Phần 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại
1 Khái quát về rủi ro trong hoạt động ngân hàng 2
1.1 Khái niệm rủi ro
1.2 Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng
2 Rủi ro tín dụng 6
2.1 Bản chất rủi ro tín dụng
2.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
2.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
3 Một số nguyên tắc trong quản lý rủi ro tín dụng 11
3.1 Quan điểm cho vay phải trên cơ sở xây dựng và hiểu rõ người vay
3.2 Hiệu quả và chất lượng tín dụng trên cơ sở hiệu quả của sản xuất kinh doanh của người vay vốn
3.3 Mở rộng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng
3.4 Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro
3.5 Cho vay phải có đảm bảo tiền vay với tính khả thi cao
3.6 Cho vay phải do chính ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó
3.7 Phải quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi và các khoản nợ có vấn đề
Phần 2: Thực trạng rủi ro tín dụng và công tác quản lý rủi ro tín dụng tại cá NHTM Việt Nam
1. Nguyên nhân rủi ro tín dụng trong các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay 17
1.1 Rủi ro đạo đức
1.2 Rủi ro chính sách
1.3 Rủi ro từ thực thi chức năng nhiệm vụ của cơ quan nhà nước
1.4 Rủi ro thị trường của ngân hàng
2 Đánh giá tình hình rủi ro tín dụng ở các NHTM Việt Nam 22
3 Thực trạng công tác rủi ro tín dụng ở Việt Nam 24
3.1 Các ngân hàng đã chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng nhằm hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi
- Hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
- Hợp tác giữa các tổ chức tín dụng trong việc cung cấp thông tin phòng ngừa rủi ro
- Ban quản lý tín dụng
- Ban phòng ngừa rủi ro
- Thanh tra ngân hàng nhà nước
- Ban kiểm soát nội bộ
- Kiểm toán độc lập và kiểm toán quốc tế
- Môi trương pháp lý không ngừng hoàn thiện
- Bảo hiểm tiền gửi
3.2 Việc giảm thiểu hậu quả rủi ro tín dụng trong các NHTM 29
- Quỹ dự phòng rủi ro
- Khoanh nợ, xoá nợ, xiết nợ, thu hồi tài sản thế chấp; chuyển nợ quá hạn
- Hoạt động của công ty quản lý và khai thác tài sản thế chấp (AMC)
Phần 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng
1. Nâng cao chất lượng quá trình phân tích, đánh giá thẩm định khách hàng vay vốn 34
1.1 Đánh giá về năng lực vay vốn của khách hàng
1.2 Đánh giá khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của người lãnh đạo doanh nghiệp
1.3 Đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp
1.4 Đánh giá về cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp
2 Thực hiện tốt công tác dự phòng rủi ro tín dụng 38
2.1 Dự phòng giảm giá tài sản
2.2 Quỹ dự phòng rủi ro
3 Nghiên cứu, đẩy mạnh ứng dụng các công cụ dẫn xuất tín dụng nhằm dự phòng kịp thời rủi ro tín dụng 41
3.1 Swap tổng lợi tức
3.2 Swap tín dụng
4 Các biện pháp khác 45
4.1 Đa dạng hoá danh mục đầu tư
4.2 Sử dụng các đảm bảo chắc chắn
4.3 Nghiên cứ nắm bắt tình hình kinh tế xã hội
52 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hồ sơ thế chấp tai sản, chứng từ thanh toán... rút tiền ngân hàng hay làm thất thoát tiền ngân hàng. Vụ án Epco Minh Phụng, Tamexco, Thuận Hưng... Bị thất thoát tới hàng nghìn tỉ đồng là điển hình về rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng, tập trung là tín dụng.
1.1.7 Các hành vi khác thông đồng với khách hàng để lừa đảo chiếm đoạt tiền ngân hàng, hoặc trực tiếp lâý tiền quỹ ngân hàng bỏ trốn.
1.1.8 Ăn cắp qua vi tính: Loại rủi ro này không phải hiếm trên thế giới, với khối lượng tiền bị ăn cắp rất lớn, nhưng cũng đã bắt đầu xẩy ra ở nước ta. Tiêu biểu là trong năm 2001 tại chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Thủ Thừa – Long An, người ta đã phát hiện ra kế toán trưởng chi nhánh ngân hàng này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn và sự tín nhiệm của lãnh đạo, thực hiện thủ đoạn lập chứng từ khống trên máy vi tính để tham ô 315.098.351 đồng. Thủ đoạn này được thực hiện từ năm 1998 cho đến khi bị phát hiện.
1.2 Rủi ro chính sách:
1.2.1 Chính sách thuế, quy định về đất đai, nhà ở... làm đóng băng thị trường bất động sản, kéo theo nợ đọng vốn vay ngân hàng.
1.2.2 Chính sách xuất nhập khẩu:
Chính phủ đột ngột thay đổi một số chính sách kinh doanh xuất nhập khẩu mà trước đó ngân hàng đã cho doanh nghiệp vay. Chẳng hạn như ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn để thu mua lúa gạo xuất khẩu, khai thác và chế biến gỗ xuất khẩu... nhưng sau đó, Chính phủ đột ngột có quyết định tạm dừng việc xuất khẩu gạo, cấm xuất khẩu gỗ... làm cho hàng hoá bị tồn đọng ,vốn ngân hàng cũng bị khê đọng theo. Tương tự, khi một chính sách bị thay đổi đột ngột, như tăng thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà trước đó ngân hàng đã mở LC bảo lãnh xuất nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, nay do thuế tăng việc kinh doanh bị thua lỗ, khách hàng không trả được nợ, ngân hàng cũng bị rủi ro theo.
Ngân hàng cho vay vốn làm hàng và thu mua hàng xuất khẩu sau đó chính phủ cho dừng, cấm xuất khẩu. Ví dụ như: Xuất khẩu gỗ sơ chế xẩy ra năm 1995...
Bộ thương mại cấp giấy phép cho nhập khẩu vật tư hàng hoá trong nước sản xuất được, gây ứ đọng, khó tiêu thụ, doanh nghiệp thua lỗ: đường, xi măng...
Nhập khẩu thiết bị cũ, lạc hậu, giá nhập khẩu cao, giá thành sản phẩm và giá bán quá cao, không tiêu thụ được hoặc bán dưới giá thành, dẫn đến kinh doanh thua lỗ, không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.
1.2.3 Kế hoạch, qui hoạch, dự báo thiếu khoa học, không chính xác, chủ quan duy ý chí, có phạm vi ở các bộ, nghành Trung ương, có phạm vi do cấp tỉnh, thành phố. Các quy hoạch, dự báo, định hướng chiến lược không phù hợp ... Sản phẩm mía đường, bia, xi măng đều được tiến hành theo qui hoạch, xây dựng chiến lược và dự báo của các bộ nghanh, bộ Kế Hoạch và Đầu tư ... Các dự án đầu tư đều được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Khi thực thi các khâu đó, đều tính toán trên cơ sở nhu cầu sử dụng bình quân đầu người của Việt Nam so với các nước trong khu vực và thế giới, dự báo sức tiêu thụ của thị trường nội địa... Song thực tế là chưa thực hiện xong các chương trình, sản lượng sản xuất ra cung đã vượt quá cầu. Nên phát sinh ra nhiều trường hợp: khó tiêu thụ, giá bán hạ.... Ngân hàng kiến nghị ngừng đầu tư nhưng các địa phương đã hoàn chỉnh dự án cứ chaỵ hết các cấp nghành xin phê duyệt và thúc ép ngân hàng cho vay, bảo lãnh. Rủi ro cuối cùng lại dồn lên vai ngân hàng.
Tài sản nhà đất nằm trong qui hoạch. Khi thẩm định cho vay thì điều đó chưa xảy ra, đến khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng phát mại, hoặc là khi đó mới phát hiện ra, hoặc là khi đó mới có qui hoạch chính thức nên bán không ai mua hoặc nhận đền bù với mức thấp. Trường hợp này gặp nhiều đối với các chi nhánh NHTM tỉnh Thái Bình.
1.2.4 Chính sách cho vay chỉ định cuả nhà nước:
Tôn nền nhà và làm nền nhà trên cọc ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Khắc phục hậu quả các cơn bão, hạn hán.
Cho vay vốn đánh bắt xa bờ.
Các rủi ro khác về chính sách
1.3 Rủi ro từ thực thi chức năng ,nhiệm vụ của cơ quan nhà nước:
1.3.1 Quản lý doanh nghiệp lỏng lẻo:
ở TPHCM và một số nơi khác, cấp phép thành lập doanh nghiệp nhưng không kiểm tra, một ngày cấp phép vài công ty TNHH cùng địa chỉ, doanh nghiệp mất tích, làm trái chức năng, không đủ năng lực tài chính, không có vốn thực tế.
1.3.2 Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật, xảy ra tiêu biểu ở Vũng Tàu, TPHCM và một số nơi khác.
1.3.3 Hình sự hoá các quan hệ kinh tế, quy trách nhiệm hình sự cho người vay,người vay mượn cớ đó cố tình ỷ lại, trây ì, không trả nợ cho ngân hàng.
1.3.4 Xác định không đúng tư cách người vay, tập trung là UBND xã, phường. Cơ quan chức năng xác nhận mất bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất, sau đó cấp bản sao, người vay cầm bản chính thế chấp ngân hàng này, dùng bản sao thế chấp ngân hàng khác. Thí dụ xảy ra tại công ty TNHH Bảo Châu –quận 11 TPHCM, vay vốn NHCT quận 4 và NHTMCP Vũng Tàu năm 1996 .
1.3.5 Cơ quan thi hành án hữu khuynh, hoặc thông đồng với người thi hành án, không chịu thi hành án hoặc kéo dài thời hạn thi hành án, cố tình trây ỳ.
1.3.6 Trung tâm bán đấu giá tài sản thế chấp có tiêu cực, làm cho việc đấu giá tài sản bị kéo dài, giá bán thấp, tiền thu được thấp hơn khoản cho vay.
1.4 Rủi ro thị trường của ngân hàng :
Biêu hiện tập trung là thị trường diễn biến bất thường ngoài dự kiến. Khi định giá tài sản thế chấp để cho vay thì giá thị trường xuống chỉ còn 1/3 giá lúc đầu. Thậm chí tài sản thế chấp bị mất giá rất lớn. Khi ngân hàng thẩm định cho vay mà tập trung là nhà đất đang là giá cao, sau đó giá giảm mạnh, có khi giảm 3 - 4 lần,khách hàng không trả được nợ, ngân hàng xiết nợ nhưng không bán được vì giá quá thấp so với khi định giá cho vay, hoặc là không có người mua, hoặc là tiền thu về thấp hơn nhiều so với tiền cho vay. ở Thanh Hoá có nhiều trường hợp, khi giá nhà giảm quá thấp, người vay vốn chủ động mời ngân hàng đến nhận nhà thế chấp.
2. Đánh giá tình hình rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam
Chính bởi những nguyên nhân trên mà rủi ro tín dụng đang tích tụ lại trong các ngân hàng Việt Nam không phải là nhỏ. Biểu hiện lớn nhất của ruỉ ro tín dụng là tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao. ở các nước, nợ quá hạn được gọi chung là nợ xấu, khi tỉ lệ này lên tới 5% tổng dư nợ được coi là báo động. ở nước ta thường được gọi là nợ quá hạn, trong đó còn được phân chia thành: nợ khê đọng, nợ khó đòi... với khoảng thời gian quá hạn là trên 360 ngày, trên 180 ngày và trên 90 ngày.
Theo báo cáo của NHNN, năm 1999 tỉ lệ nợ quá hạn của các NHTM là khoảng 13.6%, trong đó khối lượng tài sản thế chấp của các khoảng nợ đọng phải xử lý là hơn 7000 tỷ đồng.
Mặc dù có những chấn chỉnh nhất định trong lĩnh vực tín dụng vào năm 1999, vào năm 2000 nợ quá hạn vẫn ở trên 14.5 % tổng dư nợ, tài sản cầm cố thế chấp đóng băng lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có 37% làm ăn có hiêụ quả nhưng lại tiếp nhận 75% dư nợ tín dụng, rong khi đó chỉ có 25% chảy vào khu vực tư nhân mà lí do chủ yếu là không đủ điều kiện về tài sản cầm cố thế chấp.
Năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức 11.7% giảm hơn nhiều so với năm1999, 2000. Song, tổng số vốn bị nợ quá hạn tăng lên, bên cạnh đó xuất hiện một loạt các khoản nợ khoanh mới không thể hiện trong tỷ lệ nợ quá hạn, xuất hiện các khoản dư nợ được điều chỉnh kỳ hạn, được giãn nợ... cũng còn nằm ngoài tỷ lệ nợ quá hạn. Các khoản nợ này tập trung ở vùng lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long, ở vùng miền Trung; tập trung ở các doanh nghiệp xuất khầu gạo, thu mua và xuất khẩu cà phê. S ố tài sản thế chấp của các khoản nợ đóng băng ngày càng xuống cấp, mất giá, khó xử lý.
Hâù hết các khoản nợ quá hạn tồn đọng tại các NHTM hiện nay là những khoản nợ khó đòi phát sinh từ những năm 1995 trở về trước, chưa được cấp có thẩm quyền xử lý đúng mức, mặc dù Chính Phủ và nghành Ngân hàng đã có chủ chương hỗ trợ các NHTM giải quyết các tồn đọng để làm trong sạch hoạt động tín dụng ngân hàng. Có thể nói áp lực của xã hội đang đòi hỏi nghành ngân hàng nhanh chóng khắc phục, xử lý nhanh để giảm thấp số nợ quá hạn. Tuy nhiên trong cơ chế hiện nay thì đây là một vấn đề khá phức tạp, nan giải không thể ngày một, ngày hai là có thể xử lý dứt điểm được và cũng không thể nội thân ngành ngân hàng có đủ khả năng xử lý trong các trường hợp sau:
+ Đối với khoản nợ quá hạn cũ từ những năm trước của những doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp kinh tế Đảng, tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế tập thể do cơ chế hiện nay tự giải tán, hiện vẫn còn treo nợ tại ngân hàng chậm được cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý triệt để nhằm giúp ngân hàng nhanh chóng giảm thấp số nợ trên để tiếp tục tái tạo nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh .
+ Đối với các khoản nợ cho vay thanh tóan công nợ của ngân hàng để các doanh nghiệp thanh toán công nợ trong trong tổng kê khai công nợ toàn quốc, đến nay thực chất đã quá hạn khoảng trên 50 tỷ đồng, có doanh nghiệp hiện nay không còn hoạt động nhưng vẫn chưa có chủ trương của cấp có thẩm quyền cho biện pháp xử lý dứt điểm.
+ Đối với khoản nợ được Chính phủ cho khoanh theo các thông tư liên bộ 11/TT-LB, 03/TT-LB khoảng 339,7tỷ đồng đến nay phần lớn đã quá thời hạn ,hầu hết các doanh nghiệp có nợ đều rơi vào tình trạng phá sản, tự giải tán, giải thể không có khả năng trả nợ, nhưng cũng chưa được các cấp, các nghành liên quan cho phép xử lý.
Bên cạnh những khoản nợ tồn đọng cũ chưa được xử lý nêu trên thì các NHTM đang đứng trước một thực tế là: mặc dù đã có sự thận trọng trong công tác đầu tư, mở rộng tín dụng nhưng tỷ lệ nợ qúa hạn mới tại các ngân hàng đang phát sinh tăng (thậm chí có ngân hàng nợ quá hạn lê tới 17%).
3. thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng ở việt nam hiện nay
3.1 Các ngân hàng đã chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng nhằm hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi
3.1.1 Hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra rủi ro tín dụng là các NHTM thiếu thông tin cần thiết về người vay và môi trường cho vay. Xuất phát từ nhu cầu thực tế này, NHNN đã thành lập Trung tâm thông tin tín dụng để chuyên môn hoá thu thập thông tin về khách hàng có quan hệ tín dụng, thông tin kinh tế, thị trường có liên quan như: đăng kí, thành lập, giải thể, sáp nhập, phá sản doanh nghiệp; tình hình tài chính: vốn điều lệ, công nợ, quan hệ tín dụng đối với các tổ chức tín dụng, tình trạng lỗ lãi, khả năng thanh toán, chấp hành chế độ kế toán của doanh nghiệp; tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp... để xử lý, phân tích và cung cấp trong toàn hệ thống ngân hàng nhằm giúp NHNN có thêm thông tin thực hiện chức năng quản lý và giúp NHTM hạn chế, ngăn ngừa rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư tín dụng.
*) Sau 10 năm hoạt động, trung tâm thông tin tín dụng đã đạt được những kết quả đáng kể, đóng góp không nhỏ vào hoạt động tín dụng của ngân hàng:
+ Đã xây dựng được kho dữ liệu quốc gia về trung tâm thông tin tín dụng với 120000 hồ sơ tín dụng của khách hàng có dư nợ trên 50 triệu VNĐ ước đạt 80% số khách hàng thực tế tại các TCTD. Với dư nợ theo dõi khoảng 160 tỷ VNĐ, ước đạt 70% dư nợ thực tế. Thông tin lưu trữ đã được cập nhật, đổi mới số liệu thường xuyên, đảm bảo thông tin sống động, chính xác.
+ Đã từng bước mở rộng nghiệp vụ thông tin tín dụng cả về chiều rộng và chiều sâu. Đến nay 95% các TCTD đã thực hiện nghiệp vụ TTTD chỉ còn một số ngân hàng TMCP Nông Thôn, chi nhánh Quỹ TDND TW do có khó khăn nên tạm thời chưa thực hiện. Đã mở rộng nghiệp vụ thu thập thông tin, thu thập thêm thông tin bổ ích ngoài nghành và thông tin nước ngoài. Đã đưa vào áp dụng thí điểm phân tích, xếp loại tín dụngdoanh nghiệp.
+ Chú trọng mở rộng việc cung cấp thông tin ra cả về mặt số lượng, chất lượng và hình thức. Hiện nay với 3 loại hình sản phẩm bao gồm: thông tin phục vụ quản lý, thông tin phòng ngừa rủi ro, thông tin dịch vụ được thiết kế thành 50 biểu thông tin ra cung cấp ra bằng văn bản và trên trang Web - CIC theo định kì hoặc theo yêu cầu đột xuất của TCTD.
*) Tình trạng doanh nghiệp cùng một lúc vay vốn ở nhiều TCTD, nhiều doanh nghiệp cùng một trụ sở được thành lập trong thời gian ngắn ... đã tác động không nhỏ đến hoạt động tín dụng chứng tỏ rằng: trung tâm thông tin tín dụng chưa phát huy được vai trò của mình. Có NHTM quốc doanh không mặn mà quan hệ với trung tâm. Nhiều NHTM cổ phần tự mình tìm kiếm thông tin phòng ngừa rủi ro mà không hỏi hay không hợp tác với trung tâm. Thực trạng này do các nguyên nhân:
+ Các TCTD chưa có nhận thức đầy đủ về thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro qua Trung tâm.
+ Thiếu các hành lang pháp lý ràng buộc các TCTD phải cung cấp thông tin và hợp tác với Trung tâm trong lĩnh vực này, thiếu các chế tài cần thiết cho phát huy hiệu quả của Trung tâm.
+ Trong cạnh tranh hoạt động tín dụng, các TCTD không muốn cung cấp thông tin cho Trung tâm, vì sợ lộ thông tin, sợ mất khách hàng...
3.1.2 Hợp tác giữa các TCTD trong việc cung cấp thông tin phòng ngừa rủi ro:
Đây là hoạt động tự phát giữa các TCTD trong việc cung cấp thông tin cho nhau liên quan đến khách hàng, thị trường đã bắt đầu xuất hiện ở nước ta, nhất là trong cho vay hợp vốn, đồng tài trợ. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh được NHNN đánh gía là khá tích cực về cung cấp thông tin giúp Ngân hàng trong nước phòng ngừa rủi ro trong bảo lãnh mở L/C, thẻ tín dụng, lừa đảo vay vốn quốc tế... Song nhìn chung, giữa các TCTD vẫn giữ bí mật với nhau về lĩnh vực này.
3.1.3 Ban quản lý tín dụng:
Trước năm 2001, hầu hết các TCTD chưa có phòng, ban này. Do đó chưa có công cụ này trong phòng ngừa rủi ro. Song, như kinh nghiệm các nước, bản thân mỗi NHTM phải chủ động phòng ngừa rủi ro cho mình là chính, tự mình phải bảo vệ cho chính mình. Đồng thời, hệ thống pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật cho đất nước cần được đề cao trách nhiệm trong công tác quản lý doanh nghiệp, quản lý kinh doanh, phòng ngừa và ngăn chặn tệ nạn lừa đảo, cố ý sử dụng sai mục đích tiền vay của ngân hàng. Cũng không nên để riêng các Ngân hàng phải tự mình gánh vác rủi ro của mình và của nền kinh tế đổ dồn vào.
3.1.4 Ban phòng ngừa rủi ro:
Cho đến đầu năm 2001, ở hầu hết các TCTD chưa có phòng ban riêng biệt này, mà nằm trong chức năng của Ban kế hoạch - tổng hợp. Duy chỉ có Ngân hàng Công Thương Việt Nam(Incombank) thành lập phòng thông tin phòng ngừa rủi ro từ năm 1996, và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) thành lập phòng từ năm 2000. Phòng này của Incombank hoạt động rất tích cực, cung cấp thông tin trong nước và quốc tế cho các chi nhánh toàn hệ thống phòng ngừa rủi ro về cho vay, bảo lãnh, thanh toán L/C, thẻ tín dụng, vay vốn quốc tế, thị trường, cơ chế chính sách, doanh nghiệp... Phòng này hàng tháng xuất bản tờ thông tin Phòng ngừa rủi ro có quan hệ hợp tác với tổ chức thông tin tín dụng quốc tế về lĩnh vực này. Từ cuối năm 2001, do yêu cầu của chương trình cơ cấu lại ngân hàng, nên các TCTD mới thành lập bộ phận riêng biệt phòng ngừa rủi ro. Song những rủi ro lớn xảy ra tại Incombank và Vietcombamk chứng tỏ rằng Phòng chức năng đó chưa phát huy được vai trò trong phòng ngừa rủi ro. Còn các TCTD chưa có phòng ban này thì hiển nhiên là chưa có công cụ phòng ngừa rủi ro.
3.1.5 Thanh tra Ngân hàng nhà nước:
Thực hiện một chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ-tín dụng-ngân hàng, giúp cho người quản lý hàng năm nắm được kịp thời, chính xác tình hình hoạt động của từng ngân hàng và hệ thống Ngân hàng; chỉnh sửa các chính sách, quy chế cho phù hợp với thực tiễn; giúp cho các TCTD ngăn ngừa, chỉnh sửa những việc làm sai trái phòng ngừa rủi ro, tập trung nhất là rủi ro tín dụng; giữ gìn uy tín, an toàn vốn và tài sản... Đội ngũ cán bộ thanh tra Ngân hàng có tới gần 700 người và đang được tăng cường thêm.
Song hàng loạt các rủi ro về hoạt động tín dụng, nhất là các vụ án lớn nhỏ xảy ra trong thời gian qua, làm thiệt hại cho cácTCTD đã chứng tỏ rằng hoạt động thanh tra ngân hàng còn rất nhiều yếu kém về năng lực, trình độ, phẩm chất, cơ chế, nghiệp vụ...để giúp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng.
3.1.6 Ban kiểm soát nội bộ:
Bao gồm Ban kiểm soát trực thuộc HĐQT và bộ phận kiểm soát thuộc Ban điều hành có tổ chức chuyên trách từ Hội sở chính đến các chi nhánh. Kiểm toán nội bộ có các nhiệm vụ: kiểm toán hoạt động, nhằm đánh giá tính hữu hiệu và hiệu quả trong hoạt động của tổ chức; Kiểm toán tuân thủ, đó là việc giám sát quá trình chấp hành pháp luật, quy định nội bộ tại các bộ phận và đơn vị thành viên; Kiểm toán báo cáo tài chính, bao gồm kiểm toán bảng cân đối kế toán, kiểm toán báo cáo hoạt động kinh doanh, kiểm toán báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của mỗi TCTD cũng như các đơn vị thành viên. Và do đó, kiểm toán hoạt động tín dụng trở thành công việc chủ yếu của bộ phận Kiểm toán, được tiến hành làm theo đề cương, chuyên đề một lần trong năm hoặc nhiều hơn. Song thực tiễn xẩy ra rủi ro lớn nhỏ ở các TCTD trong thời gian qua có thể khẳng định, kiểm toán nội bộ chưa phát huy được vai trò của mình, cũng như chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình. ở nhiềuTCTD, nhất là các TCTD cổ phần chỉ mang tính hình thức, bị vô hiệu hoá...hoặc là trình độ non kém, hoặc là tiêu cực ...
3.1.7 Kiểm toán độc lập và kiểm toán quốc tế:
NHNN đã có quy định bắt buộc đối với các NHTM quốc doanh và ngân hàng TMCP đô thị hàng năm phải thực hiện kiểm toán quốc tế. Trong nội dung kiểm toán đánh giá tính trung thực của báo cáo tài chính cũng như việc chấp hành các quy định pháp lý có liên quan, thì hoạt động tín dụng là nội dung chính của mỗi NHTM, nên đây cũng là một nội dung quan trọng của kiểm toán. Hoạt động này đã bước đầu làm phòng ngừa rủi ro tín dụng cho các NHTM, nhưng chất lượng của kiểm toán chưa cao nên hiệu quả của nó còn hạn chế trong việc phòng ngừa rủi ro tín dụng.
3.1.8 Môi trường pháp lý không ngừng được hoàn thiện:
Cùng với tiến trình xây dựng luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật của đất nước, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng và một số luật khác có liên quan đến đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng đã được ban hành, như Luật đất đai sửa đổi, Luật hình sự, Luật dân sự.. Đến nay đã có trên 20 nghị định và hàng chục quyết định, văn bản pháp lý khác triển khai thi hành hai Luật ngân hàng và các luật có liên quan cũng đã được ra đời, trong đó có "quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng, các TCTD ", trên 50% các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng.
Ngày 24-1-2002, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 57/2002QĐ-NHNN cho phép Trung tâm thông tín dụng triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, theo phương pháp xếp loại và phương pháp so sánh. Các doanh nghiệp được xếp theo 6 loại có thứ hạng từ cao xuống thấp, có ký hiệu AA, A, BB, B, CC, C.
3.1.9 Bảo hiểm tiền gửi:
Tổ chức này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8/2000, bảo đảm an toàn cho người gửi tiền, gián tiếp tạo điều kiện phòng ngừa rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Đến hết quý II/2002, Bảo hiểm tiền gửi đã chi gần 20 tỷ đồng cho giải quyết tiền gửi của các QTDND bị giải thể, thu hồi giấy phép hoạt động. Đồng thời qua 2 năm hoạt động, tổ chức này đã thu hồi giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi của 20 QTDND đã ngừng hoạt động.
3.2 Việc giảm thiểu hậu quả của rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại:
3.2.1 Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng:
Quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN ngày 8 tháng 2 năm 1999 của Thống đốc NHNN “Ban hành quy định về việc phân loại tài sản “Có” trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các TCTD”, là một hệ thống quy định các giải pháp thực thi chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là hành lang pháp lý đảm bảo cho các TCTD hoạt động an toàn, chủ động xử lý các trường hợp rủi ro. Hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường tiềm ẩn đầy rẫy rủi ro. Bởi vậy có cơ chế trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro là chủ trương cực kì sát hợp, đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức bách trong thực tiễn, tháo gỡ được một khâu ách tắc cực kì có ý nghĩa trong hoạt động của các TCTD ở nước ta hiện nay.
Những quy định mới ban hành đã cung cấp cho các TCTD áưn dụng thống nhất cách thức phân loại tài sản”Có” làm căn cứ xác định mức độ rủi ro của các tài sản “Có”, để tìm kiếm biện pháp ngăn ngừa và khắc phục. Đồng thời, TCTD còn được quyền chủ động xử lý nếu tài sản “Có” ấy thực sự đã rủi ro. Điều này đã giải toả tâm lý lo sợ hình sự hoá quan hệ dân sự các hoạt động ngân hàng đã phát sinh và tồn tại trong thời gian gần đây.
Song, bên cạnh những tác dụng tích cực, vẫn còn một số quy định khi triển khai trong thực tế vấp phải những vướng mắc, nổi cộm, biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Việc phân loại tài sản có và trích lập dự phòng phải tiến hành ngay từ đầu năm, có nghĩa là cơ sở để phân loại phải là tài sản có tại thời điểm 31 tháng 12 năm trước. Phần giá trị tài sản có không có khả năng thu hồi được bằng việc tính tóan theo các chuẩn mực quy định là những tài sản có dấu hiệu rủi ro tín dụng đã phát sinh từ năm trước nhưng lại hạch toán lượng giá trị đó vào chi phí thuộc tài khoá năm hiện hành. Như vậy, chẳng khác gì lấy thu nhập tài chính của năm hiện hành để lập dự phòng rủi ro tín dụng cho những năm trước. Điều nghịch lý này sẽ làm tăng thêm ghánh nặng tài chính cho hoạt động cuả năm hiện hành.
Việc trích lập dự phòng phải tiến hành ngay trong vòng 25 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm, nghĩa là phần giá trị dự phòng rủi ro tín dụng tính được qua phân loại tài sản có đến cuối năm trước phải được ghi vào chi phí ngay từ những ngày đầu năm hiện hành dù cho chưa có thu tài chính. Vào thời điểm này, thường các TCTD chưa có thu tài chính hoặc thu nhập còn rất hạn hẹp. Như vậy, trong các trường hợp đó xảy ra tình trạng chi trước, thu saudẫn đến kết quả tài chính thua lỗ.
Giá trị dự phòng rủi ro tín dụng phải trích lập theo những tỷ lệ cố định cho từng nhóm tài sản có qua phân loại như:
Đối với loại tài sản hoạt động cấp tín dụng được chia làm 4 nhóm, trong đó chỉ trích lập dự phòng 3 nhóm gồm các khoản đã quá hạn thanh tóan theo cấp độ thời gian quá hạn và ấn định các tỷ lệ trích lập tương ứng:20%, 50%, và 100%(điều 6). Điều này cho thấy nếu không có nợ quá hạn thì không lập dự phòng, hoặc nếu nợ quá hạn càng lớn và cấp độ quá hạn càng dài thì giá trị dự phòng phải trích lập càng lớn với giới hạn tối đa theo lý thuyết là 100% giá trị tài sản có hoạt động cấp tín dụng bị quá hạn. Như vậy, nếu giá trị trích lập dự phòng rủi ro lớn tới mức vượt quá thu nhập ròng của tài khoá năm hiện hành thì vô hình chung, đơn vị hoặc TCTD đã dự phòng bằng cái không có. Mặt khác, nếu đầu năm, qua phân loại tài sản có dù không nợ quá hạn cũng không chắc chắn là không có sự bùng nổ rủi ro tín dụng cần được giải quyết trong năm.
Số tiền dự phòng sau khi xử lý rủi ro còn lại tại thời điểm 31/12 hàng năm, TCTD phải hoàn lại để giảm số tiền dự phòng đã trích. Điều này chẳng khác gì TCTD được phép trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhưng không được phép dự trữ tài chính trong việc trích lập ấy.
3.2.2 Khoanh nợ, xoá nợ; xiết nợ, thu hồi tài sản thế chấp; chuyển nợ quá hạn:
+ Khoanh nợ, xoá nợ:
Việc khoanh nợ, xoá nợ được thực hiện khi có sự đồng ý, chấp thuận của NHNN, Bộ tài chính, Chính phủ, được thực hiện chủ yếu đối với các khoản cho vay chỉ định, đối với các doanh nghiệp nhà nước, đối với vùng bị thiên tai nặng nề và đối với khoản nợ cũ, nợ tồn đọng do cơ chế không có khả năng thu hồi được ngân sách nhà nước ghánh chịu hay cấp bù khoản thất thoát đó . Song biện pháp này chỉ được thực hiện đối với TNTM quốc doanh.
+Xiết nợ, thu hồi tài sản thế chấp:
Việc này do các ngân hàng tự giải quyết, phối hợp cùng người vay, phối hợp bán tài sản thu nợ, khởi kiện ra toà, đôn đốc thi hành án ... Nhóm biện pháp này thực hiện phổ biến ở nước ta trong thời gian qua, nhưng vấn đề nổi lên đó là xung đột các vấn đề pháp lý, sự phối hợp không đồng bộ của các cơ quan hữu quan, tính không nghiêm của luật pháp, những tiêu cực khác. Do đó hiệu quả của biện pháp này thực hiện chưa được nhiều.
+ Chuyển nợ quá hạn, áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn:
Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, về mặt pháp lý có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2002, nhưng đến nay nhiều tổ chức tín dụng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. So với quy chế cho vay cũ 284, quy chế mới thông thoáng hơn nhiều:
Chuyển nợ quá hạn: điểm 2 điều 13 trả nợ gốc và lãi vốn vay quy định”Khi đến kì hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, hoặc không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi thì TCTD chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn”
áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn:điểm 2 điều 11 “Mức lãi suất áp dụng đối với các khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thoả thuận với khách hàng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được kí kết và điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
Trong thưc tế một số loại hình cho vay, Ngân hàng cơ sở phải thực hiện thu nợ(gốc, lãi) theo định kì hàng tháng, nhằm chia nhỏ khoản nợ phải trả của người vay để tạo điều k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0328.doc