MỤC LỤC
Lời mở đầu .1
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán.2
1.2. Chức năng cơ bản của TTCK.2
1.2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 2
1.2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 2
1.2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán 2
1.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 2
1.2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô 3
1.3. Cấu trúc của TTCK.3
1.3.1. Thị trường sơ cấp 3
1.3.2. Thị trường thứ cấp 3
1.4. Phân loại TTCK.4
1.4.1. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường 4
1.4.2. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường: 5
1.5. Các chủ thể hoạt động trên TTCK.5
1.5.1. Nhà phát hành 5
1.5.2. Nhà đầu tư 6
1.5.3. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước 6
1.5.4. Sở giao dịch chứng khoán 6
1.5.5. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm 6
1.5.6. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 6
1.5.7. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán 7
1.5.8. Các tổ chức hỗ trợ 7
1.6. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK.7
1.6.1. Nguyên tắc công khai 7
1.6.2. Nguyên tắc trung gian 7
1.6.3. Nguyên tắc đấu giá 7
1.7. Hàng hoá của TTCK.8
1.7.1. Cổ phiếu 8
1.7.2. Trái phiếu 9
1.7.3. Các loại chứng khoán phái sinh 9
Phần 2. ĐO LƯỜNG RỦI RO KHI ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU 11
2.1. Đầu tư cổ phiếu.11
2.1.1. Khái niệm 11
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới đầu tư cổ phiếu 11
2.1.3. Các hình thức đầu tư cổ phiếu 12
2.1.4. Quy trình đầu tư cổ phiếu 12
2.2. Khái niệm rủi ro.13
2.3. Phân loại rủi ro.13
2.3.1. Rủi ro hệ thống 14
2.3.2. Rủi ro không hệ thống 14
2.4. Đo lường rủi ro.15
2.4.1. Đo lường cổ phiếu đơn nhất 15
2.4.2. Đo lường rủi ro của danh mục đầu tư 17
2.4.3. Đo rủi ro cổ phiếu bằng hệ số beta ( 22
2.5. Rủi ro khi đầu tư cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.24
Phần 3. QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU 29
3.1. Nhận diện rủi ro trong TTCK.29
3.1.1. Rủi ro khi công ty cổ phần bán chứng khoán cho công chúng mà không có tập trung quảng bá .29
3.1.2. Rủi ro đối với nhà đầu tư khi không bán được cổ phần 29
3.1.3. Rủi ro công ty 29
3.1.4. Rủi ro về thời điểm 29
3.1.5. Rủi ro về lạm phát lãi suất, và tỷ giá hối đoái 29
3.1.6. Rủi ro về vốn và lời 30
3.1.7. Rủi ro do luật pháp thay đổi và không ổn định 30
3.2. Quản trị rủi ro.30
3.2.1. Nhận diện rủi ro 30
3.2.2. Ước lượng, định lượng rủi ro 30
3.2.3. Đánh giá đầy đủ các tác động của rủi ro 30
3.2.4. Đánh giá năng lực thực tế của người thực hiện chương trình bảo hiểm rui ro 31
3.2.5. Lựa chọn công cụ quản trị quản trị rủi ro thích hợp 31
3.3. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trên TTCK Việt Nam.31
3.3.1. Giải pháp kinh tế vĩ mô 35
3.3.2. Các giải pháp trên TTCK 35
3.3.3. Nâng cao hiệu quả của pháp luật về quản trị công ty. 31
3.3.4. Nâng cao vai trò của người quản trị công ty trong hoạt động công bố thông tin trên TTCK Việt Nam. 32
3.3.5. Đối với các nhà đầu tư cần trang bị kỹ năng chọn lọc, phân tích thông tin trước khi đưa ra quyết định đầu tư để giảm thiểu các rủi ro phát sinh. 32
3.3.6. Nâng cao vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán trong việc bảo đảm tính minh bạch trên thị trường. 33
3.3.7. Nâng cao hiệu quả hoạt động của báo giới, làm rõ vai trò của báo giới trong hoạt động công bố thông tin trên TTCK. 33
3.3.8. Củng cố lòng tin của nhà đầu tư cũng như tăng cường sự quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK. 34
3.3.9. Bảo hiểm rủi ro chứng khoán 36
42 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 7059 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân tích kỹ thuật để xem liệu cổ phiếu đó có đáng được theo dõi hay không.
v Bước 2: Chấp nhận vị thế
Chấp nhận vị thế là công việc khá đơn giản, chỉ cần liên hệ với nhà mô giới và thực hiện giao dịch. Tuy nhiên cũng cần lưu ý một số điều.
Trước tiên là loại giao dịch bạn thực hiện: dài hạn hay ngắn hạn. Mặc dù xu hướng chung của giá cổ phiếu là đi lên nhưng bất cứ ai đã từng bị thua lỗ đều có thể hiểu rằng, trong ngắn hạn cổ phiếu có nhiều khả năng đi xuống hơn là đi lên. Nhìn chung, bạn nên tránh những vị thế đoản (vị thế bán non) vì chúng ngốn rất nhiều thời gian và công sức nhưng cơ hội dành cho nó lại rất hiếm hoi. Nếu thực hiện nó cần phải giám sát vị thế đó cẩn thận gấp đôi so với vị thế dài hạn.
Kế đến là việc chọn lựa nhà mô giới. Nếu là một nhà đầu tư tư nhân có lẽ chỉ cần đến một nhà mô giới phần dịch vụ. Đây là nhà mô giới cung cấp dịch vụ cơ bản nhất cho bạn, tức là chỉ thực hiện lệnh giúp bạn và ăn hoa hồng.
v Bước 3: Giám sát vị thế
Giám sát các vị thế đã thực hiện là phần quan trọng nhất của quá trình đầu tư. Tất cả những thông tin và sự điều tra nghiên cứu đã đưa bạn đến chỗ ra quyết định giao dịch. Giám sát vị thế là lúc bạn theo dõi và đánh giá quyết định đầu tư của mình. Khi cổ phiếu bạn chọn tăng giá đều đều và bạn có cơ sở để tin rằng đó là cổ phiếu tốt thì nên mua thêm cổ phiếu này, còn khi cổ phiếu đó giảm giá liên tục bạn nên cân nhắc bán cổ phiếu đi nhằm hạn chế thua lỗ.
v Bước 4: Kết thúc vị thế
Nhà đầu tư thường bán cổ phiếu để kết thúc một vị thế khi giá cổ phiếu đạt đến mức giá mục tiêu hay cổ phiếu không diễn biến theo mong đợi. Tuy nhiên , rất nhiều nhà đầu tư không biết bán khi nào và bán như thế nào để kết thúc một vị thế và mang lại kết quả tốt nhất. Thông thường nên bán cổ phiếu khi những nhân tố cơ bản cho thấy sự sa sút đáng kể như: thu nhập và lợi nhuận công ty giảm sút trong nhiều năm liền, thị phần thu hẹp dần do cạnh tranh gay gắt...
Khái niệm rủi ro
Rủi ro trong đầu tư chứng khoán là sự chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế trong từng giai đoạn và lợi nhuận dự tính mang lại lợi nhuận đầu tư.
Phân loại rủi ro
Rủi ro hệ thống
Là những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và hầu hết mọi loại chứng khoán. Rủi ro hệ thống bao gồm:
Rủi ro lạm phát
Lạm phát là sự mất giá của đồng tiền, và giá cả tăng lên đã làm sức mua của vốn đầu tư bị giảm sút. Không những làm giảm sức mua của khoản tiền gốc, lạm phát còn làm giảm sức mua của cả khoản lãi phát sinh.
Muốn giữ vững giá trị, vốn liếng phải tăng trưởng nhanh hơn đà lạm phát. Nếu lạm phát có dự kiến tăng thì các chứng khoán lãi suất cố định trả theo lãi coupon chỉ được thanh toán theo danh nghĩa, và như vậy kém hấp dẫn hơn các tài sản khác có khả năng đương đầu với lạm phát. Kết quả là giá trị thị trường của các chứng khoán có lãi suất cố định sẽ bị giảm và điều này làm tăng lãi suất đối với chứng khoán đó.
Rủi ro thị trường
Biến động về giá cả của thị trường cổ phiếu là khó có thể dự đoán được. Rủi ro thị trường là rủi ro do sự biến động về giá trên thị trường cổ phiếu gây nên. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro này là lạm phát, tâm lý nhà đầu tư...
Tuy nhiên, loại rủi ro này không gây tác hại đáng kể đối với những nhà đầu tư có ý định cầm giữ chứng khoán lâu dài, bởi giá cả thị trường chứng khoán luôn thăng trầm, xuống rồi lại lên. Về lâu dài, đầu tư vào TTCK có thành tích tăng trưởng vốn liếng khả quan nhất.
Rủi ro về lãi suất
Lãi suất là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết định giá của các chứng khoán có lãi suất cố định. Khi lãi suất ngân hàng tăng, một mặt tiền gởi ngân hàng tăng, mặt khác thì chi phí vay nợ cũng tăng, lợi nhuận của doanh nghiệp giảm, qua đó giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm, tiền gởi ngân hàng giảm, vốn một lần nữa lại quay trở về TTCK, hơn nữa chi phí vay nợ của doanh nghiệp giảm, lợi nhuận tăng làm cổ phiếu tăng.
Như vậy, rủi ro lãi suất là khả năng biến động của lợi nhuận do những thay đổi của lãi suất trên thị trường gây ra. Loại rủi ro này thường xãy ra đối với những người đầu tư vào chứng khoán có thu nhập đều đặn. Họ không thể dùng tiền lãi hoặc gốc để mua lại loại chứng khoán cùng mức cũ.
Rủi ro không hệ thống
Là những rủi ro do các yếu tố nội tại công ty gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành hay một công ty, hoặc một số chứng khoán. Rủi ro này có thể được loại trừ thông qua việc đa dạng hoá đầu tư.
Rủi ro kinh doanh
Khi có những thay đổi trong tình trạng hoạt động của công ty, cụ thể là lợi nhuận và cổ tức bị giảm sút hoặc tăng lên vượt mức so với xu hướng dự kiến được gọi là rủi ro kinh doanh.
Nguyên nhân gây nên rủi ro này có thể là sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh, sự thay đổi mức thuế, định mức thực tế theo kế hoạch không đạt được, sự yếu kém trong quản lý, giá trị tài sản bị kém giá trị, khả năng biến động giá thành sản xuất sản phẩm, công nghệ lỗi thời, sự cạnh tranh của những sản phẩm khác...
Rủi ro tài chính
Rủi ro này xuất hiện khi công ty tài trợ cho hoạt động của mình bằng vốn vay. Bởi các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo cho công ty những nghĩa vụ trả nợ, trả lãi. Việc này được thực hiện trước việc thanh toán cổ tức cho cổ đông. Nếu việc tài trợ bằng vốn vay không hiệu quả thì sẽ có ảnh hưởng xấu đến giá cổ phiếu, cổ tức, tiền hoàn vốn có thể sẽ không được trả đầy đủ hoặc đúng hạn. Một công ty có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao thì mức độ rủi ro tài chính càng cao.
Đo lường rủi ro
Đo lường cổ phiếu đơn nhất
Lợi nhuận kỳ vọng (Er)
Lợi nhuận kỳ vọng của một tài sản là bình quân gia quyền (theo xác suất) của các kết quả lợi suất thu được trong tất cả các khả năng xãy ra.
Công thức tính Er tổng quát là:
Er =
Trong đó: Pi là xác suất xãy ra khả năng i (tổng P = 100%)
ri là lợi suất tương ứng với khả năng i
n là số khả năng xãy ra.
Phương sai và độ lệch chuẩn
Để tính toán mức rủi ro nhiều hay ít của cổ phiếu đầu tư, ta căn cứ vào phương sai và độ lệch chuẩn của nó (phương sai và độ lệch chuẩn đo lường mức độ phân tán hay sự biến động xung quanh Er).
v Phương sai ()
Xuất phát từ kỳ vọng toán, được tính theo xác suất thành phần của các giá trị ri như sau:
v Độ lệch chuẩn ()
Là hệ số đo lường sự sai biệt giữa lợi nhuận so với lợi nhuận kỳ vọng. Độ lệch chuẩn càng lớn thì độ ly tán lợi nhuận kỳ vọng càng lớn, rủi ro càng nhiều. Độ lệch chuẩn lớn hay nhỏ phản ánh độ ly tán tuyệt đối lớn hay nhỏ. Độ lệch chuẩn chính là căn bậc hai của phương sai.
Công thức tính độ lệch chuẩn của cổ phiếu là:
= s
Hệ số biến đổi (CV)
Trong trường hợp lợi nhuận kỳ vọng không bằng nhau thì không thể trực tiếp dùng độ lệch chuẩn để dự đoán rủi ro của cổ phiếu nào là lớn hơn, mà phải tính toán sự lớn hay nhỏ của độ ly tán tương đối, ta sử dụng hệ số biến đổi CV.
Hệ số biến đổi là hệ số đo lường rủi ro tương đối, tức đo lường sai biệt trên một đơn vị lợi nhuận. Cổ phiếu nào có hệ số biến đổi lớn thì rủi ro sẽ lớn hơn so với cổ phiếu có hệ số biến đổi nhỏ.
Công thức tính hệ số biến đổi của cổ phiếu i là:
CVi =
Ví dụ:
Tình trạng nền kinh tế
Xác suất (P)
Tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu A (rA)
Tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu B (rB)
Tăng trưởng
30%
100%
20%
Bình thường
40%
15%
15%
Suy thoái
30%
-70%
10%
Tổng
100%
Cổ phiếu A: ErA = P1r1 + P2r2 + P3r3 = 0,3.1 + 0,4.0,15 + 0,3.(-0,7) = 15%
Cổ phiếu B: ErB = P1r1 + P2r2 + P3r3 = 0,3.0,2 + 0,4.0,15 + 0,3.0,1 = 15%
- Phương sai và độ lệch chuẩn cổ phiếu A
ri - Er
(ri - Er)2
Pi(ri - Er)2
100 - 15 = 85
7225
0,3.7225= 2167,5
15 - 15 = 0
0
0,4.0 = 0
-70 - 15= -85
7225
0,3.7225 = 2167,5
= 2167,5 + 0 + 2167,5 = 4335
= = 65,84%
- Phương sai và độ lệch chuẩn cổ phiếu B
ri - Er
(ri - Er)2
Pi(ri - Er)2
20 - 15 = 5
25
0,3.25= 7,5
15 - 15 = 0
0
0,4.0 = 0
10 - 15= -5
25
0,3.25 = 7,5
=7,5 + 0 + 7,5 = 15
= = 3,87 %
- Hệ số biến đổi CV của cổ phiếu A:
CVA = == 4,389
- Hệ số biến đổi CV của cổ phiếu B:
CVB = == 0,258
Đo lường rủi ro của danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư là sự kết hợp một nhóm các chứng khoán với nhau.
Lợi nhuận kỳ vọng (ErP)
Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là bình quân gia quyền của lợi ích từng cổ phiếu đơn nhất trong danh mục, với quyền số là tỷ trọng vốn đầu tư vào mỗi loại cổ phiếu.
Nếu trong tổ hợp có hai loại cổ phiếu (A và B) thì lợi nhuận kỳ vọng của tổ hợp là:
ErP =
=
=
Trong đó: x là tỷ trọng vốn đầu tư vào mỗi loại cổ phiếu (nếu bán khống nó sẽ mang dấu âm).
Ví dụ: Cổ phiếu AGF có lợi nhuận kỳ vọng 14,68% và cổ phiếu BTC có lợi nhuận kỳ vọng là 12%. Ông A đầu tư vào danh mục gồm 200 triệu đồng cổ phiếu BTC và 400 triệu đồng cổ phiếu AGF. Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư này là bao nhiêu ?
- Tỷ trọng cổ phiếu:
AGF:
BTC:
- Lợi nhuận kỳ vọng:
AGF:
BTC:
- Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư:
=
Phương sai ()
Phương sai của danh mục đầu tư là hệ số đo lường mức độ rủi ro của danh mục. Phương sai của danh mục đầu tư phụ thuộc vào phương sai của từng cổ phiếu cá biệt và hệ số tích sai giữa hai cổ phiếu đó.
Công thức tính phương sai của danh mục đầu tư là:
=
=
Trong đó: Cov là hệ số tích sai.
Hệ số tích sai (Cov)
Hệ số tích sai đo lường độ biến thiên của các kết quả lợi suất thu được trong hai cổ phiếu rủi ro có chiều hướng biến động song song. Nó là tích số của mỗi độ lệch giữa lợi suất so với ước tính bình quân của từng cổ phiếu.
Một Cov dương có nghĩa kết quả lợi suất của hai tài sản biến động cùng chiều với nhau. Ngược lại, nếu nó âm là chúng biến động ngược chiều.
Tuy nhiên hệ số tích sai chỉ cho ta biết được mối tương tác giữa hai cổ phiếu là cùng chiều hay ngược chiều mà chưa chỉ ra được mức độ biến động của chúng. Để định lượng được mức độ biến thiên này, ta sử dụng hệ số tương quan (Cor).
Hệ số tương quan (Cor)
Công thức tính hệ số tương quan:
Ta luôn có
Vì độ lệch chuẩn luôn dương nên dấu của hệ số tương quan phụ thuộc vào dấu của hệ số tích sai.
Dấu của hệ số tương quan là dương, thể hiện lợi nhuận hai cổ phiếu có quan hệ cùng chiều với nhau, hệ số càng lớn thì chúng càng có giao động giống nhau (sự biến động thị giá của hai cổ phiếu là cùng chiều).
Hệ số tương quan âm chỉ sự giao động ngược chiều của hai cổ phiếu ( sự biến động thị giá của hai cổ phiếu là ngược chiều). Hệ số tương quan âm càng lớn nghĩa là hai cổ phiếu đó dao động ngược chiều nhau càng lớn.
Hệ số tương quan bằng 0, hai cổ phiếu không có tương quan với nhau (sự biến động giá của thị giá cổ phiếu này không ảnh hưởng đến thị giá của cổ phiếu kia).
v Hệ số tương quan bằng +1
Hệ số tương quan bằng +1 thì hai cổ phiếu hoàn toàn có giao động giống nhau, tỷ lệ thu nhập của hai cổ phiếu luôn cùng giảm và tăng. Khi đó, lợi nhuận kỳ vọng của danh mục là không đổi khi thay đổi tương quan giữa hai cổ phiếu.
Phương sai của danh mục sẽ là:
.
Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư sẽ là bình quân gia quyền đơn giản của các độ lệch chuẩn của các loại cổ phiếu có trong danh mục:
Như vậy, khi hệ số tương quan mức lợi nhuận kỳ vọng của các cổ phiếu đơn nhất trong danh mục bằng +1 thì mức thu lợi nhuận kỳ vọng và độ lệch chuẩn của danh mục này là số bình quân cộng gia quyền của mức lợi nhuận và độ lệch chuẩn của cổ phiếu đơn nhất, lấy số phân ngạch vốn (x1, x2) mà chúng chiếm trong danh mục làm quyền số. Bởi vậy, cho dù áp dụng tỷ lệ tổ hợp như thế nào đi chăng nữa thì đều không thể đạt hiệu ứng rủi ro thấp.
v Hệ số tương quan bằng -1
Khi hệ số tương quan bằng -1 thì tỷ lệ thu nhập của hai chứng khoán thay đổi theo các hướng hoàn toàn đối lập nhau, rủi ro của danh mục đầu tư này sẽ được giảm bớt (rủi ro của danh mục do hai loại cổ phiếu này tạo nên có xu hướng gần bằng 0).
Phương sai của các tỷ lệ thu nhập trong danh mục đầu tư lúc này sẽ là:
=
Công thức tính độ lệch chuẩn của danh mục giảm còn:
Trong trường hợp này, rủi ro của danh mục hai cổ phiếu sẽ được triệt tiêu nếu các tỷ trọng của các cổ phiếu trong danh mục có quan hệ với nhau như sau:
v Hệ số tương quan bằng 0
Khi hệ số tương quan bằng 0 thì hai cổ phiếu đó không có tương quan với nhau. Cho dù áp dụng tỷ lệ danh mục đầu tư như thế nào đi nữa thì đều không thể đạt được hiệu ứng rủi ro thấp. Lúc này, Cov(rA, rB) = 0.
Tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng của danh mục không đổi ; nhưng phương sai của các tỷ lệ thu nhập trong danh mục bây giờ sẽ là:
Độ lệch chuẩn là:
Ký hiệu tương quan biến thiên đã biến khỏi công thức vì hệ số tương quan được giả thiết bằng 0.
v Hệ số tương quan nằm giữa +1 và -1
Trường hợp phổ biến nhất là tỷ suất lợi tức của hai cổ phiếu tương quan không hoàn toàn (nằm giữa +1 và -1). Tức là cả hai cổ phiếu cùng tăng giá hoặc giảm giá, cái này tăng nhưng cái kia giảm ở mức độ khác nhau. Để mức rủi ro đạt giá trị thấp nhất, ta tìm tỷ lệ tối ưu (tỷ trọng vốn cho mỗi cổ phiếu trong danh mục).
Ví dụ: Một danh mục đầu tư gồm hai cổ phiếu: CP1 với độ lệch chuẩn 15% và CP2 với độ lệch chuẩn là 12%. Hệ số tương quan giữa hai cổ phiếu là 0,4 và nhà đầu tư bỏ tiền bằng nhau vào hai cổ phiếu này. Hỏi phương sai và của danh mục đầu tư ?
- Tỷ trọng cổ phiếu:
- Hệ số tương quan: =0,4
- Hệ số tích sai:
- Phương sai cổ phiếu:
Phương sai của danh mục đầu tư:
== 0,012825
Tỷ lệ tổ hợp tối ưu của hai loại cổ phiếu
Ta luôn có:
Với
Nhưng lưu ý rằng, danh mục đầu tư cổ phiếu phải được điều chỉnh thường xuyên mới có thể duy trì được động thái tối ưu. Bởi lẽ, những sự thay đổi về hoàn cảnh kinh tế, điều kiện thị trường sẽ làm cho danh mục không còn thích hợp nữa.
Với một nhóm các cổ phiếu có sẵn, ta có thể kết hợp tốt nhất các cổ phiếu đó vào các danh mục đầu tư. Ý nghĩa của đầu tư hỗn hợp gồm hai cổ phiếu nói riêng và nhiều cổ phiếu nói chung cho phép giảm được rủi ro so với đầu tư riêng lẻ. Bằng việc thay đổi tỷ trọng của từng cổ phiếu một cách tối ưu, ta có thể tạo ra các đầu tư hỗn hợp một cách hiệu quả. Lợi tức của đầu tư kết hợp là số bình quân gia quyền của lợi tức từng cổ phiếu hợp thành. Ngược lại, rủi ro không phải là số bình quân gia quyền của từng cổ phiếu hợp thành.
Việc tính toán phương sai của danh mục đầu tư theo quy tắc trên cho thấy tác động của hệ số tích sai (Cov) đối với rủi ro của danh mục. Một Cov dương sẽ làm tăng phương sai của danh mục đầu tư, và Cov âm sẽ làm giảm phương sai của nó - bởi vì lợi suất của những cổ phiếu có tương quan biến động âm, ngược chiều sẽ có khuynh hướng bù đắp cho nhau và làm ổn định lợi suất chung của danh mục đầu tư.
Phương sai và lợi nhuận kỳ vọng của danh mục n cổ phiếu
Công thức tổng quát tính phương sai của tổ hợp n cổ phiếu:
=
Với
Lợi nhuận kỳ vọng của tổ hợp n cổ phiếu:
Trong đó:
Khi đầu tư vào tài sản không rủi ro với tỷ trọng là và vào tài sản rủi ro với tỷ trọng là thì:
Trong đó: là lãi suất phi rủi ro (lãi suất trái phiếu chính phủ)
là lợi nhuận dự kiến của thị trường.
Vì do vậy:
=
Đo rủi ro cổ phiếu bằng hệ số beta (
Khi nói rủi ro không hệ thống có thể bị triệt tiêu bằng cách đa dạng hoá, điều này không có nghĩa là tất cả mọi nhà đầu tư đều nắm giữ danh mục thị trường và bỏ qua việc xác định rủi ro phi hệ thống của từng công ty.
Tuy nhiên, việc xác định rủi ro không hệ thống được xem là một nghệ thuật, bởi vì mỗi ngành, mỗi công ty đều có những rủi ro riêng. Do vậy, loại rủi ro này không có bất cứ một cơ sở chung nào giữa các doanh nghiệp để có thể mô hình hoá nó thành một công thức, mà chỉ có thể làm điều này với rủi ro hệ thống dựa trên cơ sở chung là sự biến động tỷ suất lợi nhuận của từng cổ phiếu so với sự biến động tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ thị trường. Và như thế, khái niệm hệ số beta đã ra đời để thực hiện nhiệm vụ đo lường rủi ro và có khả năng so sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau.
Hệ số beta
Hệ số beta được định nghĩa là hệ số đo lường mức độ biến động lợi nhuận cổ phiếu cá biệt so với độ biến động lợi nhuận danh mục cổ phiếu thị trường.
Xác định hệ số beta
Công thức tính của một cổ phiếu:
Hoặc có thể tính theo như sau:
Trong đó:
là hệ số tích sai giữa và
là phương sai của danh mục thị trường
là mức sinh lời của cổ phiếu i tại kỳ t
là mức sinh lời của thị trường tại kỳ t
là hệ số tương quan giữa và
Hệ số đo phần góp của tài sản đó góp vào rủi ro của danh mục thị trường. Một cao hơn nghĩa là lợi tức của một tài sản nhạy cảm hơn đối với những thay đổi về giá trị danh mục thị trường và cũng có nghĩa tài sản đó góp nhiều rủi ro hơn vào danh mục.
Dựa vào hệ số , ta có thể xác định tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng của một cổ phiếu riêng lẽ:
Thực tế, đầu tư cổ phiếu đơn nhất xãy ra rất ít, đa số các trường hợp là đầu tư danh mục đầu tư gồm nhiều loại cổ phiếu đơn nhất. Để đo rủi ro của danh mục đầu tư, ta tính hệ số của danh mục. Hệ số của danh mục đầu tư là giá trị bình quân gia quyền của các cổ phiếu, quyền số là tỷ trọng mà mỗi một cổ phiếu chiếm trong danh mục đầu tư. Công thức tính:
=
Khi ta nhập thêm cổ phiếu có hệ số tương đối cao vào thì hệ số của cả danh mục cũng tăng lên. Ngược lại, khi đưa hệ số thấp vào thì hệ số của danh mục sẽ giảm xuống.
Ý nghĩa của hệ số beta
Hệ số của cổ phiếu cho biết tỷ lệ biến động lợi nhuận của nó so với lợi nhuận thị trường. Hệ số có thể là một số dương hoặc là một số âm. Cổ phiếu có hệ số dương thì lợi nhuận của nó có mối quan hệ thuận chiều với thu nhập của thị trường. Ngược lại, cổ phiếu có giá trị âm sẽ có mối quan hệ ngược chiều với thị trường.
Cụ thể, nếu = 2 thì cứ 1% tăng giá (giảm giá) thị trường sẽ đưa đến sự tăng giá (giảm giá) của cổ phiếu đó 2%. Nếu = -2 thì 1% tăng giá (giảm giá) thị trường sẽ đưa đến sự giảm giá (tăng giá) của cổ phiếu đó là 2%.
Như vậy, càng lớn thì độ rủi ro của cổ phiếu càng lớn.
Rủi ro khi đầu tư cổ phiếu trên TTCK Việt Nam
TTCK Việt Nam còn ở mức rất sơ khởi. Các quy định và luật về chứng khoán mới của Việt Nam mới chỉ có hiệu lực vào đầu tháng 1/2007 nên quá trình áp dụng cũng mới chỉ ở giai đoạn đầu. Cơ chế giám sát các hoạt động mua bán chứng khoán cần phải có những hệ thống máy tính đủ để đáp ứng việc theo dõi các hoạt động mua bán, và quá trình thiết lập bộ máy này cần phải có đầu tư và hiện cũng trong giai đoạn đang hình thành.
Phạm vi và mức độ hiệu quả quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với mức độ phát triển của TTCK. Theo số liệu hiện nay, có 4.000 công ty đại chúng của Nhà nước nhưng mới chỉ có trên 1.000 doanh nghiệp đăng ký với Ủy ban chứng khoán nhà nước, trong đó có trên 300 doanh nghiệp đã niêm yết trên TTCK tập trung. Nói cách khác, hiệu lực của các quy định về giao dịch, chuyển nhượng chứng khoán của Nhà nước mới tác động đến khoảng 1/10 doanh nghiệp, vì vậy các quy định về phát hành huy động vốn mới tác động đến 25% doanh nghiệp đại chúng. Như vậy, thị trường tự do còn quá lớn dẫn đến hiệu quả của các chính sách quản lý Nhà nước còn thấp, là nguyên nhân làm cho TTCK nói chung còn thiếu minh bạch và phát triển thiếu bền vững. Bên cạnh đó, cổ phiếu trên thị trường tự do không được tổ chức, quản lý và giám sát nên tính rủi ro cao, dễ gây bất ổn cho thị trường chính thức và cả hệ thống tài chính...
Năng lực tài chính của hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường số vốn điều lệ còn hạn hẹp nên chưa đảm nhận được vai trò dẫn dắt thị trường. Nguồn nhân lực của các công ty chứng khoán quá mỏng và trình độ còn thấp nên việc nhập lệnh, khớp lệnh ở một số công ty vẫn còn trục trặc. Cơ sở mặt bằng ở các công ty chứng khoán lại quá nhỏ hẹp, số đông còn thực hiện khớp lệnh theo phương thức thủ công nên luôn ở dạng quá tải.
Trong năm 2008 diễn biến của thị trường chứng khoán đã quá bất ngờ và không kịp phản ứng đối với các nhà đầu tư, các nhà quản lý hoạch định chính sách và cả các chuyên gia phân tích, dự báo thị trường. Không ai ngờ rằng chỉ số trên cả hai sàn đã rơi gần 70%; thị trường chứng khoán có đến 27 phiên liên tiếp giảm kịch sàn.
Nghiêm trọng hơn, nền kinh tế chúng ta lại chịu tác động của suy thoái kinh tế sâu sắc trên phạm vi toàn cầu. Gánh nặng này một lần nữa lại trút lên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã phản ánh “gánh nặng” đó qua hai giai đoạn, giai đoạn từ đầu năm đến 15/9/2008, với mức đáy 366,02 điểm được thiết lập vào ngày 20/6/2008. Giai đoạn thứ hai từ 15/9/2008 đến hết năm, với mức đáy mới 286.85 điểm vào ngày 10/12/2008, thấp hơn mức đáy trước 79,17 điểm, tương đương 21,6%. TTCK Việt Nam 2008 có thể nói là thị trường suy thoái nhất trên thế giới. Trong khi nền kinh tế chưa bị suy thoái như các quốc gia khác, việc TTCK rơi tự do như vậy bộc lộ quá nhiều vấn đề của thị trường.
v Rủi ro từ chính sách
Năm 2008 TTCK chịu nhiều rủi ro từ các chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước. Đầu năm 2008, những biện pháp mạnh chống lạm phát đã ảnh hưởng tới thị trường. Các biện pháp siết chặt cung tiền gồm có Chỉ thị 03 sau đó được thay bằng Nghị quyết 03 hạn chế lượng tiền cho vay đổ vào thị trường từ các ngân hàng thương mại. Các nhà đầu tư mất một lượng tiền lớn để đầu tư, trong khi đó họ phải chịu áp lực bán chứng khoán ra để thu tiền về trả nợ ngân hàng.
Biện pháp SCIC mua lại cổ phiếu để bình ổn giá không phát huy tác dụng, mà ngược lại làm lung lay lòng tin của nhà đầu tư vào khả năng can thiệp vào thị trường của Chính phủ. Chính phủ dường như không thể đưa ra các quyết định nhanh nhậy khi chính mình là một nhà đầu tư. Và Chính phủ cũng không có đủ ngân sách, không sẵn sàng can thiệp vào TTCK.
Nhiều câu hỏi về chính sách siết chặt biên độ giao dịch của uỷ ban chứng khoán nhà nước và tác dụng. Về dài hạn chính sách này hạn chế lực hấp dẫn của thị trường, hạn chế tính thanh khoản, không ngăn được đà giảm mà ngược lại làm thị trường giảm sút kéo dài.
v Khó khăn nội tại nền kinh tế
2008 là năm thực sự khó khăn của nền kinh tế Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp cả niêm yết lẫn không niêm yết đều gặp khó khăn, vì vậy giá cổ phiếu giảm là điều tất yếu. Tâm lý nhà đầu tư khi doanh nghiệp gặp khó khăn là tăng cường bán cổ phiếu ra nhằm giảm rủi ro và hạn chế mua vào vì sợ thua lỗ.
Khó khăn về kinh tế cũng làm giảm lượng cung tiền nhàn rỗi đổ vào TTCK. Các công ty lớn trước kia nhiều tiền, đầu tư mạnh vào tài chính thông qua mua nhiều chứng khoán, giờ đây phải bán ra cắt lỗ để thu tiền về trợ giúp cho lĩnh vực kinh doanh vốn cũng đang gặp khó khăn.
v Áp lực giải chấp và thoái vốn
Áp lực giải chấp các chứng khoán cầm cố và repo là một trong những nguyên nhân chính khiến TTCK suy giảm mạnh vào 2008. Đây là hậu quả của việc dễ dãi cho vay đầu tư chứng khoán năm 2007. Rất nhiều công ty chứng khoán, định chế tài chính phải bán các chứng khoán thế chấp của nhà đầu tư để hoàn lại vốn để cho vay hoặc khi thị trường đã xuống quá thấp phải bán ra để giải chấp. Chính áp lực này đã làm cho thị trường lúc nào nguồn cung cũng nhiều và bán với giá thấp. Chỉ đến khoảng tháng 8 thị trường mới thoát khỏi áp lực này khi các công ty chứng khoán bán được hết các cổ phiếu thế chấp.
Áp lực thứ hai đẩy thị trường xuống là áp lực bán ra của nhà đầu tư nước ngoài. Suốt trong 6 tháng cuối năm, nhà đầu tư nước ngoài toàn bán ròng chứng khoán. Họ phải bán để tăng tỷ lệ tiền mặt hoặc thoái vốn về công ty mẹ khi công ty mẹ đang gặp khó khăn. Họ thường bán ra với khối lượng lớn, nhiều phiên liên tục, làm thị trường có cố gắng mấy cũng không tăng lên được. Hiện tại giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK chỉ còn 4,6 tỉ USD, giảm 4 tỉ USD so với đầu năm 2008.
Thua thiệt nhất vẫn là nhà đầu tư chứng khoán và các bài học rút ra rất thấm thía và đau đớn. Tin chắc rằng các nhà quản lý thị trường cũng sẽ rút ra nhiều bài học bổ ích mà bài học lớn nhất là các biện pháp hành chính can thiệp thị trường dường như mang lại hiệu quả rất thấp và thị trường chứng khoán rất cần sự minh bạch.
Bước sang năm 2009, các ngân hàng đã điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Lãi suất tiền đồng tăng mạnh trong những ngày cuối tháng 5 khiến nhiều người liên tưởng đến giai đoạn khởi đầu cho một cuộc đua lãi suất tiết kiệm sẽ lặp lại như hồi đầu năm trước. Từ 21/5-27/5 tăng cao nhất là kỳ hạn 12 tháng với 1,16%. Ngày 26/5/2009, ngoại trừ giảm ở các kỳ hạn 2 tuần và 6 tháng, lãi suất bình quân các kỳ hạn còn lại đều tăng. Mức tăng nhỏ nhất là 0,03%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Mức tăng cao nhất là 1,16%/năm cho kỳ hạn 12 tháng.
Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước phổ biến ở mức từ 8,5-10%/năm, trung và dài hạn từ 10-10,5%/năm. Lãi suất cho vay VND của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần phổ biến ở mức từ 10-10,5%/năm. Lãi suất cho vay sau khi trừ đi phần hỗ trợ lãi suất phổ biến ở mức từ 4,5-6%/năm.
Lãi suất cho vay USD ở mức 6-7%/năm.
Lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phổ biến từ 12-16,5%/năm.
Các dự báo về nguy cơ lạm phát sẽ tái bùng phát trong tương lai gần đang được nhắc tới nhiều, khi nguồn tiền đẩy ra thị trường để thực hiện chủ trương kích cầu ngày càng mạnh hơn. Nguy cơ rủi ro cho TTCK là điều không thể tránh khỏi. Công ty Chứng khoán SME (SMES) đưa ra danh sách 25 mã chứng khoán có dấu hiệu của rủi ro (số liệu cập nhật đến hết ngày 31/03/2009).
Công ty này cho biết, các chỉ tiêu trong nhóm rủi ro này không ám chỉ tất các công ty đang hoạt động yếu kém mà chỉ giúp cho nhà đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rui ro khi dau tu co phieu tren thi truong chung khoan Viet Nam.doc