Có thể nói tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất với cuộc sống. Mà cuộc sống thì hết sức đa dạng, phong phú, với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, tất cả các kiểu nhân vật, các mẫu người ta vẫn thường gặp hằng ngày. Để tập trung khắc họa kiểu nhân vật hay triết lý, hay suy nghĩ, trăn trở, về lí tưởng, về cuộc đời, về yêu ghét, vui buồn như nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc, hoặc để khắc họa kiểu nhân vật ăn nói khúc chiết, gãy gọn “khôn ngoan” như Hoạn Thư trong Truyện Kiều, Nam Cao cũng như Nguyễn Du không thể không dùng các yếu tố nghị luận để tô đậm tính cách nhân vật mà mình muốn khắc họa. Hoặc để thể hiện một quan điểm, lập trường, cách nhìn nhận, đánh giá, một ý nghĩa triết lý nào đó trong câu chuyện, người ta có thể sử dụng kết hợp yếu tố nghị luận. Trong một văn bản tự sự thì nghị luận chỉ là những yếu tố đơn lẻ, biệt lập trong một tình huống cụ thể, một sự việc hay một nhân vật cụ thể, đan xen “thấp thoáng”, cốt để làm nổi bật sự việc và con người, làm cho tự sự thêm sâu sắc. Bài học lý thuyết cần giúp học sinh nắm được vai trò, tác dụng này của yếu tố nghị luận trong văn tự sự. Yếu tố nghị luận thường được biểu hiện trong văn bản tự sự bằng cách:
- Người viết (kể) và nhân vật nêu lên các ý kiến, nhận xét cùng các lí lẽ dẫn chứng để người đọc (người nghe) phải suy ngẫm về vấn đề đó. Thường xuất hiện trong các cuộc đối thoại, độc thoại.
- Dùng các từ ngữ và kiểu câu mang tính chất lập luận.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 50601 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
- Trước một đề bài văn tự sự, các em ít chịu khó suy nghĩ, tưởng tượng sáng tạo, mà chỉ đọc loáng thoáng, phóng bút viết tràng giang đại hải, không cần xác định phải kể theo trình tự nào, các tình tiết nào cần phải kể rõ ràng, cụ thể, tình tiết nào nên lượt thuật, cách thể hiện các nhân vật nhân vật chính, phụ như thế nào…cũng như ý nghĩa, bài học sâu sắc rút ra từ câu chuyện. Nhiều bài văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách kể chuyện, chưa xây dựng được cốt truyện, tình huống, sự việc một cách chân thực, sinh động, lời văn quá thô thiển hoặc không được trong sáng, rõ ràng.
- Thiếu năng lực cảm thụ văn học, năng khiếu văn chương, hạn chế về khả năng, ý thức nhận thức cuộc sống. Vì vậy làm văn tự sự chỉ mang tính gượng ép, , nhằm mục đích đối phó là chính.
- Về ngữ pháp, kĩ năng dùng từ, viết câu của học sinh hiện nay còn bộc lộ nhiều yếu kém. Trong bài viết của các em có nhiều câu què, câu cụt, câu tối nghĩa. Tình trạng mắc lỗi chính tả, dùng từ sai cũng rất phổ biến. Có bài viết từ đầu đến cuối các em không sử dụng dấu câu nào hoặc sử dụng không đúng.
* Những hạn chế chủ yếu khi học sinh viết bài văn tự sự ở lớp 9:
- Chưa nắm vững đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự, cách viết bài văn tự sự đã học ở các lớp dưới, chưa xây dựng được câu chuyện có bố cục hoàn chỉnh, có cốt truyện hợp lí, có ý nghĩa theo yêu cầu đề bài, cách kể chưa tự nhiên, chân thực, sinh động (kết hợp các yếu tố miêu tả và biểu cảm)
- Chưa nắm được yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ viết bài văn tự sự ở lớp 9. Đó là yêu cầu kết hợp yếu tố miêu tả nội tâm trong việc khắc họa đặc điểm, tính cách nhân vật; kết hợp yếu tố nghị luận để làm nổi bật ý nghĩa sự việc, tô đậm tính chất triết lí của câu chuyện; sử dụng hiệu quả các yếu tố đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm …
Do đó khi tạo lập văn bản tự sự các em thường mắc các khuyết điểm sau:
+ Tìm không ra sự việc để kể nên giới thiệu lòng vòng câu chuyện hoặc đi vào miêu tả nhân vật quá nhiều.
+ Không biết lựa chọn chi tiết tiêu biểu, quan trọng để kể nên viết lan man, dài dòng, lời thoại quá vụng về, thô thiển, thiếu tính thẩm mỹ, chọn lọc.
+ Kể diễn biến sự việc chưa sinh động, chân thực, hấp dẫn người đọc do chưa vận dụng phù hợp, tự nhiên các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận.Thường thì các em hay hạn chế ở việc thể hiện nội tâm nhân vật do không hiểu rõ quy luật tâm lí, bộc lộ cảm xúc thiếu tự nhiên, thậm chí dẫn đến những sự việc hoặc kết thúc vô lí. Kết hợp yếu tố nghị luận chưa khéo léo, tế nhị, làm giảm đi giá trị của câu chuyện.
+ Thực hiện nhiệm vụ từng phần trong bố cục ba phần của bài làm văn chưa đầy đủ. Ví dụ khi viết phần mở bài, yêu cầu học sinh phải giới thiệu chung về câu chuyện, nhân vật được kể, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện, nhưng nhiều em lại đi thẳng vào diễn biến cốt truyện như các nhà văn thực thụ, được “phá cách”, và đôi khi cũng không cần nêu lên suy nghĩ, ấn tượng gì của mình trong phần kết bài ( chỉ kết thúc câu chuyện). Như thế sẽ làm cho ý nghĩa bài văn bị dàn trải, lại chưa mở ra được hướng suy nghĩ cho người đọc.
+ Kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, lối diễn đạt, cách hành văn còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, nhiều em chưa biết cách trình bày bài văn tự sự, ngắt đoạn không đúng chỗ, không phân biệt lời thoại với lời kể.
b. Sự cần thiết của đề tài :
Đề tài có tác dụng giúp giáo viên Ngữ văn đối chiếu giữa lý luận với thực tế chất lượng bộ môn mình giảng dạy, đặc biệt là chất lượng làm văn tự sự của học sinh lớp mình phụ trách, vận dụng những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng, giải quyết một phần tình hình học sinh học yếu kém bộ môn Ngữ văn như hiện nay, cũng là góp phần quan trọng vào việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
3. NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
a. Đặt vấn đề:
- Yêu cầu chủ yếu của tập làm văn tự sự ở lớp 9 là củng cố tri thức và kĩ năng đã được học ở các lớp dưới, đồng thời nâng cao hơn kĩ năng viết bài. Qua đó bồi dưỡng năng lực quan sát, nhận thức và giáo dục tình cảm cho học sinh trước những sự việc, con người trong đời sống xung quanh.
- Hơn nữa, chương trình Ngữ văn mới coi phần tập làm văn là sự tổng hợp của ngôn ngữ và văn (tích hợp ngang) và nguyên tắc ôn cũ - hiểu mới (tích hợp đồng tâm), đảm bảo truyền thụ tri thức có hệ thống khoa học (tích hợp dọc).
Khi làm bài tập làm văn, học sinh phải huy động tổng hợp kiến thức tiếng Việt để viết đúng chính tả, câu đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác, phù hợp với phong cách văn bản nhằm đạt được yêu cầu của đề bài và để có một bài văn hoàn chỉnh, phần văn bản có vai trò hỗ trợ làm văn tự sự về phương pháp, đề tài sáng tác, kích thích trí tưởng tượng, óc quan sát của học sinh. Bên cạnh đó, việc nắm vững phương pháp làm văn là yêu cầu không thể thiếu được.
Như vậy Tập làm văn nói chung, làm văn tự sự nói riêng là môn học mang tính thực hành toàn diện tổng hợp và sáng tạo, có vị trí đặc biệt trong chương trình Ngữ văn. Vì thế giáo viên phải dạy tốt, học sinh phải học tốt ở tất cả các phân môn Tập làm văn, Văn học, Tiếng Việt để chuẩn bị tốt cho việc thực hành tổng hợp này.
b. Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận văn học cho học sinh lớp 9:
b.1. Đối với bản thân giáo viên:
- Dạy học Ngữ văn cũng như nhiều môn học khác, giáo viên cần thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động nhận thức của học sinh. Tăng cường tổ chức các hoạt động cho các em, chú trọng rèn luyện cho học sinh phương pháp học và tự học một cách chủ động, tăng cường hoạt động cá nhân với nhóm, làm cho các em tự đánh giá được năng lực và kết quả làm văn của mình.
- Nắm chắc các phương pháp giảng dạy nhằm tích cực hóa các hoạt động của người học. Ngoài các phương pháp phổ biến như nêu vấn đề, vấn đáp, hoạt động hợp tác, giáo viên có thể sử dụng lời nói nghệ thuật, thông báo, giải thích, trò chơi, trực quan… Các bước lên lớp cần linh động, chú ý đến hoạt động giao tiếp. Đây là một biện pháp quan trọng nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong việc tạo lập văn bản, phát huy vai trò chủ thể của học sinh một cách thực sự.
- Phân bố cân đối thời gian giữa dạy lý thuyết và thực hành, quan tâm nhiều đến các thao tác rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Học sinh là chủ thể làm chủ mọi thao tác dưới sự hướng dẫn của giáo viên, tránh áp đặt làm giảm khả năng suy nghĩ, sáng tạo của các em.
- Như đã nói, Tập làm văn là môn học mang tính chất thực hành – tổng hợp, đòi hỏi học sinh phải vận dụng cả kiến thức, kĩ năng về Văn học, Tiếng Việt. Do vậy, dạy học tập làm văn không thể tách rời hai phân môn này. Căn cứ vào chương trình, chuẩn kiến thức – kĩ năng, giáo viên phải chú ý vận dụng tích hợp các phân môn một cách thường xuyên, nhuần nhuyễn và linh hoạt. Trong đó, Tập làm văn vẫn đóng vai trò chủ đạo.
* Dạy học phân môn Tập làm văn:
Để rèn luyện tốt kĩ năng làm bài văn tự sự cho học sinh, việc hướng dẫn tìm hiểu lý thuyết là rất quan trọng. Trước hết giáo viên cần cho học sinh nắm lại những kiến thức đã học về kiểu bài, sau đó mới hình thành kĩ năng về Văn học, Tiếng Việt, làm văn theo yêu cầu của toàn cấp THCS. GV cần cho học sinh ôn lại thế nào là văn tự sự, các yếu tố quan trọng, cơ bản trong văn tự sự như tình huống, cốt truyện, nhân vật, nhấn mạnh vai trò của người kể chuyện và ngôn ngữ kể.
Đối với kiểu bài tự sự, học sinh đã được học những kiến thức và kĩ năng cơ bản từ lớp 6 và được nâng cao hơn ở lớp 8 (kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm). Trong chương trình lớp 9, làm văn tự sự đạt đến yêu cầu cao nhất, có sự kết hợp gần như tất cả các phương thức biểu đạt. Nếu ở các lớp dưới, bài làm văn tự sự phải đạt mức độ đúng thì đến lớp 9, bài văn này không chỉ phải “đúng” mà còn thực sự “hay”. Yêu cầu nâng cao kĩ năng viết bài văn tự sự được trình bày qua các đơn vị bài học chủ yếu là: Miêu tả trong văn bản tự sự; Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự; Nghị luận trong văn bản tự sự; Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự; Người kể chuyện trong văn bản tự sự...Và giáo viên sẽ từng bước củng cố, hướng dẫn học sinh hoàn thiện kĩ năng làm bài ở Bài viết văn tự sự (Bài viết số 2 và số 3)
Trước khi đi vào tìm hiểu và rèn luyện kĩ năng thực hành vận dụng các yếu tố trên vào bài văn tự sự, giáo viên cần giúp học sinh nắm lại kiến thức cơ bản về văn tự sự.VD: Thế nào là văn tự sự ? (Văn bản chủ yếu dùng phương thức tự sự – là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, để từ đó nêu lên một ý nghĩa nào đó); các yếu tố quan trọng không thể thiếu trong văn bản tự sự là gì ? (sự việc, nhân vật, cốt truyện, ngôi kể…). Sau đó giúp các em hiểu rõ vai trò, tác dụng của các yếu tố đan xen trong bài văn nghị luận và có được kĩ năng làm bài thông qua từng đơn vị kiến thức.
- Bài Miêu tả trong văn bản tự sự (Bài 6 - tiết 33):
Học sinh đã thấy được vai trò và ý nghĩa của yếu tố miêu tả trong văn tự sự ở lớp 8. Song qua việc phân tích đoạn văn trích theo yêu cầu SGK, cần cho các em hiểu rõ hơn rằng việc miêu tả tái hiện lại những hình ảnh, trạng thái, đặc điểm, tính chất… của sự vật, con người và cảnh vật trong tác phẩm sẽ làm cho lời kể trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn.
Cần dành thời gian cho học sinh thực hành luyện tập nhận biết, phân tích tác dụng của yếu tố miêu tả trong văn tự sự và viết đoạn văn tự sự kết hợp miêu tả. Uốn nắn, sửa chữa để hoàn thiện kĩ năng hơn.
VD: Bài tập 1 (SGK/ trang 92): Các yếu tố miêu tả người và tả cảnh trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều và Cảnh ngày xuân nhằm tái hiện lại chân dung “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” của Thúy Kiều và Thúy Vân và làm nổi bật cảnh sắc mùa xuân, làm cho văn bản sinh động, hấp dẫn và giàu chất thơ.
Bài tập 2 (SGK/trang 92): Có thể hướng dẫn học sinh viết đoạn văn kể về việc chị em Thúy Kiều đi chơi trong buổi chiều ngày Thanh minh dựa vào đoạn trích Cảnh ngày xuân: (Lưu ý xác định các từ ngữ có tác dụng gợi tả hình ảnh thiên nhiên, không khí lễ hội, trạng thái tâm lí con người…)
VD: “Một buổi chiều xuân trong tiết Thanh minh, những cánh chim én rộn ràng bay liệng như thoi đưa giữa bầu trời trong sáng, thảm cỏ non như trải rộng tới chân trời, trên cành lê điểm một vài bông hoa trắng. Chị em Thúy Kiều hòa vào dòng người nhộn nhịp đi chơi xuân. Tiết Thanh minh mọi người sắm sửa lễ vật đi tảo mộ và vui hội đạp thanh. Quang cảnh thật rộn ràng, tấp nập. Khi mặt trời ngả bóng về tây, không khí lặng dần, chị em Kiều ra về trong tâm trạng bâng khuâng”.
Ngoài bài tập SGK, giáo viên có thể ra thêm bài tập về nhà cho học sinh: Viết đoạn văn ngắn kể về một sự việc mà em quan sát, chứng kiến.
- Bài “Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự” (Bài 8 – tiết 40):
Nhân vật là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm tự sự. Để xây dựng nhân vật nhà văn thường miêu tả ngoại hình và miêu tả nội tâm. Miêu tả nội tâm nhằm khắc họa “chân dung tinh thần” của nhân vật, là tái hiện lại những trăn trở, dằn vặt, những rung động tinh vi trong tình cảm, tư tưởng của nhân vật (những yếu tố này nhiều khi không thể tái hiện được bằng miêu tả ngoại hình). Vì thế miêu tả nội tâm có vai trò và tác dụng to lớn trong việc khắc họa đặc điểm, tính cách nhân vật.
Liên hệ, hướng dẫn học sinh phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích và Lão Hạc (SGK) để biết được các cách thức khác nhau để miêu tả nội tâm nhân vật: diễn tả trực tiếp những ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm của nhân vật; cũng có thể miêu tả nội tâm gián tiếp thông qua miêu tả cảnh vật, nét mặt, cử chỉ, trang phục…của nhân vật. Từ đó rèn luyện kĩ năng sử dụng các yếu tố miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự. Có thể tổ chức theo nhóm, gợi ý để học sinh thực hành tại lớp các bài tập 1,3 trong phần Luyện tập (SGK).
Bài tập 1: Thuật lại đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều bằng văn xuôi, chú ý miêu tả nội tâm của nàng Kiều.
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuyển thành văn xuôi đoạn trích, lưu ý về độ dài đoạn văn, lựa chọn ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ ba (dựa vào đoạn trích thơ đã học để xác định các sự việc diễn ra và tâm trạng của Kiều lúc đó).
VD: Sau khi Kiều quyết định bán mình chuộc cha, mụ mối đưa một gã đàn ông đến nhà Vương ông. Gã đàn ông ấy khoảng hơn bốn mươi tuổi, ăn mặc chải chuốt tới mức đỏm dáng. Hắn xưng là Mã Giám Sinh nhưng khi vào nhà, chủ nhà hỏi han trò chuyện thì hắn bộc lộ rõ chân tướng là một kẻ lưu manh vô học bằng những câu trả lời cộc lốc, trống không, với cử chỉ ngồi tót lên ghế trên một cách sỗ sàng. Gã ngồi gật gù, có vẻ ưng ý khi xem xét, “kiểm tra” tài sắc của Kiều như một món hàng ngoài chợ, rồi bắt đầu một cuộc mặc cả đúng nòi con buôn… Trong khi mụ mối và Mã Giám Sinh dường như đang “say đòn” với cuộc mua bán thì nàng Kiều đáng thương chết lặng đi trong nỗi đau đớn, tuổi nhục ê chề… Nàng đâu ngờ cuộc đời mình lại đến nông nỗi này ?… Cuối cùng thì cuộc mặc cả cũng kết thúc, một người con gái tài sắc, đoan trang, hiếu thảo được định giá “vàng ngoài bốn trăm”.
Bài tập 2: Ghi lại tâm trạng của em sau khi để xảy ra một chuyện có lỗi với bạn.
Cần lưu ý học sinh kể lại sự việc không hay mà mình gây ra cho bạn là việc gì, diễn ra như thế nào, tâm trạng của em sau khi gây ra việc không hay đó ra sao, có thể miêu tả nội tâm bằng cách nào. Cho học sinh tham khảo văn bản Bài học đường đời đầu tiên (Ngữ văn 6, tập hai), xác định đâu là kết hợp miêu tả nội tâm của nhân vật trong bài, từ đó vận dụng vào bài làm của mình. (Nên viết ngắn gọn)
VD: Đoạn văn miêu tả nội tâm: “Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng tôi. Còn Dế Choắt than thở thế nào, tôi cũng không để tai. Hồi ấy, tôi có tính tự đắc, cứ miệng mình nói tai mình nghe chứ không biết nghe ai, thậm chí cũng chẳng để ý có ai nghe mình không”.
(Theo Dế mèn phiêu lưu kí)
Gọi 2 - 3 em trình bày, cả lớp cùng góp ý sửa chữa. Giáo viên bổ sung, uốn nắn. Có thể đọc đoạn văn cho học sinh tham khảo:
Một hôm tôi bị mất cây bút kim tinh mà người cậu vừa mới tặng. Tôi vừa buồn vừa sợ nên khóc hu hu. Cô giáo bảo cả lớp mở cặp sách cho cô khám xét. Cả lớp lào rào tiếng mở cặp, xì xầm, bàn tán… Chợt có một người không chịu mở cặp cho cô xem. Đó là Hạnh, cô bạn ở cạnh nhà tôi.Cô bé rất say mê đọc truyện và thích những đồ vật lung linh, đẹp mắt. Mặt Hạnh tái mét. Cô giáo giật lấy chiếc cặp mở toang ra. Và tôi thấy có cây bút của mình ở trong đấy.Cả lớp làm ầm lên, cô hỏi Hạnh: “Tại sao em lại lấy cắp của bạn?”Hạnh giàn giụa nước mắt , giọng đứt quãng: “Da ! Thưa… em không lấy cắp… Em nhặt được ạ !”… Cô giáo bảo: “Nếu nhặt được của rơi thì em phải trả lại cho người đánh mất chứ. Em làm cô thất vọng quá”. Tôi tức giận ném cho Hạnh cái nhìn khinh bỉ: “Bạn đừng nói dối ! Đồ ăn cắp”. Và từ đó tôi bắt đầu xa lánh Hạnh.
… Rồi một hôm đang giờ học, Hạnh mang lên cho cô giáo một hộp bút chì màu bảo là nhặt được. Tuần sau, Hạnh lại mang lên một cuốn tập mới, rồi một số tiền nhặt được… Có lúc tôi cảm thấy dường như mình có lỗi với Hạnh.
Một hôm, mẹ Hạnh hớt hải chạy sang xin mẹ tôi một củ gừng. Hạnh bị cảm lạnh. Tôi cũng theo mẹ chạy sang. Mẹ Hạnh kể dạo này hễ đi học về là Hạnh tranh thủ đi hốt trấu hoặc ra ruộng bắt cua về bán, dành dụm tiền để ủng hộ cho các bạn nghèo, học giỏi. Hạnh vừa nhờ mẹ mua một chiếc khăn tay mới để tặng bạn… Tôi dần dần vỡ lẽ. Thì ra bấy lâu nay Hạnh không hề nhặt được của rơi. Hạnh âm thầm kiếm tiền mua đồ mang đến lớp bảo là nhặt được. Hạnh muốn chuộc lại lỗi lầm của mình. Còn cây bút của tôi có thể đúng là Hạnh đã nhặt được. Tôi buồn quá, bật khóc… Cho đến bây giờ mỗi lần nhớ đến tuổi thơ tôi lại nhớ đến Hạnh, nhớ con ăn cắp… như nhớ một bài học tuổi thơ, một kỉ niệm khó phai mờ.
- Bài Nghị luận trong văn bản tự sự ( Bài 10 – tiết 50) và “Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận (Bài 12 – tiết 60):
Có thể nói tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất với cuộc sống. Mà cuộc sống thì hết sức đa dạng, phong phú, với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, tất cả các kiểu nhân vật, các mẫu người ta vẫn thường gặp hằng ngày. Để tập trung khắc họa kiểu nhân vật hay triết lý, hay suy nghĩ, trăn trở, về lí tưởng, về cuộc đời, về yêu ghét, vui buồn… như nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc, hoặc để khắc họa kiểu nhân vật ăn nói khúc chiết, gãy gọn “khôn ngoan” như Hoạn Thư trong Truyện Kiều,… Nam Cao cũng như Nguyễn Du không thể không dùng các yếu tố nghị luận để tô đậm tính cách nhân vật mà mình muốn khắc họa. Hoặc để thể hiện một quan điểm, lập trường, cách nhìn nhận, đánh giá, một ý nghĩa triết lý nào đó trong câu chuyện, người ta có thể sử dụng kết hợp yếu tố nghị luận. Trong một văn bản tự sự thì nghị luận chỉ là những yếu tố đơn lẻ, biệt lập trong một tình huống cụ thể, một sự việc hay một nhân vật cụ thể, đan xen “thấp thoáng”, cốt để làm nổi bật sự việc và con người, làm cho tự sự thêm sâu sắc. Bài học lý thuyết cần giúp học sinh nắm được vai trò, tác dụng này của yếu tố nghị luận trong văn tự sự. Yếu tố nghị luận thường được biểu hiện trong văn bản tự sự bằng cách:
Người viết (kể) và nhân vật nêu lên các ý kiến, nhận xét cùng các lí lẽ dẫn chứng để người đọc (người nghe) phải suy ngẫm về vấn đề đó. Thường xuất hiện trong các cuộc đối thoại, độc thoại.
Dùng các từ ngữ và kiểu câu mang tính chất lập luận.
Bài luyện tập phải hướng tới rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận, qua đó củng cố thêm kiến thức về văn tự sự như: sự việc, người kể, ngôi kể, trình tự kể… Từ sự phân tích vai tró, tác dụng của yếu tố nghị luận trong đoạn văn Lỗi lầm và sự biết ơn, nên dành nhiều thời gian hướng dẫn học sinh làm bài tập thực hành viết đoạn văn (mục II).
VD: Bài tập 1: (SGK trang 161) Viết một đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp. Trong buổi sinh hoạt lớp đó, em đã phát biểu ý kiến để chứng minh Nam là một người bạn tốt. (hoặc bầu chọn một bạn trong lớp làm lớp trưởng chẳng hạn)
Giáo viên cần gợi ý cho học sinh bằng cách nêu câu hỏi như:
Buổi sinh hoạt lớp diễn ra như thế nào? (thời gian, địa điểm, ai là người điều khiển, không khí của buổi sinh hoạt lớp ra sao,…)
Nội dung buổi sinh hoạt là gì ? Em đã phát biểu về vấn đề gì ? Tại sao lại phát biểu về việc đó ?
Em đã thuyết phục cả lớp rằng Nam là người bạn rất tốt như thế nào (lí lẽ, ví dụ, lời phân tích,…)
Yêu cầu học sinh viết đoạn văn trong 10 phút theo các gợi ý đã trao đổi. Gọi một em đọc đoạn văn và hướng dẫn cả lớp phân tích, góp ý. Giáo viên nhận xét, đánh giá.
Có thể cho học sinh tham khảo đoạn văn sau:
Sáng nay, trong buổi sinh hoạt lớp với chủ đề “Ai là người bạn tốt nhất?”.Lớp trưởng Uyên sau khi nhận xét chung tình hình của lớp trong tuần, bạn đã thông qua kết quả đánh giá 5 người bạn tốt nhất do các tổ bình bầu. Uyên vừa dứt lời, cả lớp vỗ tay đồng thanh nhất trí. Nhưng riêng lòng tôi cứ day dứt về trường hợp của Nam. Nam không được ban cán bộ lớp xét duyệt vì lí do bạn đi học muộn một buổi. Sau khi cân nhắc, suy nghĩ, tôi quyết định phát biểu ý kiến của mình về trường hợp của Nam. Tôi nói:
- Thưa các bạn, lớp ta ai cũng biết Nam là một học sinh học giỏi, một cán bộ lớp luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nam vốn ít nói, nhưng lại rất chan hòa với bạn, sẵn sàng giúp đỡ các bạn một cách âm thầm như giảng lại bài cho bạn Thanh bị ốm, đưa Vân về tận nhà khi xe bạn bị hỏng giữa trưa hè, chân thành, tế nhị góp ý khi bạn chưa nghiêm túc trong giờ kiểm tra… Lí do Nam đi học muộn cũng bởi sáng hôm đó, trên đường đi học Nam đã giúp em Mai lớp 6A bị ốm bất thường cấp cứu vào bệnh viện. Tôi nghĩ: người bạn tốt là người không những biết chia sẻ khó khăn với bạn bè, sẵn sàng giúp đỡ người khác mà còn dám thẳng thắn phê bình giúp bạn tiến bộ. Tôi khẳng định: Nam là người bạn rất tốt của chúng ta !
Tôi vừa dứt lời, cả lớp hướng về phía Nam vỗ tay rào rào tán thưởng. Thậm chí có bạn còn đề nghị Nam là đội viên xuất sắc trong đợt thi đua này. Vâng, phẩm chất người bạn tốt phải thể hiện từ ý nghĩ, cử chỉ, đến việc làm cụ thể chứ đâu phải chỉ ở lời nói !
Bài tập 2: Viết đoạn văn kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu đã làm cho em cảm động.
Cần gợi ý cho học sinh xác định:
Người bà đã để lại một việc làm, lời nói hay một suy nghĩ? Điều đó diễn ra trong hoàn cảnh nào ?
Nội dung cụ thể là gì ? Nội dung đó giản dị mà sâu sắc, cảm động như thế nào ?
Suy nghĩ về bài học rút ra từ câu chuyện trên.
Học sinh dựa vào đoạn văn tham khảo SGK để làm. (Về nhà làm và trình bày ở phần KTBC trong giờ học sau)
- Bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự (Bài 13 – tiết 64):
Nhân vật trong tự sự được miêu tả trên nhiều phương diện: ngoại hình, nội tâm, hành động, ngôn ngữ, trang phục,… Ở các lớp 6,7,8 học sinh đã học nhiều về miêu tả nhân vật ở các mặt về ngoại hình, hành động, trang phục… Ngữ văn 9 tập trung xem xét nhân vật ở phương diện ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật thể hiện trong tự sự bao gồm ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Trong độc thoại có độc thoại thành lời và độc thoại nội tâm (nói thầm với chính mình, không thành lời). Ngôn ngữ là phương tiện nghệ thuật để nhà văn khắc họa tính cách và phẩm chất nhân vật khá rõ nét. Qua hướng dẫn học sinh tìm hiểu đoạn trích từ truyện ngắn Làng của Kim Lân (theo câu hỏi SGK), giáo viên giúp các em thấy được:
- Hình thức đối thoại tạo cho câu chuyện có không khí gần gũi, thật như cuộc sống đang diễn ra trong thực tế; tạo tình huống để khai thác nội tâm nhân vật; thể hiện tư tưởng, thái độ tình cảm của người nói.
- Hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm giúp cho người đọc cảm nhận được chiều sâu tâm lí tinh tế, nhạy cảm của nhân vật; góp phần khắc họa thành công tính cách nhân vật.
Sau bài học này, giáo viên chú ý hướng dẫn, yêu cầu học sinh thực hiện bài tập 2 (SGK) ở nhà: Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề tài tự chọn, trong đó sử dụng cả hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm.(Kiểm tra, chấm điểm ở giờ học sau). Lưu ý lời đối thoại phải được chọn lọc tránh sa vào “vụn vặt”, thể hiện ý nghĩ, thái độ tình cảm, tính cách của nhân vật, có tác dụng tái hiện câu chuyện một cách sinh động; mỗi lượt thoại được đánh dấu bằng dấu gạch ngang đầu dòng.
Lời độc thoại, độc thoại nội tâm để biểu hiện tâm trạng nhân vật: day dứt, hối hận, xúc động, biết ơn, lo lắng, vui mừng…
Cho học sinh tham khảo những đoạn văn sử dụng tốt các yếu tố này (bài làm hay của học sinh).
VD: “… Tôi chỉ nhớ ánh mắt rưng rưng , Mai nhìn tôi, đầy tức giận, môi run rẩy:
- Đi ra ngay !
Tôi chạy vụt đi, lòng nặng nề vô cùng. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Mai giận dữ như vậy. Tôi chạy, chạy như trốn ánh mắt ấy, tôi muốn khóc quá. Tôi rất sợ , sợ sự giận dữ Mai ném cho tôi, sợ cả chính việc mình vừa làm. Về đến nhà, tôi đóng sập cửa phòng lại. Tôi thở hổn hển, chân tôi đứng không vững nữa, tôi bần thần ngồi xuống ghế như không tin chuyện vừa xảy ra. Lúc bình tĩnh lại, tôi tự trách mình sao lại làm như vậy. “Tại sao tôi lại không chiến thắng được tính tò mò của mình? Tại sao?…”. Tôi buồn bực quăng cả chồng sách trên bàn xuống đất. Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt, không yên.”
(Kể lại một lần trót xem nhật kí của bạn)
- Bài Người kể chuyện trong văn bản tự sự (Bài 14 – tiết 70):
Ngữ văn 9 tiếp tục nâng cao một bước về người kể chuyện và ngôi kể trong văn tự sự. Người kể là ai, xuất hiện ở ngôi nào, xưng là gì? Đó là người trong cuộc hay ngoài cuộc? Cũng là sự việc và con người ấy, nhưng nếu thay đổi ngôi kể, thay đổi người kể thì nội dung hiệc thực được phản ánh và ý nghĩa của câu chuyện có thể rất khác nhau. Cần giúp học sinh thấy được đặc điểm, tác dụng của hai hình thức người kể chuyện trong văn bản tự sự:
+ Người kể chuyện theo ngôi thứ ba: là người giấu mình, nhưng cái nhìn của người kể này lại có mặt ở tất cả mọi nơi trong văn bản, đã biết hết mọi sự việc, nhìn thấu được nhân vật trong truyện.
+ Người kể chuyện theo ngôi thứ nhất: người kể xưng “tôi” , giúp cho người kể dễ đi sâu vào tâm tư tình cảm, miêu tả được những diễn biến tâm lí tinh vi, phức tạp trong nhân vật “tôi”, nhưng khó tạo ra cái nhìn nhiều chiều, dễ gây nên sự đơn điệu trong giọng văn trần thuật.
Vai trò của người kể chuyện là dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện, kết nối các sự việc, giúp người đọc hiểu về nhân vật, đưa ra nhận xét, đánh giá về những điều được kể. Việc thay đổi ngôi kể trong văn tự sự để thay đổi điểm nhìn khác nhau là rất có ý nghĩa.
- Thực hành Viết bài Tập làm văn số 2 (Văn tự sự – tiết 34,35):
Trước khi làm bài, giáo viên cần gợi nhắc cho học sinh nắm lại các bước làm một bài văn nói chung và bài văn tự sự nói riêng đã được học, đó là:
Tìm hiểu đề, tìm ý.
Lập dàn ý.
Viết bài.
Đọc lại bài và sửa chữa.
Yêu cầu chủ yếu của bài viết này là học sinh viết được bài văn tự sự kết hợp với miêu tả cảnh vật, con người, hành động. Giáo viên có thể chọn một trong các đề bài ở SGK – Ngữ văn 9 để cho học sinh làm.
Điều cần thiết là phải khơi gợi được trí tưởng tượng của học sinh sao cho hợp với quy luật của đời sống, tâm lí tình cảm khi tái hiện một sự việc nào đó.(Dặn dò học sinh suy nghĩ, tìm ý cho các đề bài ở nhà).
Trên lớp, sau khi ghi đề bài cụ thể, có thể dành một khoảng thời gian ngắn để gợi ý cho học sinh lập dàn bài.
VD:
Đề bài: Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày.
+ Mở bài: Giới thiệu về giấc mơ ( Em nằm mơ lúc nào
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự cho học sinh lớp 9.doc