Lời mở đầu
Phần I: Cơ sở lý luận về rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại
1. Các khái niệm cơ bản về thanh khoản
1.1. Tính thanh khoản của tài sản
1.2. Tính thanh khoản của nguồn
1.3. Tính thanh khoản của ngân hàng
1.4. Mối quan hệ giữa thanh khoản và sinh lời
1.5. Cung và cầu và trạng thái thanh khoản
1.6. Yếu tố thời gian của vấn đề thanh khoản
2. Nguyên nhân xảy ra rủi ro
3. Giải pháp hạn chế rủi ro thanh khoản
3.1. Định hướng chung về quản lý thanh khoản
3.2. Các lý thuyết thanh khoản
3.3. Các chiến lược quản trị thanh khoản
Phần II Thưc trạng rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
1. Thực trạng rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay Những giải pháp mà các ngân hàng thương mại ở Việt Nam thường áp dụng để hạn chế rủi ro thanh khoản
2. Những giải pháp hạn chế rủi ro thanh khoản
2.1. Giải pháp về phía các ngân hàng thương mại
2.2. Giải pháp về phía các cơ quan quản lý nhà nước
Kết luận
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu thanh khoản, Do vậy, các ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện cac khoản cho vay phi thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Lí thuyết về lợi tức dự tính
Tính thanh khoản của tài sản của ngân hàng không chỉ được đo bằng khả năng chuyển đổi của tài sản. Trên cơ sở phân tích thanh khoản của ngân hàng trên quan điểm dòng tiền, các tác giả của lý thuyết lợi tức dự tính cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra khi tài sản đến hạn mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài sản. Các khoản tài trợ trung và dài hạn gắn liền với tài sản cố định của khách hàng. Cấc tài sản này tham gia nhiều chu ky sản xuất hoặc tiêu dung, bị hao mòn dần. Người vay( doanh nghiệp) sẽ thực hiện thu hồi dần giá trị của tài sản dưới hình thức trích kháu hao. Nếu là người tiêu dùng vay để mua hàng hóa lâu bền, thu nhập hàng tháng của họ sẽ là cơ sở để ngân hàng thu nợ. Do đó , nếu ngân hnagf cho vay trung và dài hạn, song thực hiện thu nợ theo nhiều kỳ hạn nợ ( phù hợp với chu kỳ thu nhập của khách hàng), thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản.
Lí thuyết về quản lí nợ
Lý thuyết này hình thành từ giữ những năm 60 của thế kỉ 20, gắn liền với việc hình thành công cụ huy động mới là chứng chỉ tiền gửi (CD) và thị trường CD. Ngoài việc vay mượn truyền thống là vay ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại khác, CD cho phép các ngân hàng lớn ở các trung tâm tiền tệ có thể huy dộng trong thời gian ngắn một lượng vốn lớn, với chi phí rẻ hơn phát hành trái phiếu trung, dài hạn. Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường liên ngân hàng ( mang tính khu vực và quốc tế) cho phép cac ngân hàng trên toàn thế giới vay lẫn nhau với qui mô lớn, chi phí giao dịch thấp và ít bị ảnh hưởng bởi chính sách của ngan hàng trung ương mỗi nước, Môi trường hoạt dộng nàu làm tăng khả năng vay nợ của các ngân hàng thương mại. Và theo các tác giả, nếu một ngân hàng có khả năng vay nợ cao ( thời hạn nhanh, qui mô lớn, chi phí thấp) thì khả năng thanh khoản của ngân hàng đó cũng lớn, Các nhà quản lí ngân hàng có thể duy trì danh mục tài sản nghiêng về tính sinh lời hơn là tính thanh khoản và sử dụng việc huy dộng mới như là phương pháp chính để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Các chiến lược quản trị thanh khoản:
Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo 3 cách sau đây:
Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong (tài sản)
Vay mượn bên ngoài (nguồn vốn) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Phối hợp cân bằng cả hai hướng trên.
Chiến lược thanh khoản dựa trên tài sản
Đây là cách tiếp cận truyền thống để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của NHTM. Chiến lược này đòi hỏi dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng bán các tài sản dự trữ để lấy tiền cho đến khi tất cả nhu cầu thanh khoản được đáp ứng đầy đủ. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường được gọi là sự chuyển hoá tài sản bởi vì ngân hàng tăng nguồn cung cấp thanh khoản bằng cách chuyển đổi các tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt.
Tài sản có tính thanh khoản có 3 đặc điểm sau:
Luôn có sẵn thị trường tiêu thụ để có thể chuyển đổi thành tiền mau chóng.
Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản.
Có thể mua lại dễ dàng với ít rủi ro mất mát giá trị để người bán có thể khôi phục khoản đầu tư.
Đối với các ngân hàng, những tài sản có tính thanh khoản cao nhất là trái phiếu kho bạc, các khoản vay NHTW, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoán các cơ quan chính phủ... Như vậy, trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu nó có thể tiếp cận các nguồn cung cấp thanh khoản ở chi phí hợp lý, số lượng tiền vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời vào lúc nó được cần đến.
Tuy nhiên, sự chuyển hoá tài sản không phải cách tiếp cận ít chi phí đối với quản trị thanh khoản:
Một khi bán tài sản cũng có nghĩa là ngân hàng mất nguồn thu nhập mà các tài sản này tạo ra. Như vậy, có chi phí cơ hội để dự trữ khả năng thanh khoản bằng tài sản.
Phần lớn các tài sản đem bán cũng liên quan đến chi phí giao dịch, chẳng hạn hoa hồng phí phải trả cho người môi giới chứng khoán.
Ngân hàng sẽ bị tổn thất vốn đáng kể nếu các tài sản cần phải bán có sự giảm giá trên thị trường.
Nhìn chung khả năng sinh lợi của các tài sản có tính thanh khoản càng cao là thấp nhất trong số các tài sản tài chính. Nếu ngân hàng đầu tư nhiều vào tài sản có tính thanh khảon cao thì ngân hàng buộc phải từ bỏ lợi nhuận cao hơn tạo ra từ những tài sản khác.
Chiến lược quản lý thanh khoản dựa trên nguồn vốn:
Vào thập niên 60 và 70 nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng lớn đã bắt đầu gia tăng nhiều hơn các nguồn vốn có tính thanh khoản thông qua vay mượn trên thị trường tiền tệ. Yêu cầu của các ngân hàng là vay mượn tức thời nguồn vốn khả dụng để trang trải tất cả nhu cầu thanh khoản đã dự phòng. Tuy nhiên, việc vay mượn thường chỉ được triển khai khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện để tránh dự trữ quá mức cần thiết.
Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu đối với một ngân hàng bao gồm: chứng chỉ tiền gửi khả nhượng có giá trị lớn, tiền vay NHTW, các hợp đồng mua lại, chiết khấu tại NHTW... Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn được hầu hết các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản của họ.
Vay mượn thanh khoản là cách tiếp cận nhiều rủi ro để một ngân hàng giải quyết vấn đề thanh khoản (nhưng cũng đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất do bởi dao động lãi suất trên thị trường tiền tệ và khả năng thay đổi về sự sẵn có của các khoản tín dụng).
Sẽ là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng trên cả hai phương diện: chi phí và sự sẵn có nguồn vốn. Chi phí vay mượn thường xuyên biến động và tất nhiên là tăng thêm mức độ không ổn định của lợi nhuận. Hơn nữa, một ngân hàng có khó khăn về tài chính thì hầu như thường là về nguồn thanh khoản đã vay mượn, nhất là khi sự hiểu biết về những khó khăn của ngân hàng lan rộng và những người gửi tiền bắt đầu rút vốn ồ ạt. Đồng thời các tổ chức tài chính khác, để dính líu rủi ro, sẽ thận trọng, dè dặt hơn trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng đang có khủng hoảng thanh khoản.
Chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng
Do những rủi ro vốn có khi phụ thuộc vào nguồn thanh khoản vay mượn và những chi phí dự trữ thanh khoản bằng tài sản, phần lớn ngân hàng đã dung hòa trong việc chọn chiến lược quản trị thanh khoản của họ, nghĩa là kết hợp đồng thời cả hai loại chiến lược trên để tạo ra chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng.
Chiến lược này đòi hỏi, các nhu cầu thanh khoản có thể dự kiến, được dự trữ bằng chứng khoán khả nhượng và tiền gửi tại các ngân hàng khác; trong khi đó các nhu cầu thanh khoản đã dự phòng trước (theo thời vụ, chu kỳ, và xu hướng) được hỗ trợ bằng các thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc những nhà cấp vốn khác.
Nhu cầu thanh khoản không thể dự kiến được đáp ứng từ vay mượn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Các nhu cầu thanh khoản dài hạn cần được hoạch định và nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản là các khoản tiền vay ngắn và trung hạn, chứng khoán sẽ chuyển hóa thành tiền khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện.
Ước lượng cung-cầu thanh khoản
Xác định cầu thanh khoản
Để có thể thực hiện các mục tiêu quản lý thanh khoản, nhà quản lý phải xác định cầu thanh khoản.
Cầu thanh khoản được tạo thành bởi các yếu tố chính sau:
Nhu cầu rút tiền của người gửi: Các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác…
Các khoản tiền này có thể có nguồn gốc từ thu nhập, hoặc từ vay mượn…
Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán hàng hóa và dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay.
Các khoản trả cho các khoản tiền gửi và vay
Lãi phải trả cho các khoản tiền gửi và vay
Trong cầu thanh khoản, có hai bộ phận quan trọng đối với ngân hàng. Đó là nhu cầu rút tiền và nhu cầu vay tiền của khách hàng. Loại thứ nhất gắn liền với tiền huy động được, loại thứ hai gắn liền với việc tạo nên tài sản mới. Các khoản tiền khi huy động được, ngay lập tức tạo nên gia tăng ngân quỹ cho ngân hàng ( gia tăng cung thanh khoản), đồng thời cũng có thể tạo nên nhu cầu thanh khoản. Sự khác biệt về kì hạn của các dòng tiền vào ( cung thanh khoản ) và dòng tiền ra ( cầu thanh khoản) tạo nên sự khác biệt về cung và cầu thanh khoản.
Nhu cầu tín dụng hợp pháp, được ngân hàng cam kết, luôn gắn với các khách hàng có uy tín, có tình hình tài chính khả quan. Trong điều kiện cạnh tranh không ngừng gia tăng giữa các trung gian tài chính, việc tài trợ của ngân hàng cho khách hàng cũng ngày càng mang tính cấp bách.
Nhu cầu thanh khoản được các nhà ngân hàng dự đoán dựa trên nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản, Thứ nhất là nhóm nhân tố tạo ra sự hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền như bất ổn chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính, các khoản cho vay xấu dẫn đến mất khả năng thanh toán của một ngân hàng, lan sang các ngân hàng khác…
Thứ hai là nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và hệ số tiết kiệm, mật độ dân só và doanh nghiệp…
Thứ ba là nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động, chính sách tín dụng…của mỗi tổ chức.
Thứ tư là nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng như cán bộ, công nghệ, thị phần, uy tín,,, các nhân tố này có thể tác dộng tới nhu cầu thanh khoản tức thời ( ngắn hạn) và xu hướng ( dài hạn).
Cách thức mà các ngân hàng áp dụng để quản lý cầu thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự an toàn của hệ thống. Sau đây là một số nội dung chính:
Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để thấy những biến động về nhu cầu này và các nhân tố ảnh hưởng.
Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để xác định tần suất và độ lớn trong thay đổi nhu cầu thanh khoản:
Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền gửi, từng nhóm khách hàng, từng thời kì trong năm.
Xác định cung thanh khoản:
Xác định cung thanh khoản
Ngân hàng phải duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của khách hàng, đó chính là cung thanh khoản. Cung thanh khoản có thể được tạo ra từ hai phía: Phía tài sản và phía nguồn vốn ( hoặc từ 2 cách: duy trì dự trữ và khả năng vay mượn). Theo trường phái quản lý bên trong, có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía tài sản. Cung thanh khoản từ phía tài sản luôn gắn với chiến lược dự trữ của ngân hàng. Quan điểm này cho rằng trình tự của các tài sản – có nghĩa là quản lý tài sản –có thể cung cấp thanh khoản. Trên khía cạnh của rủi ro, điều đó có nghĩa là từ tài sản, ngân hàng cần tìm kiếm sự phù hợp về thời gian, khối lượng và cấu trúc của nguồn.
Quản lý thanh khoản từ phía tài sản – chiến lược dự trữ thanh khoản bao gồm:
Duy trì ngân quỹ với qui mô và cấu trúc thích hợp
Phân tích tính thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài sản thành ngân quỹ
Lựa chon danh mục tài sản phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng nhằm đảm bảo thanh khoản thông qua các tỷ lệ thanh khoản thích hợp hoặc thông qua dự đoán nhu cầu thanh khoản sắp tới.
Điều chỉnh tính thanh khoản của tài sản bằng cách thay đổi cấu trúc kì hạn của tài sản hoặc tạo thị trường cho tài sản, nhằm thay đổi tính thanh khoản của tài sản.
Một ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng ngân quỹ: Tiền mặt trong két, tiền gửi tại ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng khác. Nếu một khách hàng có tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng đến rút tiền bằng tiền mặt thì ngân hàng sẽ xuất quỹ tiền mặt để trả; nếu một khách hàng có số dư trên tài khoản tiền thanh toán , kí séc hoặc ủy nhiệm chi để trả cho khách hàng tịa ngân hàng khác, ngân hàng sẽ sử dụng tiền gửi tại ngân hàng nhà nước hoặc tiền gửi tại các tổ chức tín dụng để trả…Nếu một khách hàng có nhu cầu thanh toán song chưa có ( hoặc chưa đủ) tiền, ngân hàng có thể cho vay( sau khi phân tích tín dụng), để khách hàng đó thanh toán. Việc cho vay có thể dưới hình thức bằng tiền mặt, hoặc chuyển khoản…Các khoản vay đến hạn trả ( vay ngân hàng nhà nước hoặc phát hành trái phiếu…) Ngân hàng trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản… Các hoạt động này diễn ra hàng ngày tại các ngân hàng giúp cho khách hàng thực hiện các hoạt động thanh toán và đầu tư kịp thời.
Ngân quỹ (một phần dự trữ của ngân hàng) bao gồm những tài sản thanh khoản nhất của một ngân hàng, được bổ sung thường xuyên từ các dòng tiền vào ngân hàng như gia tăng các khoản tiền gửi, vay, thu nợ, chứng khoán do ngân hàng nắm giữ đến hạn thanh toán… và cũng được sử dụng thường xuyên để chi trả tiền gửim cho vay, đầu tứ… Ngân quỹ gia tăng ( hoặc suy giảm) có thể do yếu tố khách quan như thời vụ, chu kì kinh doanh và thu nhập của khách hàng, thay đổi trong các qui định của các cơ quan quản lí, hoặc trong hệ thống… hoặc do ngân hàng quyết định gia tăng ( hoặc giảm ) ngân quỹ theo chiến lược dự trữ mà ngân hàng đang theo đuổi. Gia tăng ngân quỹ (các điều kiện khác coi như không đổi) sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy, tối thiểu hóa ngân quỹ là mục tiêu mà các ngân hàng phải theo đuổi.
Các nhà quản lý ngân hàng luôn tìm kiếm các tài sản có khả năng thay thế được ngân quỹ trên phương diện thanh khoản, đồng thời gia tăng khả năng sinh lời của ngân hàng. Khi thị trường trái phiếu chính phủ phát triển và những cam kết của chính phủ trở nên chắc chắn thì trái phiếu chính Phủ ngắn hạn trở thành loại tài sản có ít rủi ro và có khả năng chuyển đổi cao ( có thể bán dễ dàng với tổn thất nhỏ) . Ở những quốc gia này, trái phiếu chính phủ ngắn hạn được xem như một thành phần của dự trữ, có thể nhanh chóng chuyển thành tiền với chi phí thấp ( gần như ngân quỹ) và sinh lời cao hơn ngân quỹ. Loại tài sản này được xếp vào loại tài sản “ đệm” giữa ngân quỹ và tín dụng.
Các khoản mục tín dụng và chứng khoán khác cũng có tính thanh khoản khác nhau. Nhiều ngân hàng không có điều kiện nắm chứng khoán thanh khoản có thể tạo nên tính lỏng của danh mục tín dung và chứng khoán đầu tư thông qua lựa chọn các kì hạn, Các khoản chiết khấu ( thương phiếu có chất lượng) có thể tái chiết khấu hoặc dễ bán, các khoản tín dụng có nhiều kì hạn trả nợ nhỏ…dều làm tăng tính lỏng của tài sản.
Để đáp ứng kịp thời và có hiệu quả nhu cầu của khách hàng, ngân hàng cần duy trì tài sản thanh khoản một cách thích hợp bởi vì tài sản càng thanh khoản thì tỷ lệ sinh lời ( danh nghĩa) càng thấp. Tính thanh khoản của tài sản thay đổi thường xuyên : Khi thị trường bất động sản đang sôi động, bất động sản có tính thanh khoản cao và thương phiếu có thể dễ dàng được chiết khấu và ngược lại… Với các chi nhánh ngân hàng tại các vùng hoặc quốc gia khác nhau, tính thanh khoản của tài sản cũng khác nhau… Do vậy, thường xuyên phân tích và định lượng tính thanh khoản của mỗi tài sản là rất cần thiết, Bên cạnh đó, nhà quản lý cần xác định tổng tài sản thanh khoản nắm giữ thông qua các tỷ lệ thanh khoản. Tỷ lệ thanh khoản có thể là:
Dự trữ sơ cấp/ tổng tài sản;
( Dữ trữ sơ cấp + Dự trữ thứ cấp)/ Tổng tài sản;
( Ngân quỹ + chứng khoán thanh khoản) / tiền gửi và vay ngắn hạn;
Dự trữ sơ cấp/ Tín dụng.
Nhà quản lý cần xem xét tính phù hợp của từng tỷ lệ, lựa chọn các mức thích hợp cho từng thời kì. Nhà quản lý cũng có thể xác định tổng tài sản thanh khoản cần nắm giữ thông qua phân tích nhu cầu thanh khoản. Thời gian đáo hạn của tài sản nắm giữ cùng với ngân quỹ phải thỏa mãn yêu cầu của dự trữ pháp định ( dự trữ bắt buộc ) và nhu cầu chi trả ( cầu thanh khoản).
Chiến lược dự trữ của ngân hàng – duy trì ngân quỹ và chứng khoán thanh khoản – luôn phải cân nhắc giữa an toang thanh khoản và sinh lợi. Ngân hàng phải cân nhắc giữa thu nhập phải từ bỏ ra trong tương lai để mua thanh khoản. Cân nhắc này phải dựa trên phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản và khả năng cũng ứng thanh khoản hiện tại và tương lai thông qua tính thanh khoản của tài sản.
Khe hở thanh khoản và rủi ro thanh khoản:
Với xu hướng đa dạng hóa, sáp nhập, các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác đều tận dụng mọi khả năng đáp ứng thanh khoản cao nhất với chi phí thấp. Nếu như từ thế kỉ 19 trở về trước, các ngân hàng tập trung đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên tài sản với lý thuyết cho vay thương mại, thì trong thế kỷ 20 các ngân hàng lớn đã chuyển sang lý thuyết quản lý nợ, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên nguồn. Chiến lược quản lý thanh khoản kết hợp đã trở nên phổ biến, dựa trên duy trì thanh khoản của tài sản và nguồn vốn. Tùy từng thời kì, từng vùng, mà mỗi ngân hàng sẽ lựa chọn chiến lược thích hợp. Nhìn chung các ngân hàng lớn, gần trung tâm tiền tệ, có xu hướng dựa chính vào thanh khoản của bên nguồn còn các ngân hàng nhỏ, xa trung tâm tiền tệ có xu hướng duy trì thanh khoản củ ngân hàng dựa vào tài sản thanh khoản,
Các nhà quản lý ngân hàng tính toán khe hở thanh khoản trong kì tới dựa trên dự đoán dòng tiền vào và ra. Các dòng tiền vào bao gồm tiền gửi có thể nhận được kì tới, các khoản tín dụng có khả năng thu hồi đến hạn kì tới, lãi có thể thu được… Các dòng tiền ra bao gồm chi trả tiền gửi, cho vay theo hạn mức đã cam kết, lãi trả, các khoản tín dụng đến hạn phải trả, chi phí quản lý… Khe hở thanh khoản ( chênh lệch dòng tiền vào và dòng tiền ra) có thể được tính cho từng ngày, tuần, tháng, năm. Các dự tính này được xây dựng dựa trên phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời vụ, chu kì , tâm lí , cạnh tranh…
Nếu dòng tiền vào dự tính lớn hơn dòng tiền ra dự tính, ngân quỹ của ngân hàng gia tăng ( tăng tính thanh khoản của tài sản), nếu ngược lại, ngân quỹ của ngân hàng sẽ giảm ( giảm tính thanh khoản của tài sản).
Ngân quỹ của ngân hàng gia tăng có thể được chia thành hai trường hợp : thứ nhất, ngân hàng chủ định gia tăng ngân quỹ nhằm đối phó với những khó khăn về nhu cầu thanh khoản đột xuất trong kì tới. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ cân nhắc giữa chi phí nắm giữ ngân quỹ cao kì này và chi phí có thể phải bỏ ra để đáp ứng nhu cầu thanh khoản kì tới, Thứ hai, ngân hàng bị động phải gia tăng ngân quỹ do khả năng cho vay thấp ( xuất hiện tình trạng dư thừa lớn dự trữ - ứ đọng vốn). trường hợp này sẽ dẫn dến giảm thu nhập của ngân hàng. Nhà quản lý cần có biện pháp để giảm tính thanh khoản của tài sản bằng cách gia tăng tài trợ hoặc giảm huy động.
Ngân quỹ của ngân hàng suy giảm liên tục trong nhiều tháng có thể do nhu cầu vay của khách hàng gia tăng mạnh, hoặc do ngân hàng bị hạn chế trong huy động, hoặc do ngân hàng có các tài sản chất lượng kém, không có khả năng thu hổi để hoàn trả. Tổn thất ( có thể dẫn đến sụp đổ) ngân hang xảy ra khi nhiều người gửi tiền đồng thời cùng rút tiền gửi khỏi một ngân hàng làm cho nhu cầu chi trả vượt quá khả năng hiện có. Để thoát khỏi sụp đổ, ngân hàng phải huy dộng hoặc vay mược các nguồn tiền mới với chi phí đắt đỏ, hoặc bán các tài sản hiện có với giá thấp( chịu thua lỗ). Điều này dẫn đến các tổn thất ( có thể là phả sản) cho ngân hàng. Đó chính là rủi ro thanh khoản.
Mức nhẹ của rủi ro thanh khoản ( không gắn với khủng hoảng thanh khoản) là tổn thất xảy ra làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Trường hợp thứ nhất: Ngân hàng phải huy động với lãi suất cao hơn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản ( mua thanh khoản trên thị trưởng). Tổn thất được đo bằng gia tăng chi phí ( trong khi thu nhập không tăng)
Trường hợp thứ hai: Ngân hàng phải bán chứng khoán hoặc các tài sản khác với giá thấp. Nhiều ngân hàng giữ rất ít các khoản tiền mặt và tiền gửi, và thay vào đó là nắm chứng khoán hoặc cho vay. Khi nhu cẩu thanh khoản lên cao , ngân hàng có thể phải bán bớt tài sản. Tổn thất được đo bằng sự sụt giảm giá bán so với giá mua các chứng khoán hoặc các khoản cho vay.
Tình trạng tồi tệ nhất của rủi ro nói chung và rủi ro thanh khoản nói riêng là ngân hàng bị phá sản, bị bán hoặc bị sáp nhập.
Khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng luôn dựa vào khủng hoảng tài chính. Phần lớn khủng hoảng là do chu kì kinh tế, khi chu kì kinh tế đi xuống, giá cả giảm, lợi nhuận giảm, các doanh nghiệp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra. Các tổn thất này làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng và nếu tổn thất với quy mô lớn, sẽ trực tiếp làm giảm vốn của ngân hàng. Khi mà các khoản cho vay xấu được tích lũy lại, người gửi tiền trở nên dễ hoảng sợ, rút tiền hàng loạt, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả, phải đóng cửa.
Có thể có ngân hàng kinh doanh chưa bị thua lỗ, song do tính lan truyền tâm lí giữa những người gửi tiền mà tiền gửi cũng có thể bị rút rất lớn. Các ngân hàng nhỏ, khả năng dự trữ thất thường là đối tượng đầu tiên bị tàn phá bởi cơn hoảng loạn. Nếu khả năng cứu vãn của ngân hàng Trung ương thấp, tình trạng hoảng loạn có thể lan rộng trong toàn hệ thống, dẫn đến khủng hoảng thanh khoản.
Cách thức mà các ngân hàng áp dụng để quản lý rủi ro thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự an toàn của hêk thống. Sau đây là một số nội dung:
Nghiên cứu các nguyên nhân gây rủi ro thanh khoản; hạn chế rủi ro tín dụng , rủi ro lãi lãi suất và hối đoái bởi vì đây là nguyên nhân căn bản, sâu xa dẫn đến rủi ro thanh khoản;
Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ dể thấy những biến động về nhu cầu này và các nhân tố ảnh hưởng;
Phân tích các hình thức đáp ứng nhu cầu thanh khoản và các rủi ro đã xảy ra để đề ra các biện pháp sử dụng phương thức đáp ứng thanh khoản thích hợp;
Dự đoáng các thay đổi về dòng tiến trong tương lai dưới tác động của các nhân tố như lãi suất, lạm phát, thất nghiệp, chu kỳ kinh tế…
Bên cạnh các biện pháp mang tính vi mô của các ngân hàng thương mại, các cơ quan quản lý tiền tệ cũng cần áp dụng các biện pháp hạn chế rủi ro thanh khoản:
Xây dựng chính sách kiếm soát và ràng buộc các ngân hàng thương mại trong môi trường kinh doanh theo mục tiêu an toàn;
Đảm nảo điều hành các yếu tố vĩ mô nhằm tăng tính an toàn cho toàn hệ thống;
Xây dựng các phương án “ cấp cứu “ khi xảy ra dấu hiệu của khủng hoảng thanh khoản. Một số ngân hàng áp dụng chiến lược thanh khoản bằng cách cố gắng duy trì khe hở thanh khoản gần bằng không. Những ngân hàng này tính toán sao cho kì hạn trung bình của các khoản thu và chi xấp xỉ bằng nhau. Chiến lược này bao gồm:
Làm dài thêm kì hạn danh nghĩa của các khoản nợ tức là tăng các nguồn trung và dài hạn. Điều đó có nghĩa là chi phí đắt đỏ hơn do lãi suất phải cao hơn;
Tăng cường sự ổn định của các nguồn, tức là kéo dài kì hạn thực tế. Cần phải dựa vào những loại tiền gửi chủ yếu - tiền gửu giao dịch hoặc tiết kiệm – mặc dù nó phải hoàn trả theo yêu cầu, song nó tương đối ổn định và lãi suất tương đối thấp hơn so với vay. Các ngân hàng lớn ngày nay đang cố gắng tăng tienf gửi dể giảm nguồn vay. Tuy nhiên, để duy trì tính ổn định của tiền gửi ( người gửi sẵn sang gửi tiếp khi kì hạn cũ đã kết thúc), ngân hàng phải luôn duy trì được những tiện ích cho người gửi ( mạng lưới thuận tiện, lãi suất hấp dẫn, các hình thức phong thức…)
Duy trì mối quan hệ với người cho vay lớn sao cho họ tránh rút tiền gửi trong lúc cấp bách hoặc trong lúc khủng hoảng thông qua việc cung cấp cho họ những ưu đãi.
Đa dạng hóa các nguồn tiền tức là huy động từ nhiều người khác nhau. Điều này sẽ làm giảm sự phụ thuộc của ngân hàng vào một, hoặc nhóm khách hàng. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa để hạn chế bớt tính căng thẳng trong nhu cầu thanh khoản đòi hỏi ngân hàngphair có nhiều chi nhánh tại các vùng, thậm chí các quốc gia khác nhau.
Nắm tài sản thanh khoản như là chứng khoán của chính phủ các chứng khoán thế chấp, cho vay trên thị trường liên ngân hàng
Tăng các hình thức tài trợ thông qua giúp các khách hàng phát hành giấy tờ thương mại ( chấp nhận các hối phiếu của khách) hoặc bảo lãnh cho khách hàng phát hành trái phiếu… các giấy tờ này có thể được chứng khoán hóa. Hình thức này sẽ làm giảm áp lực đối với nhu cầu thanh khoản.
Tăng tính thanh khoản của các khoản tài trợ bằng cách chia nhỏ kì hạn nợ. Phương pháp này làm tăng gia tăng các khoản thu về các khoản cho vay trong những kì hạn ngắn hơn so với thời kì cho vay.
Quản lí khe hở thanh khoản nhằm hạn chế cả hai trường hợp thừa và thiều thanh khoản bằng cách xem xét và đánh giá khe hở thanh khoản.
Phần II: Thực trạng rủi ro thanh khoản trong các
Ngân Hàng thương mại ở Viêt Nam
Thực trạng rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay:
Năm 2008 các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về thanh khoản do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Để đối phó với nguy cơ mất khả năng thanh toán nhiều ngân hàng đã có giải pháp tình thế là đua nhau tăng lãi suất để huy động tiền gửi ở giai đoạn cuối năm 2008. Từ đầu 2009 cho đến nay do sự dần phục hồi của nền kinh tế thế giới, cùng với những dấu hiệu của sự ổn định nền kinh tế vĩ mô trong nước thì các ngân hàng không còn phải đối mặt với sự căng thẳng về thanh khoản nữa. Tuy tình hình hiện tại tương đối ỏn định nhưng khó khăn vẫn đang chờ phía trước.
Khó khăn thanh khoản vẫn thường trực trong các ngân hàng thương mại Việt Nam vì rủi ro thanh khoản luôn là loại rủi ro nguy hiểm nhất. Thực tế, chỉ cần một
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36144.doc