang 2

B. NỘI DUNG: .trang 3

 

1. Cơ sở lý luận .trang 3

2. Cơ sở thực tiễn .trang 4

3. Nội dung vấn đề trang 8

a. Đặt vấn đề trang 8

b. Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận

văn học cho học sinh lớp 9 trang 9

c. Kết quả .trang 17

C.KẾT LUẬN: trang 19

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14487 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c sinh: + Về phía giáo viên: - Giáo viên chưa đảm bảo kết hợp và tích hợp giữa dạy Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn - Giờ học văn bản, sự gợi mở giúp học sinh cảm thụ tác phẩm chưa đạt kết quả cao. Học sinh thụ động buộc giáo viên giảng nhiều, làm việc nhiều, làm thay cho trò, do đó làm tê liệt sự hào hứng học văn bản của học sinh, các em không nắm hoặc không có kiến thức văn chương dẫn đến thiếu vốn kiến thức khi làm bài tập làm văn. - Giờ tiếng Việt đòi hỏi giáo viên dạy cho học sinh dùng tiếng Việt một cách chính xác để giao tiếp, để cảm thụ vẻ đẹp ngôn từ và có cách diễn đạt tốt trong văn bản, nhưng giáo viên chưa vận dụng tối đa các tình huống giao tiếp, cho học sinh thực hành ít nên nhiều em viết sai chính tả, dùng từ đặt câu chưa đúng ngữ nghĩa, ngữ pháp. Đây là những kiến thức quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bài văn. - Giờ tập làm văn học sinh chưa được học đến nơi đến chốn. Giáo viên chưa có cách giúp học sinh hiểu rõ kiến thức SGK bằng những ví dụ mẫu linh hoạt sáng tạo, có tác dụng khắc sâu kiến thức vì thực tế SGK vẫn còn một số bài trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh. Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến việc phát huy tinh thần tích cực chủ động của học sinh trước một bài lý thuyết văn nghị luận tác phẩm văn học, cung cấp kiến thức cơ bản về kiểu bài trước khi tạo lập văn bản hoặc bài thực hành luyện tập, luyện nói, nhiều học sinh nêu lên những vấn đề rất hay song giáo viên đã bỏ lỡ cơ hội để biểu dương. Khi phát động trao đổi tranh luận, có học sinh nêu những ý kiến sai, giáo viên chưa đưa ra “lực nắn” cần thiết, vì thế khả năng tư duy của học sinh không được phát huy. - Giáo viên ít nghiên cứu sách giáo viên và tham khảo thiết kế, các tài liệu bồi dưỡng có liên quan nên chưa có định hướng tốt nhất khi quyết định sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp cho từng bài thuộc các kiểu bài nghị luận văn học. - Việc xác định các phương pháp dạy tập làm văn cũng chưa chính xác. Có giáo viên chọn phương pháp bình giảng trong tiết cung cấp kiến thức về kiểu bài, chưa vận dụng các phương pháp thực hành trong giờ luyện tập … - Giáo viên chưa nghiên cứu để tìm ra nét khác biệt cơ bản giữa nghị luận tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích ) với nghị luận về đoạn thơ, bài thơ để từ đó hình thành kiến thức cho học sinh khi làm một bài cụ thể theo thể loại. - Giáo viên chưa nghiên cứu kĩ mục đích yêu cầu cần đạt, kĩ năng cần rèn luyện trong từng bài mà người biên soạn đưa vào trong SGK từ bài hình thành lý thuyết mới đến luyện tập thực hành hoàn chỉnh kiểu bài. Việc bố trí thời lượng cho tiết dạy chưa hợp lý, chưa dành nhiều thời gian cho thực hành, giáo viên khó có thể rèn luyện kĩ năng cho học sinh. - Việc ra đề kiểm tra, đề thi của giáo viên hiện nay cũng còn nhiều điều cần bàn. Một số giáo viên không nghiên cứu kĩ chương trình, không xây dựng được ma trận đề, không nắm chắc yêu cầu của từng kiểu văn bản sẽ dẫn đến ra đề không chuẩn mực, không đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, tính thực tế. Đề bài không có tác dụng gợi tư duy sáng tạo khi cảm thụ văn học của học sinh. - Việc chấm bài cũng có nhiều thiếu sót. Thường là giáo viên chỉ cho học sinh biết điểm, có bài chấm không có lời phê nào hoặc phê bài còn dễ dãi, chưa cẩn thận, chưa cụ thể. Đa số giáo viên phê bài rất chung chung, nhận xét khái quát. Nhiều lời phê, nhận xét bên lề bài viết chưa giúp học sinh thấy được cụ thể lỗi sai của mình mà sửa. Các em không rõ lý do tại sao, vì lẽ gì mà đoạn văn, câu văn của mình bị phê là “lủng củng”, “câu què”, “tối nghĩa”, “chung chung”, cũng không hiểu có khi chỗ này “dùng từ” là nghĩa làm sao ( sai hay đúng ? Nếu sai thì sai thế nào?), chỗ kia “diễn đạt” là trục trặc hay trôi chảy, chỗ nọ một từ gạch chân là hay hay dở? Như thế rất khó giúp học sinh hiểu rõ mà tự sửa được, rút kinh nghiệm được. - Những giờ trả bài tiến hành không thống nhất theo chuyên đề mà ngành chuyên môn đã triển khai. Đa số giáo viên thực hiện không mấy công phu . Giáo án trả bài của giáo viên thường soạn qua quýt, không ghi rõ những lỗi cần phải sửa trên lớp, hoặc có thì cũng không ghi rõ cách sửa; lỗi nhặt từ bài làm của học sinh không tiêu biểu khó có thể rèn luyện những kĩ năng cần thiết nhất định. Có giáo viên trả bài rồi mới nhận xét ưu khuyết điểm, rồi hướng dẫn học sinh sửa chữa. + Về phía học sinh: - Chưa coi trọng bộ môn so với các môn khoa học tự nhiên nên chưa đầu tư, chưa có thái độ học tập đúng đắn; chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chưa chịu khó tìm hiểu thêm để mở rộng kiến thức. - Học sinh học tập làm văn một cách máy móc. Trước một đề bài các em ít nghiên cứu, đọc loáng thoáng, phóng bút viết tràng giang đại hải, không chốt lại được ở một điểm nào mà đề bài yêu cầu. - Nhiều bài văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách viện dẫn, dẫn chứng nghèo nàn, thiếu chính xác và không theo trình tự. - Học văn nghị luận văn học mà chưa biết cách phân biệt thể loại, kiểu bài. - Thiếu năng lực phân tích cần thiết, chưa thấy được cái hay, cái đẹp có thật trong văn chương do không chú ý trong giờ đọc- hiểu văn bản. Vì vậy làm văn phân tích chỉ là sự suy diễn một cách nôm na, thiếu chính xác, không sâu sắc. - Về ngữ pháp, các em viết câu không hoàn chỉnh, trong bài viết có nhiều câu què, câu cụt, câu tối nghĩa. Tình trạng mắc lỗi chính tả, ngữ pháp, dùng từ sai là phổ biến. Có bài viết từ đầu đến cuối các em không sử dụng dấu câu nào hoặc sử dụng không đúng. * Những hạn chế chủ yếu khi học sinh viết bài nghị luận văn học: - Cảm thụ tác phẩm, đoạn thơ, bài thơ chưa sâu sắc do chưa chịu khó đọc tác phẩm, chưa thuộc thơ, chưa nắm vững nội dung, nghệ thuật, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, chưa nắm cảm xúc, tình cảm của tác giả trong tác phẩm thơ trữ tình, chưa biết cách tiếp cận tác phẩm theo thể loại, chưa có cách cảm thụ riêng… - Chưa nắm chi tiết, thậm chí khái quát yêu cầu khi tạo lập văn bản nghị luận cho cả hai loại nghị luận về tác phẩm truyện và nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Do đó khi tạo lập văn bản các em thường mắc các khuyết điểm sau: + Phân tích đề chưa đúng, tìm không ra ý để viết nên phải kể lòng vòng câu chuyện hoặc diễn xuôi bài thơ, đoạn thơ. + Thực hiện nhiệm vụ từng phần trong bố cục ba phần của văn nghị luận chưa đầy đủ. Ví dụ khi viết phần mở bài, yêu cầu là giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và bước đàu nêu đánh giá sơ bộ của mình về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nhưng có học sinh giới thiệu không sót một chi tiết nào về tác giả (theo chú thích SGK) và đa số chưa rút ra được khái quát giá trị của tác phẩm để làm tiền đề cho lập luận tổng - phân - hợp của cả bài viết. Khi gặp đề bài phát biểu cảm nghĩ về nhân vật và nội dung vấn đề của tác phẩm như “Em hãy nêu cảm xúc và suy nghĩ của mình về nhân vật bé Thu và tình cảm cha con trong chiến tranh sau khi học xong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng”, học sinh chưa biết giới thiệu cảm xúc suy nghĩ chung ở phần mở bài, triển khai làm rõ ở phần thân bài, khẳng định ở phần kết bài. + Việc triển khai bài viết ở phần thân bài bằng cách nêu các luận điểm và làm rõ luận điểm bằng các luận cứ cũng không thực hiện được. Đây là hạn chế phổ biến nhất của học sinh. Thường các em không xây dựng được luận điểm hoặc sắp xếp tùy tiện không hợp lý, chặt chẽ, trình bày luận cứ dài dòng, lộn xộn, không tiêu biểu, chính xác, thậm chí chưa nắm rõ nguyên tắc nghị luận tác phẩm thơ và tác phẩm truyện. Cảm thụ về tác phẩm hay nhân vật của các em chưa phong phú, chưa sâu sắc, các em chưa mạnh dạn nêu cảm thụ riêng của bản thân trong quá trình nghị luận. + Cách lập luận trong phần thân bài chưa chặt chẽ. + Phần thân bài chưa giải quyết được hoặc giải quyết chưa hết nhiệm vụ đặt ra ở phần mở bài. Đôi khi học sinh làm sai thể loại, lạc đề. + Phần kết bài các em chưa biết cách nêu nhận định, đánh giá chung về tác phẩm hoặc khái quát hóa giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ, do đó cũng chưa mở ra được hướng suy nghĩ mới sau khi nghị luận. + Kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết sai chính tả, ngữ pháp, lối diễn đạt, cách hành văn, phương thức biểu đạt và sự kết hợp các phương thức biểu đạt còn hạn chế. b. Sự cần thiết của đề tài : Đề tài có tác dụng giúp giáo viên Ngữ văn đối chiếu giữa lý luận với thực tế chất lượng bộ môn mình giảng dạy, đặc biệt là chất lượng nghị luận văn học của học sinh lớp mình phụ trách, vận dụng những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng, giải quyết một phần tình hình học sinh học yếu kém bộ môn Ngữ văn như hiện nay. 3. NỘI DUNG VẤN ĐỀ: a. Đặt vấn đề: - Yêu cầu chủ yếu của tập làm văn nghị luận văn học là củng cố tri thức và kĩ năng đã được học ở tiết đọc hiểu văn bản và tiếng Việt. Sách giáo khoa coi phần tập làm văn là sự tổng hợp của ngôn ngữ và văn (tích hợp ngang) và nguyên tắc ôn cũ - hiểu mới (tích hợp đồng tâm), đảm bảo truyền thụ tri thức có hệ thống khoa học (tích hợp dọc). - Khi làm bài tập làm văn, học sinh phải huy động tổng hợp kiến thức tiếng Việt để viết đúng chính tả, câu đúng ngữ pháp, phù hợp với phong cách văn bản nhằm đạt được yêu cầu của đề bài và để có một bài văn hoàn chỉnh, phần văn bản giúp học sinh có kiến thức để trình bày vốn hiểu biết của mình. Bên cạnh đó, việc nắm vững phương pháp làm văn là yêu cầu không thể thiếu được. Như vậy Tập làm văn nói chung, nghị luận văn học nói riêng là môn học mang tính thực hành toàn diện tổng hợp và sáng tạo, có vị trí đặc biệt trong chương trình ngữ văn. Vì thế giáo viên phải dạy tốt, học sinh phải học tốt ở tất cả các phân môn Tập làm văn, Văn học, Tiếng Việt để chuẩn bị tốt cho việc thực hành tổng hợp này. b. Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận văn học cho học sinh lớp 9: * Đối với bản thân giáo viên: - Giáo viên cần thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động nhận thức của học sinh. Tăng cường tổ chức các hoạt động cho các em, chú trọng rèn luyện cho học sinh phương pháp học và tự học một cách chủ động, tăng cường hoạt động cá nhân với nhóm, làm cho các em tự đánh giá được năng lực và kết quả làm văn của mình. - Nắm chắc các phương pháp giảng dạy nhằm tích cực hóa các hoạt động của người học. Các bước lên lớp cần linh động. Cần chú ý đến hoạt động giao tiếp. Đây là một biện pháp quan trọng nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong việc tạo lập văn bản, phát huy vai trò chủ thể của học sinh một cách thực sự. - Phân bố cân đối thời gian giữa dạy lý thuyết và thực hành, quan tâm nhiều đến các thao tác rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Học sinh là chủ thể làm chủ mọi thao tác dưới sự hướng dẫn của giáo viên, tránh áp đặt làm giảm khả năng suy nghĩ, sáng tạo của các em. - Để rèn luyện tốt kĩ năng làm bài nghị luận văn học cho học sinh, việc hướng dẫn tìm hiểu lý thuyết là rất quan trọng. Trước hết giáo viên cần cho học sinh nắm lại những kiến thức đã học ở vòng I, sau đó mới hình thành kĩ năng về văn học, tiếng Việt, làm văn theo yêu cầu của toàn cấp THCS. GV cần cho học sinh ôn lại thế nào là văn nghị luận, các kiểu nghị luận và khẳng định điều quan trọng nhất của văn bản nghị luận là luận điểm, luận cứ và lập luận. Giáo viên rèn kĩ năng hình thành luận điểm, sắp xếp luận cứ làm rõ luận điểm, lập luận chặt chẽ cho bài viết. Kĩ năng này hiện nay học sinh rất yếu. Ngoài ra, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng các thao tác nghị luận: giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích sao cho nhuần nhuyễn. Trình tự dạy nghị luận văn học tiến hành như sau: tìm hiểu chung, cách làm bài, thực hành nói, thực hành viết. Giáo viên chú trọng rèn kĩ năng cho học sinh qua từng bài cụ thể. + Đối với bài Tìm hiểu bài nghị luận về tác phẩm (truyện hoặc đoạn trích, bài thơ hoặc đoạn thơ) chủ yếu là cho học sinh hiểu thế nào là nghị luận về tác phẩm, nắm yêu cầu đối với bài nghị luận kiểu này, rèn kĩ năng tìm vấn đề nghị luận và cách nghị luận của tác giả. + Đối với bài học Cách làm bài nghị luận về tác phẩm (truyện hoặc đoạn trích, bài thơ hoặc đoạn thơ): Đây là tiết học quan trọng giúp học sinh biết cách làm bài nghị luận về tác phẩm văn học cho đúng với những yêu cầu đã học ở tiết trước, đồng thời rèn luyện kĩ năng thực hiện các bước khi làm kiểu bài nghị luận này, cách tổ chức, triển khai các luận điểm. Giáo viên cần đặt trọng tâm vào việc hướng dẫn các bước làm bài trên cơ sờ phân tích mẫu, để HS vận dụng vào thực hành luyện tập, cụ thể là: Ä Hướng dẫn tìm hiểu đề: Đề bài văn nghị luận không bao giờ đồng nhất một dạng đề đơn điệu. Chủ yếu ở lớp 9 thường gặp 3 dạng đề cơ bản sau: - Dạng đề 1: Suy nghĩ , cảm nhận về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh của nhân vật, tác phẩm (đoạn trích).Ví dụ: + Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.(SGK Ngữ văn 9 trang 65) + Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương.(SGK Ngữ văn 9 trang 80) - Dạng đề 2: Phân tích đặc điểm nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm (đoạn trích). Ví dụ: + Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.(SGk Ngữ văn 9 trang 65) + Phân tích khổ thơ đầu trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. (SGK Ngữ văn 9 trang 80) - Dạng đề 3: Phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề. Ví dụ: + Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong truyện Người con gái Nam Xương .(SGK ngữ văn 9 trang 65) + Cảm nhận về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ qua bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. GV cần giúp HS phân biệt rõ yêu cầu của từng dạng đề: Suy nghĩ về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm là nghiên về cảm nhận chủ quan của người viết về nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh nào đó về nhân vật, tác phẩm ( không nhất thiết phải phân tích đầy đủ từng đặc điểm của nhân vật hoặc đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, có thể chọn những gì mình cảm nhận sâu sắc nhất mà thôi); còn yêu cầu của dạng đề 2 (phân tích nhân vật, tác phẩm…) là yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét đầy đủ từng đặc điểm nhân vật, từng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; đối với dạng đề 3 (phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề ), GV phải biết tích hợp các kiến thức tập làm văn ở lớp dưới để nâng cao yêu cầu giải quyết đề bài văn dạng này, HS không phải đơn thuần tập trung phân tích những biểu hiện cụ thể của vấn đề mà còn phải trình bày những cảm nhận của mình, gợi cảm xúc cho người đọc, liên hệ thực tế hiện nay… Từ việc phân tích ba dạng đề trên, giúp HS nhận thức tầm quan trọng của việc phân tích, tìm hiểu đề và biết vận dụng thành thạo, linh hoạt để hình thành những thao tác và kĩ năng phân tích đề chính xác, làm cơ sở cho việc tìm ý. Ä Hướng dẫn tìm ý: Một bài nghị luận tác phẩm văn học hay trước hết phải có ý hay. Vậy ý hay là gì? Thế nào là ý hay? Làm thế nào để tìm ra được những ý hay cho bài. Tác phẩm văn học là tấm gương phản ánh hiện thực của cuộc sống muôn màu muôn vẻ thông qua những hình tượng nhân vật, những tâm trạng, cảm xúc của chủ thể trữ tình trong tình huống, hoàn cảnh có vấn đề mấu chốt, cụ thể, tiêu biểu… Vì thế, muốn tìm được ý đúng, ý hay, ý sâu sắc, GV phải hướng cho HS đọc và tìm hiểu tác phẩm để nắm cốt truyện, chủ đề, tình cảm, các chi tiết, hình ảnh tiêu biểu…, khái quát được những điểm đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Sau khi đọc kĩ tác phẩm, khám phá ra được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc trong từng yếu tố nội dung, nghệ thuật, HS tự đặt ra và trả lời những câu hỏi để có những ý lớn, ý nhỏ… của bài văn. Dưới đây là các dạng câu hỏi gợi ý, giúp học sinh tìm ý: (?) Câu hỏi tìm hiểu tác giả, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: ?- Tác giả của tác phẩm sẽ nghị luận là ai? Có những nét gì nổi bật trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác? Sống trong thời kì nào? Có nét riêng, nét độc đáo gì về phong cách cá nhân? (Chuyên sáng tác về mảng đề tài nào? Sự nghiệp sáng tác ra sao?) ?- Tác phẩm trên được trích từ đâu? Được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Tác phẩm được đánh giá như thế nào? Có phải là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác văn chương của tác giả không?… (?) Câu hỏi tìm hiểu giá trị nội dung: ?- Đề bài gồm mấy ý? Ý nghĩa cụ thể, ý nghĩa khái quát là gì? Những ý nào tập trung biểu hiện chủ đề, tư tưởng, tình cảm của tác phẩm? Nội dung có thể hiện những vấn đề lớn, bức xúc mà xã hội quan tâm hoặc những tình cảm phổ biến, tiêu biểu của đời sống con người hay không? Có giá trị nhân văn như thế nào? ?- Nhân vật chính của truyện là ai? Đại diện cho từng lớp con người nào trong xã hội? Có những nét tính cách nào? Nét tính cách nào là tiêu biểu nhất? Nét tính cách đó được thể hiện qua những chi tiết nào? (diện mạo, cử chỉ, lời nói, hành động, tưởng tình cảm, nội tâm,…). Cảm xúc chủ yếu trong từng đoạn, khổ thơ là gì? Cảm xúc ấy được biểu hiện như thế nào? Qua những từ ngữ, hình ảnh nào?… (?) Câu hỏi tìm hiểu giá trị nghệ thuật: ?- Tác phẩm được viết theo phong cách nào? Có nét gì sáng tạo riêng, độc đáo trong nghệ thuật (tạo tình huống, bố cục, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, thể loại thơ, hình ảnh tu từ…) ? Tác phẩm trên có tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả không? Có thể hiện được bản lĩnh sáng tạo của một nhà thơ, nhà văn đầy tài năng, tâm huyết của một thời đại, một trào lưu văn học không? (?) Câu hỏi gợi mở những hướng xem xét mới: ?- Có thể so sánh, đối chiếu với những tác giả, tác phẩm nào để phân tích tác phẩm được sâu rộng, toàn diện hơn? ?- Tác phẩm có ảnh hưởng gì trong thời đại tác giả đang sống và đối với các thời đại sau này? Tại sao tác phẩm được mọi người yêu thích? Với ngần ấy câu hỏi, giáo viên không thể nào giảng giải một cách cặn kẽ, tỉ mỉ trong quá trình phân tích một đề bài trên lớp. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn những câu hỏi tìm ý cho phù hợp, có tác dụng khơi nguồn cảm xúc cho học sinh, tạo niềm yêu thích, sự hứng thú, tích cực tư duy làm bài, để bài nghị luận của các em được sâu sắc, tinh tế và chân thật. Ä Hướng dẫn lập dàn ý: Lập dàn ý là sắp xếp các ý đã tìm được ở bước tìm ý theo một trình tự hợp lý và xác định mức độ trình bày mỗi ý theo tỉ lệ thỏa đáng giữa các ý. Có thể hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý theo trình tự nội dung, nghệ thuật, rồi đến nhận xét, đánh giá, suy nghĩ của bản thân (thường dành cho phân tích tác phẩm truyện). Có thể sắp xếp đan xen giữa nội dung, nghệ thuật và nhận xét, đánh giá, suy nghĩ của bản thân (phổ biến trong phân tích thơ). Dàn bài chung của bài văn nghị luận về tác phẩm thường theo trình tự sau: 1.Mở bài :Giới thiệu tác phẩm hay đoạn trích (tùy theo yêu cầu của đề) và nêu nhận xét, đánh giá sơ bộ của mình. 2.Thân bài:Trình bày những suy nghĩ đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. (lần lượt nêu các luận điểm, phân tích, chứng minh bằng luận cứ lấy trong tác phẩm…) 3. Kết bài: Nhận định khái quát giá trị, ý nghĩa của tác phẩm hoặc đoạn trích. Lưu ý học sinh khi lập dàn ý cần tránh các lỗi: lạc ý, ý không phù hợp với nội dung, thiếu ý, lặp ý, sắp xếp ý lộn xộn… Ä Hướng dẫn viết đoạn và liên kết đoạn: Từ dàn ý sẵn có, các em có thể viết thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh. Giáo viên hướng dẫn viết từng đoạn tiêu biểu: * Đoạn mở bài: Nguyên tắc khi mở bài là cần phải nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài, chỉ được phép nêu những ý khái quát (không được lấn sang phần thân bài: giảng giải, minh họa hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài) Có nhiều cách mở bài. Có thể dùng cách mở bài trực tiếp (giới thiệu ngay vấn đề cần nghị luận) hoặc mở bài gián tiếp (nêu ra những ý kiến có liên quan đến vấn đề cần nghị luận: từ khái quát đến cụ thể, so sánh đối chiếu, tương đồng, tương phản…). Ví dụ: Có thể dùng các cách mở bài sau đây cho đề bài: “ Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân”. Cách trực tiếp: “Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân là người nông dân có tinh thần yêu làng quyện với lòng yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến và lãnh tụ. Đó là nét mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.” Cách gián tiếp: (có thể giới thiệu thêm nhiều cách) “ Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân là một gương mặt độc đáo . Do hoàn cảnh sống của mình, ông am hiểu sâu sắc sinh hoạt, tâm lý của người nông dân. Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của người dân quê Việt Nam với những vẻ đẹp mộc mạc mà đậm đà. “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc nhất của Kim Lân. Tác phẩm này được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thể hiện một cách sinh động vẻ đẹp của tình yêu làng, lòng yêu nước ở người nông dân. Ai đến với “Làng”cũng khó quên được ông Hai - một nhân vật nông dân mang những nét đẹp thật đáng yêu qua ngòi bút khắc họa tài tình của Kim Lân.” Sau khi đã hướng dẫn cụ thể cho HS các cách mở bài trên, giáo viên tiến hành cho HS rèn viết đoạn mở bài, tin chắc rằng các em sẽ viết tốt. * Đoạn thân bài: Giáo viên cần giúp học sinh nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của phần thân bài trong một bài văn. Phần này sẽ lần lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá…các luận điểm của vấn đề được đặt ra trong đề bài (thực hiện vừa đủ, không thiếu, không thừa). Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác bằng những dẫn chứng sinh động trong tác phẩm. Giáo viên nhắc lại các cách trình bày tiêu biểu mà học sinh thường vận dụng viết đoạn văn nghị luận (diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp…) Ví dụ: Một trong những đoạn thân bài của đề bài trên có thể được triển khai như sau: “ Lòng yêu nước, yêu làng của nhân vật ông Hai được thể hiện một cách cảm động qua diễn biến tâm trạng của ông. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống bất ngờ, đầy kịch tính thử thách tình yêu làng của ông Hai là có tin đồn về làng Chợ Dầu đã theo giặc . Ông Hai vô cùng đau xót: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được…ông cúi gầm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám đi đâu. Ông buồn, ông xấu hổ. Ông tự tranh luận với mình , tự dằn vặt mình hoặc đâm cáu gắt với vợ… Đêm, ông trằn trọc không sao ngủ được; ông hết trở mình bên này, lại trở mình bên kia thở dài,….chân tay ông lão nhũn ra,….Tin đồn lan xa, mụ chủ nhà hay được lại đuổi khéo gia đình ông. Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc. Ông có nghĩ đến việc trở về làng, nhưng liền sau đó ông phản kháng lại ngay, ông phẫn uất nói: “Làng thì yêu thạt nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Thật là tuyệt đường sinh sống! Ông quyết không trở về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Ông chỉ còn biết tâm sự với đứa con nhỏ ngây thơ. Qua những lời tâm sự mộc mạc, chân thật đầy cảm động với con, ta thấy được tấm lòng yêu nước cao đẹp của người nông dân này . Như nhà văn Ê-ren-bua có nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu nước”. Ông Hai đúng một con người như thế – một con người thiết tha yêu làng, vì yêu làng nên ông yêu nước, kính yêu cụ Hồ, quyết trung thành với kháng chiến. Đó chính là nét đẹp mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.” Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự kiên kết, chuyển tiếp một cách linh hoạt, uyển chuyển, tránh gò bó, máy móc, công thức. * Đoạn kết bài: Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài.Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man hay lặp lại ý diễn giải, minh họa, cụ thể, chi tiết, cũng không nên lặp lại nguyên văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá, tổng kết vấn đề. Có nhiều cách kết bài, có thể là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; có thể là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tình cảm, tác giả, tác phẩm ; có thể là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan. Ví dụ: Đánh giá nhân vật và khẳng định giá trị tác phẩm. “ Ông Hai trong truyện ngắn Làng là một nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Qua truyện này, bằng những tình huống, chi tiết chân thật, thú vị, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý sinh động, Kim Lân đã đem đến cho chúng ta một hình tượng hấp dẫn về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình yêu thiết tha, sự gắn bósâu nặng với làng quê, đất nước của nhân vật ông Hai luôn luôn có ý nghĩa giáo dục thấm thía đối với các thế hệ bạn đọc.” + Đối với tiết Luyện tập làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), giáo viên vừa củng cố tri thức về yêu cầu, cách làm bài vừa qua luyện tập giúp học sinh thành thạo thêm kĩ năng tìm ý, lập ý, kĩ năng viết bài hoàn chỉnh. Để chuẩn bị cho tiết luyện tập, giáo viên phải giao việc chuẩn bị ở nhà cho học sinh theo yêu cầu SGK, chuẩn bị dàn ý chi tiết cho phần luyện tập trên lớp. Giáo viên nhận xét đánh giá bài luyện tập của học sinh, vừa rèn luyện kĩ năng viết bài đúng yêu cầu vừa rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận gắn liền cùng sự phân tích, giải thích, chứng minh, kết hợp nhiều thao tác nghị luận và phải thể hiện những suy nghĩ, cảm thụ cá nhân. + Đối với tiết Luyện nói nghị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9.doc
Tài liệu liên quan