MỤC LỤC
Lời Nói Đầu 1
Chương I: Tổng quan về hợp đồng điện tử và rủi ro trong 3
giao kết hợp đồng điện tử 3
I. Thương mại điện tử và hợp đồng điện tử 3
1. Khái niệm và đặc điểm của thương mại điện tử 3
1.1. Khái niệm thương mại điện tử 3
1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử 4
2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng điện tử 5
2.1. Khái niệm về hợp đồng điện tử 5
2.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử 6
II. Giao kết hợp đồng điện tử và những rủi ro phát sinh 9
1.Giao kết hợp đồng điện tử 9
1.1. Khái niệm giao kết hợp đồng điện tử 9
1.2. Chủ thể của hợp đồng điện tử 10
1.3. Hình thức hợp đồng điện tử 11
1.4. Thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng điện tử 15
1.5. Nội dung của hợp đồng điện tử 18
1.6. Chữ ký điện tử và bằng chứng về hợp đồng điện tử 21
2. Rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử 23
2.1. Khái niệm rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử 23
2.2. Phân loại rủi ro 23
2.3. Tác động của những rủi ro trong khâu giao kết hợp đồng điện tử đến việc thực hiện hợp đồng điện tử và những rủi ro phát sinh do thực hiện hợp đồng điện tử 31
Chương II: Thực trạng giao kết hợp đồng điện tử và những rủi ro thường gặp trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam 32
I. Thực trạng khung pháp lý về giao kết hợp đồngt ở Việt Nam 32
1. Những thuận lợi 32
1.1. Đã ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005-đạo luật cơ bản đầu tiên của Việt Nam điều chỉnh giao kết hợp đồng điện tử nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho giao kết hợp đồng điện tử. 32
1.2. Đã kịp thời ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật Giao dịch điện tử năm 2005 33
1.3. Nhiều quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử đã từng bước hình thành. 36
2. Những bất cập 40
2.1. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ, chưa cụ thể 40
2.2. Thiếu quy định cụ thể về xử lý các hành vi gian lận trong giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam 41
2.3. Chưa có quy định cụ thể về hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. 42
3. Thực trạng giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và những rủi ro phát sinh 43
3.1. Thực trạng giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam. 43
3.2. Những khó khăn, yếu kém và nguyên nhân 53
3.3. Những rủi ro phát sinh từ giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử 55
Chương III Giải pháp phòng tránh rủi ro khi giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam 58
I. Dự báo về tình hình giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới và khả năng phát sinh những rủi ro. 58
1. Cơ sở dự báo 58
1.1. Xu hướng phát triển của TMĐT trên thế giới 58
1.2. Xu hướng phát triển của TMĐT ở Việt Nam 59
1.3. Việt Nam gia nhập WTO giúp Việt Nam dễ dàng giao kết hợp đồng điện tử với 150 nước thành viên. 61
II. Giải pháp phòng tránh rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới 62
1. Nhóm giải pháp vĩ mô 62
1.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử 62
1.2. Nhóm giải pháp về đào tạo đội ngũ, đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền về Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và khuyến khích việc giao kết hợp đồng điện tử giữa các doanh nghiệp. 66
2. Nhóm biện pháp vi mô 69
2.1. Đối với doanh nghiệp 69
2.2. Giải pháp từ phía người tiêu dùng 74
3. Các giải pháp khác 81
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
91 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử và giải pháp phòng tránh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liên ngân hàng
23/2/2007
Chỉ thị số 03/2007/CT-BBCVT của bộ bưu chính viễn thông về việc tăng cường đảm bảo an ninh trên mạng
22/3/2007
Quyết định số 18/2007/QĐ-BTC của Bộ tài chính về việc in, phát hành sử dụng, và quản lý vé máy bay điện tử
05/4/2007
Quyết định số 05/2007/QĐ-BBCVT của Bộ bưu chính viễn thông ban hành quy định về giải quyết khiếu nạ và hướng dẫn giải quyết tranh chấp giữa người sử dụng dịch vụ bưu chính, chuyển phát, viễn thông và internet
15/5/2007
Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước ban hành quy chế pháp hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.
19/6/2007
Quyết định số 20/2007/QĐ-BBCVT của Bộ bưu chính viễn thông ban hành mẫu quy chế chứng thực chữ ký số
22/6/2007
Quyết định số 52/2007/QĐ-BTC của Bộ tài chính ban hành quy định về thí điểm hải quan điện tử
25/6/2007
Quyết định số 706/2007/QĐ-BNV của Bộ nội vụ cho phép thành lập hiệp hội TMĐT
03/7/2007
Quyết định số 18/2007/QĐ-BTM của Bộ thương mại về việc ban hành quy chế cấp chứng nhận xuất xứ điện tử
24/8/2007
Chỉ thể số 20/2007/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước
25/9/2007
Quyết định số 1699/2007/QĐ-TCHQ của tổng cục hải quan ban hành quy trình thủ tục hải quan điện tử .
Cùng với một số văn bản ban hành năm 2005, những văn bản ra đời trong 2 năm gần đây đã tạo lên một khung pháp lý tương đối toàn diện cho giao dịch điện tử nói chung và TMĐT nói riêng tại Việt Nam, đặc biệt là bốn nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và ba nghị định hướng dẫn luật CNTT. Nếu trước năm 2005, phần lớn các văn bản chỉ liên quan đến các vấn đề kỹ thuật CNTT, thì các văn bản ban hành sau Luật Giao dịch điện tử đã mở rộng diện điều chỉnh đến những ứng dụng cụ thể như thương mại, hải quan, tài chính, hành chính nhà nướcĐây là những ứng dụng nền tảng của xã hội và là tiền đề cho việc triển khai các quy trình TMĐT nói chung và giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử nói riêng hoàn chỉnh ở cấp độ doanh nghiệp trong thời gian tới.
1.3. Nhiều quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử đã từng bước hình thành.
Các quy định về giao kết hợp đồng điện tử có mối quan hệ hữu cơ với giao kết hợp đồng truyền thống
Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định hợp đồng điện tử và giao kết hợp đồng điện tử vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng dân sự, thương mại và kinh tế (Điều 35 khoản 2 luật giao dịch điện tử 2005).
Một số vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử tương đồng với giao kết hợp đồng truyền thống sẽ được quy định trong pháp luật hợp đồng truyền thống. Ngoài ra, những nội dung đặc trưng, tính đặc thù của việc giao kết hợp đồng điện tử sẽ do các văn bản luật mang tính chuyên ngành điều chỉnh. Hiện nay, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh việc giao kết hợp đồng điện tử là Luật giao dịch điện tử năm 2005.
Cùng với Luật giao dịch điện tử năm 2005 là sự ra đời của nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 về TMĐT, là nghị định hướng dẫn khá chi tiết nhiều vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng TMĐT. Nghị định này quy định chi tiết việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài (Điều 3); thừa nhận giá trị pháp lý của các chứng từ điện tử trong giao kết hợp đồng thương mại, quy định về quản lý nhà nước về TMĐT, kể cả xử lý vi phạm pháp luật về TMĐT.
Đã ban hành các quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử
Những văn bản đã liệt kê ở trên cho thấy đã nhiều quy định tạo thành khung pháp lý về giao kết hợp đồng TMĐT ở Việt Nam. Những quy định này thể hiện những nội dung cơ bản sau:
Thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng TMĐT như một hình thức văn bản có giá trị như bản gốc
Các văn bản pháp luật dân sự , kinh tế, thương mại Việt Nam đều quy định về hình thức hợp đồng, theo đó, hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc các hành vi cụ thể (Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 24 Luật Thương mại VIệT NAM năm 2005). Điều đáng chú ý là Điều 3 khoản 15 Luật thương mại năm 2005 khẳng định rõ: “Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”. Bằng các quy định này, Luật thương mại năm 2005 đã công nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu như một hình thức văn bản . Và như vậy, tất cả các loại hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005, khi được ký kết thông qua các phương tiện điện tử, đều thoả mãn yêu cầu về hình thức văn bản, đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng . Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý ban đầu rất quan trọng cho việc sử dụng các chứng từ điện tử trong giao dịch điện tử nói chung và trong giao kết hợp đồng TMĐT nói riêng.
Bộ luật dân sự năm 2005 bổ sung thiếu sót của bộ luật dân sự năm 1999 bằng quy định tại điều 124 khoản 1 như sau: “Giao dịch dân sự thông qua các phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Như vậy, hình thức văn bản điện tử đã được thừa nhậ rõ ràng về giá trị pháp lý, không chỉ đối với hợp đồng dân sự mà cả đối với hợp đồng thương mại., nó được công nhận giá trị pháp lý như hợp đồng bằng bằng văn bản.
Luật giao dịch điện tử năm 2005 ra đời đã khẳng đinh giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử ở mức khẳng định rõ ràng hơn: “Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới các thông điệp dữ liệu” (Điều 34 Luật giao dịch điện tử năm 2005).
Luật giao dịch điện tử còn quy định về giá trị chứng cứ của hợp đồng điện tử. Điều 14 khoản 1 của Luật này khẳng điịnh: “Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì nó là một thông điệp dữ liệu”. Điều này khẳng định giá trị làm bằng chứng của hợp đồng điện tử khi có tranh chấp xảy ra.
Trong lĩnh vực thương mại, Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 đã khẳng định rất rõ ràng giá trị của các chứng từ điện tử: “Chứng từ điện tử không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vị chứng từ đó là chứng từ điện tử” (Điều 7). Chứng từ TMĐT “có giá trị pháp lý như văn bản nếu thông tin chứa trong chứng từ điện tử đó có thể truy cập được để sử dụng khi cần thiết” (Điều 8). Đặc biệt, để hướng dẫn cụ thể hơn vấn đề này, Điều 9 Nghị định số 57/2006/NĐ-CP quy định rằng “chứng từ điện tử không chỉ có giá trị pháp lý như văn bản mà còn có giá trị pháp lý như bản gốc”.
Chứng từ điện tử có giá trị như bản gốc nếu thoả mãn đồng thời 2 điều kiện sau:
- Có sự đảm bảo tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử khi thông tin được tạo ra ở dạng cuối cùng là chứng từ điện tử hay dạng khác.
- Thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể truy cập, sử dụng dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.
Đã có những quy phạm luật cụ thể hoá các nguyên tắc giao kết hợp đồng TMĐT
Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã đưa ra 3 nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng (Điều 35 Luật giao dịch điện tử năm 2005)
Các bên tham gia có quyền tự do thoả thuận sử dụng các phương tiện điện trong giao kết và thực hiện hợp đồng;
Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của Luật giao dịch điện tử và pháp luật về hợp đồng;
Khi giao kết hợp đồng điện tử, các bên có quyền thoả thuận về kỹ thuật, chứng thực các điều kiện bảo mật tính toàn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó.
Đã có một số quy định hướng dẫn cụ thể về đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử
Thời điểm gửi, nhận đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trong việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng điện tử và phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Luật Thương mại năm 1997 đã không đưa ra một nguyên tắc nào đển xác nhận thời điểm gửi, nhận, còn Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định thời điểm gửi, nhận giao kết hợp đồng nhưng chỉ áp dụng cho giao kết hợp đồng theo phương thức truyền thống. Điều 391 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã bổ sung cho những thiếu sót này với quy định “đề nghị được coi là đã được nhận khi giao kết hợp đồng là đề nghị được gửi vào hệ thống thông tin chính thức của bên nhận đề nghị”. Quy định này được áp dụng cho những đề nghị được giao kết hợp đồng dưới những thông điệp dữ liệu.
Để hướng dẫn cụ thể về giao kết hợp đồng thì Điều 36, khoản 2 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 khẳng định: “Trong giao kết hợp đồng điện tử, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện qua các dữ liệu điện tử”. Ngoài ra, Điều 17; 18; 19 của Luật này còn cụ thể hoá thời điểm nhận, gửi các thông điệp dữ liệu.
Điều 12 Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 09/06/2006 cụ thể hoá hai giai đoạn đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử trong lĩnh vực thương mại: “ Một thông báo bằng chứng từ điện tử về đề nghị giao kết hợp đồng mà không có bên nhận cụ thể thì chưa được coi là giao kết hợp đồng, trừ khi bên thông báo chỉ rõ trong thông báo đó trách nhiệm của mình trong trường hợp nhận được trả lời chấp nhận”.
Những quy định trong Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và những quy định hướng dẫn trong Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 09/06/2006 nói trên đã chỉ dẫn tương đối cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử.
Đã ban hành các quy định về chữ ký điện tử
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đã dành hẳn chương III với 13 điều khoản quy định về chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử. Điều 21 quy định: “Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh, hoặc kết hợp dưới dạng logic với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dụng của thông điệp dữ liệu được ký”. Đặc biệt Luật này còn quy định điều kiện đảm bảo an toàn cho chữ ký điện tử (Điều 22), giá trị pháp lý của chữ ký điện tử (Điều 24), nghĩa vụ của người ký chữ ký điện tử và người chấp nhận chữ ký điện tử (Điều 25; 26), Luật này cũng quy định cả việc thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thực điện tử nước ngoài (Điều 27).
Điều 10 Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 09/06/2006 cũng đưa ra khái niệm về giá trị pháp lý của chữ ký điện tử: “Chứng từ điện tử được coi là chữ ký của một bên nếu:
Đã sử dụng một phương pháp để xác nhận được bên ký chữ ký chứng từ điện tử và xác nhận sự chấp thuận đó đối với thông tin chứa đựng trong chứng từ điện tử được ký.
Phương pháp nói trên đủ tin cậy cho mục đích tạo ra và trao đổi chứng từ điện tử xét tới mọi bối cảnh và thoả thuận liên quan”.
Những quy định của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 09/06/2006 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho giao kết hợp đồng điện tử.
Một số các quy định khác liên quan đến thủ tục giao kết hợp đồng điện tử cũng được ban hành
Quy định về trách nhiệm của bên thứ ba
Vấn đề an ninh và bảo mật thông tin trong TMĐT
Các quy định về thanh toán điện tử
Các quy định về thuế điện tử
Các quy định về hải quan điện tử
Các quy định về quảng cáo điện tử
Các quy định về kế toán điện tử
2. Những bất cập
2.1. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ, chưa cụ thể
Luật giao dịch TMĐT năm 2005 đã được ban hành. Tuy nhiên, nếu chỉ với 6 điều khoản quy định về giao kết hợp đồng điện tử của luật này thì trong thực tiễn sẽ rất khó triển khai việc giao kết, thực hiện cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh. Có rất nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng điện tử như việc giả mạo chữ ký, hoặc dấu, bằng cách soạn sẵn để đưa vào hợp đồng điện tử, sẽ được giải quyết như thế nào? Nếu đưa ra trọng tài thì trọng tài không có chức năng điều tra việc giả mạo này. Nếu đưa ra toà án thì không thể được. Vì sao? Vì theo điều 52 của Luật giao dịch điện tử năm 2005, việc giải quyết tranh chấp trong giao dịch điện tử được quy định như sau:1. “Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong giao dịch điện tử giải quyết thông qua hoà giải; 2. “Trong trường hợp các bên không hoà giải được thì thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp về giao dịch điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Theo quy định của pháp luật nào? Với quy định này, không hiểu cơ quan nào (toà án hay trọng tài) sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp?. Một quy định thật chung chung, mơ hồ và không rõ ràng.
Luật giao dịch điện tử năm 2005 cũng không xác định rõ khi nào hợp đồng điện tử sẽ được coi là giao kết. Điều 17;18;19 của Luật chỉ quy định về thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp dữ liệu mà không có một quy định nào nói rằng việc nhận thông điệp dữ liệu như thế nào thì được coi là chấp nhận chào hàng và do đó hình thành hợp đồng điện tử v.vĐiều 14 Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 cũng không quy định rõ ràng sẽ phải giải quyết thế nào để bên được đề nghị muốn sửa đổi nội dung đưa ra trong đề nghị giao kết hợp đồng?. Thế nào là khoảng thời gian hợp lý để bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng cung cấp cho bên được đề nghị chứng từ điện tử và các bên liên quan khác có chứa nội dung của hợp đồng . v.v
2.2. Thiếu quy định cụ thể về xử lý các hành vi gian lận trong giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam
Trong luật giao dịch điện tử Việt Nam và các nghị định hướng dẫn thi hành luật giao dịch điện tử còn thiếu mảng quy định về các hành vi gian lận và các biện pháp xử lý vi phạm gian lận trong giao kết hợp đồng điện tử, từ đó thiếu khung pháp lý để căn cứ tiến hành xử lý, đưa ra các chế tài cho các hành vi gian lận trong giao kết hợp đồng điện tử, dẫn đến khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp.
2.3. Chưa có quy định cụ thể về hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Nhìn chung, tuy Luật giao dịch điện tử năm 2005 - một văn bản được coi là quan trọng nhất nhằm hình thành khung pháp lý ban đầu cho TMĐT nói chung và cho giao kết hợp đồng điện tử nói riêng ở Việt Nam đã được ban hành nhưng nhiều nội dung trong luật còn chưa được cụ thể, chưa tạo đủ cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh, chưa tạo được niềm tin cho doanh nghiệp và người tiêu dùng khi họ muốn tham gia giao kết hợp đồng điện tử.
Vấn đề là ở chỗ, không phải hợp đồng điện tử được giao kết xong rồi được xếp vào ngăn kéo. Ngược lại, điều mà các chủ thể giao kết hợp đồng điện tử quan tâm là hợp đồng điện tử đã giao kết thì phải được thực hiện đầy đủ. Trong trường hợp có một bên vi phạm thì bên kia phải có cơ chế bảo vệ các quyền lợi của mình. Một trong những cơ chế đó là cơ chế giải quyết tranh chấp về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Đáng tiếc là Luật Giao dịch điện tử năm 2005 còn quy định rất chung chung, rất sơ sài về vấn đề này: Luật chưa có hướng dẫn cụ thể về phương thức giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử; Luật chưa có quy định về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng điện tử được giao kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài; Luật cũng chưa quy định hoặc chưa có hướng dẫn cụ thể về các chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng điện tử, đặc biệt là chưa quy định chế tài đối với hành vi lợi dụng phương thức kinh doanh này để lừa đảo doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng.
Luật CNTT được quốc hội ban hành ngày 29/06/2006, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 có đưa ra 3 điều 75;76;77 về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm nhưng những quy định này chỉ hướng dẫn giải quyết tranh chấp về CNTT; giải quyết tranh tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam.Việt Nam. Luật chưa quy định cụ thể về cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Đó là những bất cập dễ nhìn thấy của Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 nói riêng và khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam nói chung. Những thiếu sót này đã làm khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển TMĐT nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý của Việt Nam về giao kết hợp đồng điện tử là nhu cầu bức xúc và cấp bách.
3. Thực trạng giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và những rủi ro phát sinh
3.1. Thực trạng giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam.
Trong phần thực trạng về giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam, tác giả xin được trích dẫn nguồn thông tin và kết quả điều tra của Bộ Công Thương đối với các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh của mình trong năm 2007
3.1.1. Tổng quan về kết quả điều tra của Bộ Công Thương về các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT năm 2007.
Năm 2007 Bộ Công Thương (Vụ TMĐT) đã tiến hành khảo sát hơn 2000 doanh nghiệp so với con số 1300 của năm 2006 và 800 của năm 2005. Nội dung điều tra bao quát nhiều mặt của ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp. Đối tượng điều tra được lựa chọn theo phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên theo quy mô, loại hình doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh. Về địa bàn, cuộc điều tra được tiến hành chủ yếu ở 3 thành phố lớn nhất nước là Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Các phân tích và thống kê trong chương này chủ yếu dựa trên kết quả xử lý thông tin của 1737 phiếu trả lời hợp lệ thu về từ cuộc điều tra
Dưới đây là một vài số liệu khái quát về các doanh nghiệp được tập hợp làm cơ sở phân tích cho báo cáo TMĐT 2007.
Hình 1: Quy mô lao động của các doanh nghiệp được điều tra
Quy mô lao động
Điểm dễ thấy khi nhìn vào bảng phân bổ các đối tượng điều tra là số doanh nghiệp quy mô nhỏ chiếm tỷ lệ khá áp đảo. Có tới 53% các doanh nghiệp tham gia khảo sát có ít hơn 20 lao động, tỷ lệ tương ứng với nhóm doanh nghiệp có từ 21-50 lao động là 15%. Những doanh nghiệp có trên 500 lao động chiếm chưa tới 10% số doanh nghiệp được khảo sát. Tương quan này về quy mô lao động của các doanh nghiệp được điều tra đã phản ánh đúng thực trạng là đa số các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hình 2: Doanh nghiệp được điều tra theo khu vực địa lý
Về khu vực địa lý, 45% doanh nghiệp tham gia khảo sát hiện đang hoạt động tại TP.HCM, khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp năng động nhất trên toàn quốc, 26% doanh nghiệp đang hoạt động tại Hà Nội, 6% doanh nghiệp tại Đà Nẵng. Số doanh nghiệp hoạt động tại các địa phương khác chiếm gần ¼ các doanh nghiệp được điều tra trong báo cáo năm nay
Hình 3: Doanh nghiệp được điều tra theo ngành nghề kinh doanh
Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp được điều tra cũng phản ánh khá chính xác cơ cấu của các doanh nghiệp trên toàn quốc theo lĩnh vực kinh tế và ngành hoạt động
Như vậy với sự phân bổ khá đa dạng về vị trí địa lý, quy mô và ngành nghề kinh doanh, tương ứng với thực trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam, nhóm 1737 doanh nghiệp được khảo sát này cho thấy một bức tranh mang tính đại diện cao cho tình hình ứng dụng TMĐT của doanh nghiệp trên toàn quốc.
3.1.2. Hiệu quả ứng dụng TMĐT
3.1.2.1 Đầu tư cho TMĐT
Sau bước tiến vượt bậc được ghi nhận trong năm 2006 so với năm 2005, tình hình đầu tư cho TMĐT đã đi vào ổn định. Khoảng 50% doanh nghiệp được khảo sát dành dưới 5% tổng chi phí hoạt động thường niên cho những ứng dụng CNTT và TMĐT, trên 36% doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư từ 5%-15% và gần 14% doanh nghiệp có tỷ lệ này trên 15%.
Nếu năm 2005 chỉ có khoảng 17,5% doanh nghiệp dành trên 5% tổng chi phí đầu tư cho những ứng dụng CNTT và TMĐT, thì trong 2 năm 2006-2007 số doanh nghiệp này đã chiếm 50% diện đối tượng được điều tra. Như vậy tỷ trọng đầu tư CNTT và TMĐT đang có xu hướng chuyển dịch về mức 5%-15% là mức trung bình của khu vực.
Không chỉ tăng về tỷ trọng, cơ cấu đầu tư TMĐT trong doanh nghiệp thời gian qua cũng có những bước cải thiện đáng kể. Đầu tư cho phần mềm và đào tạo ngày càng chiếm tỷ lệ quan trọng, với tỷ lệ kết hợp trên 40% tổng đầu tư CNTT và TMĐT của doanh nghiệp trong năm 2007. Nếu năm 2005 đầu tư cho phần cứng chiếm tỷ trọng lấn át (bình quân đạt xấp xỉ 77% giá trị đầu tư cho CNTT và TMĐT của một doanh nghiệp được điều tra) thì đến năm 2007, tỷ lệ này đã giảm xuống mức 55%.
Từ những con số thống kê trên có thể rút ra 3 nhận định.
Thứ nhất, hạ tầng cho ứng dụng TMĐT tại doanh nghiệp đã cơ bản được ổn định. Nếu năm 2004 và năm 2005 đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị CNTT, thì giờ là lúc doanh nghiệp bắt tay vào khai thác các ứng dụng trên nền thiết bị phần cứng này.
Thứ hai, tỷ lệ đào tạo tăng hơn gấp 2 lần rưỡi trong vòng 2 năm cho thấy doanh nghiệp đã nhận thức rõ vai trò quyết định của yếu tố con người trong bài toán chung về hiệu quả đầu tư TMĐT. Đây là một bước tiến cả về tư duy quản lý cũng như cách tiếp cận của doanh nghiệp đối với vấn đề triển khai ứng dụng TMĐT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đầu tư cho các phần mềm hầu như không thay đổi cho thấy vai trò của phần mềm và giải pháp TMĐT chưa được chú trọng đúng mức, cũng có thể do chi phí phần mềm ở Việt Nam thấp tương đối so với chi phí thiết bị CNTT.
3.1.2 Những kết quả đã đạt được
3.1.2.1. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng được quy trình giao kết hợp đồng điện tử phù hợp
Quy trình bán vé máy bay qua mạng Internet của công ty VDC: Bước đầu khách hàng đặt vé, đặt chỗ, đặt chuyến bay qua e-mail tới website của VDC. Sau đó, vé được khách hàng (theo đúng yêu cầu về thời gian, địa điểm và cả hình thức nhận vé của khách hàng như: trực tiếp mang đến hoặc gửi qua dịch vụ thư thường hoặc cũng có thể chuyển phát nhanh qua bưu điện v.v .). Kết thúc quy trình là khách hàng thanh toán bằng cách chuyển tiền tới tài khoản của VDC.
Quy trình của ngân hàng ACB phục vụ đăng ký giao dịch có bảo đảm cho việc mua bán nhà đất qua mạng Internet. Quy trình này được thực hiện như sau: cá nhân, tổ chức không cần đến ngân hàng và cơ quan đăng ký mà vấn được tiếp nhận hồ sơ, ngân hàng nhận và giải quyết từng hồ sơ qua website của ngân hàng. Quy trình cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân vay vốn, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ đăngký thế chấo và bảo lãnh về nhà đất từ 10 ngày xuống còn 4 ngày làm việc, do đó, tiết kiệm được thời gian và chi phí đi lại cho việc giao dịch. Quan trọng hơn, quy trình này được thực hiện tự động giữa ngân hàng và sở tài nguyên môi trường nên tránh được sự chồng chéo trong công việc, giảm thời gian và tiết kiệm chi phí thực hiện công việc.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đã xây dựng được website để quảng cáo hàng hoá và dịch vụ của mình. Tuy chưa xây dựng được một quy trình giao kết hợp đồng điện tửt của riêng mình nhưng các doanh nghiệp này cũng đã mạnh dạn đàm phán và giao kết hợp đồng điện tử thông qua các phương tiện điện tử như thông qua việc gửi đơn chào hàng và chấp nhận chào hàng bằng e-mail.
3.1.2.3 Các trang web bán hàng ngày càng được các doanh nghiệp đầu tư xây dựng
Trong tổng số 1737 doanh nghiệp được khảo sát, 38,1% đã có website và 11,8% cho biết sẽ tiến hành có website vào năm tới.(Xem hình 4)
Hình 4: Tỷ lệ doanh nghiệp có website năm 2007
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2007, Hà Nội tháng 2/2008 Trang 131
So với kết quả điều tra của những năm về trước có thể thấy tỷ lệ website doanh nghiệp phát triển tương đối ổn định và tốc độ tăng trưởng hai năm gần đây là rất khả quan.(Xem hình 5)
Hình 5: Tỷ lệ các doanh nghiệp có website qua các năm
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2007, Hà Nội tháng 2/2008 Trang 131
Xét về đặc điểm, tính năng, trong năm 2007 chất lượng của các website doanh nghiệp đã có nhiều tiến bộ so với năm 2006. Trước hết là tính năng giao dịch TMĐT được cải thiện, gần 36,7% website đã cho phép tương tác đặt hàng, so với con số 27,4% của năm 2006. Tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến cũng tăng đáng kể, từ 3,2% đến 4,8%. Dịch vụ siêu thị điện tử vẫn được nhiều doanh nghiệp cung cấp, nhưng các mặt hàng kinh doanh chuyên biệt đã bắt đầu chiếm ưu thế, phổ biến nhất hiện nay thiết bị điện tử viễn thông và hàng tiêu dùng. Về phương thức giao dịch, mô hình kinh doanh B2B tiếp tục là lựa chọn chiếm ưu thế khi doanh nghiệp tiến hành lập website kinh doanh TMĐT. Trong khi tỷ lệ website có đối tượng mục tiêu là người tiêu dùng không thay đổi qua 2 năm qua, thì tỷ lệ website hướng tới khách hàng là tổ chức hoặc doanh nghiệp đã tăng từ 76,4% lên đến 84,8% năm 2007. Thống kê này cho thấy hướng đi của các doanh nghiệp Việt Nam cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới về phương thức giao dịch B2B làm động lực phát triển cho TMĐT và qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Về phương thức quản lý, các website TMĐT ngày càng được vận hành một cách chuyên nghiệp hơn, 24,4% doanh nghiệp có website cho biết đã đăng ký với một công cụ tìm kiếm để tăng cường khả năng cũng như tần suất người dùng Internet truy cập vào website của mình. Số liệu thống kê năm 2007 cho thấy 64,5% doanh nghiệp có website đã tiến hành cập nhật thông tin trên website hàng ngày, 12,7% cập nhật hàng tuần và chỉ có 16,2% để website của mình ở trạng thái “tĩnh” (thỉnh thoảng mới cập nhật thông tin). Kết quả khảo sát năm 2007 cho thấy doanh nghiệp đã nhìn nhận đúng mức hơn vai trò của website như một kênh giao tiếp và tương tác thường xuyên với khách hàng, từ đó đầu tư thoả đáng hơn cả về nguồn lực cũng như th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7340.doc