Mục lục:
Lời mở đầu 2
Phân I: Cơ sở lý luận 4
I/ Du lịch và hoạt động du lịch của con người 4
1/ Những quan niệm khác nhau về du lịch 4
2/ Khách du lịch 5
3/ Hoạt động kinh doanh du lịch 6
II/ Điều kiện phát triển du lịch bề vững 7
1/ Quan điểm phát triển du lịch bền vững 7
2/ Khái niệm và lược sử phát triển bền vững 9
3/ Phát triển bền vững ở Việt Nan 15
3.1 Về chính sách pháp luật 16
3.2 Về một số mặt kinh tế- xã hội .18
III/ Các điều kiện phát triển du lịch ở Sầm Sơn 19
1/ Điều kiện về tài nguyên du lịch 19
2/ Tài nguyên nhân văn 20
3/ Các điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ du khách 20
4/ Các điều kiện về kinh tế 20
IV/ Phương pháp nghiên cứu 20.
Phần II: thực tiễn 21
I/ Đánh giá sự phát triển du lịch Sầm Sơn giai đoạn 2005-2006 22
II/Sầm Sơn kỷ niệm 100 năm du lịch 22
III/ nét văn hoá độc đáo 23
Phần III: Giải pháp để phát triển du lịch bền vững ở Sầm Sơn 24
Kết luận: 36
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4099 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sầm Sơn phát triển du lịch bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường và phát triển: Một loạt những nguyên tắc xác định quyền lợi và trách nhiệm của các quốc gia, trong đó bao gồm các ý tưởng như các quốc gia được toàn quyền khai thác các nguồn lợi riêng của mình nhưng không được gây phương hại tới môi trường các nước khác; việc xoá bỏ sự nghèo đói và giảm sự chênh lệch về mức sống trên phạm vi toàn thế giới…là “không thể thiếu được” đối với sự phát triển bền vững.
- Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21): Kế hoạch hoạt động toàn cầu nhằm khuyến khích sự phát triển bền vững. Agenda 21 là một khung kế hoạch chung để thiết kế các chương trình hành động, bao gồm những mục tiêu, hoạt động và phương tiện nhằm đạt được sự phát triển bền vững thế giới trong thế kỷ 21. Agenda 21 đưa ra những định hướng cho phát triển bền vững; thể hiện những vấn đề hiện tại và những thách thức mà thế giới sẽ phải đối mặt trong thế kỷ 21. Agenda 21 khẳng định một cách tiếp cận mới đối với chiến lược phát triển khi coi các vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là có mối quan hệ phụ thuộc nhau, thúc đẩy lẫn nhau và yêu cầu mọi quốc gia phải có cách nhìn toàn diện và dài hạn về sự phát triển.
- Bản tuyên bố các nguyên tắc về rừng: Hướng tới sự quản lý bền vững hơn nguồn lợi rừng trên toàn thế giới. Đây là “sự thoả thuận toàn cầu đầu tiên” về vấn đề rừng. Các điều khoản chủ yếu bao gồm “tất cả các nước, nhất là các nước phát triển, phải tiến hành mọi biện pháp để “làm xanh thế giới” bằng cách trồng lại và bảo vệ rừng”; “các quốc gia có quyền phát triển rừng phù hợp với nhu cầu kinh tế xã hội của mình”; và cần phải dành những khoản tài chính hỗ trợ cho các nước đang phát triển lập các chương trình bảo vệ rừng; khuyến khích những chính sách thay đổi về kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, ba văn kiện này không có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý mà chỉ là những cam kết chính trị cao nhất của các quốc gia thành viên. Ngoài ra, tại Hội nghị này, hai công ước có sự ràng buộc về mặt pháp lý cũng đã được đưa ra để các quốc gia quan tâm ký kết, đó là Công ước về biến đổi khí hậu và Công ước về đa dạng sinh học. Cùng thời gian đó cũng diễn ra các cuộc đàm phán về Công ước chống sa mạc hoá. Công ước này được đưa ra cho các nước ký kết vào tháng 10 năm 1994 và có hiệu lực từ tháng 12 năm 1996. Đây chính là những văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên thể hiện rõ nét mục tiêu phát triển bền vững.
Với ý nghĩa là văn kiện khẳng định nguyện vọng của nhân loại phát triển theo một cách thức đảm bảo kết hợp hài hòa các bộ phận cấu thành sự phát triển bền vững, Chương trình hành động 21 và các văn kiện Rio khác đã tạo ra những bước đệm quan trọng để đi đến một thế giới bền vững về mặt xã hội, kinh tế và môi trường. Tuy chỉ mang tính chất khuyến nghị nhưng những văn bản đó đã đóng vai trò quan trọng cho việc xây dựng một khung pháp lý, đặt nền móng cho sự phát triển của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia trong lĩnh vực này. Sau Hội nghị Rio de Janeiro, Agenda 21 tiếp tục được thảo luận và thực hiện ở quy mô toàn cầu thông qua một số cuộc hội nghị thượng đỉnh: Hội nghị về Phát triển xã hội (tháng 3/1995), Hội nghị về Các thành phố (1996), các hội nghị thế giới về Quyền con người, Phụ nữ, Dân số, Khí hậu và sự nóng lên toàn cầu, Lương thực…Các hội nghị nói trên đã làm cho các Chính phủ, các tổ chức và nhân dân chú trọng hơn tới phát triển bền vững, đặc biệt tới các vấn đề xã hội, văn hoá trong sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Nhiều nước đã xây dựng Agenda 21 của mình, lấy đó làm khuôn khổ chung để hoạch định các chiến lược và kế hoạch phát triển cụ thể của đất nước và tổ chức các chương trình hành động quốc gia.
Tiếp theo đó, từ 23 đến 27 tháng 6 năm 1997, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức khoá họp đặc biệt về môi trường tại New York. Khoá họp này thường được biết đến dưới cái tên Hội nghị thượng đỉnh Trái đất + 5 (Rio+5), để xem xét và đánh giá tiến trình thực hiện các cam kết tại Hội nghị Rio, đặc biệt là việc thực hiện Chương trình nghị sự 21. Tại đây, một lần nữa, tất cả các nước dù là phát triển hay đang phát triển đều nhận thức sâu sắc và thấy rõ hơn thách thức của vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, coi môi trường không chỉ gắn với phát triển mà còn là sự sống còn của loài người, từ đó nâng cao trách nhiệm của từng nước và cả cộng đồng quốc tế. Các nước phát triển đã buộc phải khẳng định các cam kết Rio-92 về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững một cách cụ thể hơn (tuy ở những mức độ khác nhau) trước thực trạng suy thoái môi trường. Các quốc gia mong muốn khắc phục tình trạng trì trệ về bảo vệ môi trường trong những năm qua và đẩy mạnh hơn việc thực hiện Chương trình nghị sự 21 của Hội nghị Rio.
Tháng 8 năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững (được gọi tắt là “Hội nghị Rio+10”) sẽ được tổ chức ở Johannesburg (Nam Phi). Hội nghị sẽ xem xét kết quả 10 năm thực hiện Tuyên bố chung Rio và Agenda 21 về phát triển bền vững.
3. Phát triển bền vững ở Việt Nam
Việt Nam được coi là một trong những nước có quan tâm tới môi trường và phát triển bền vững khá sớm. Ngay từ những năm 80, khi các hoạt động kinh tế của đất nước có những kết quả tiến bộ, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu quan tâm tới công tác điều tra tài nguyên, tìm hiểu các biện pháp khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên, thông qua chương trình nghiên cứu “Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường” năm 1981. Nhưng có thể nói năm 1986 mới là điểm khởi đầu cho kế hoạch và hành động của Chính phủ Việt Nam đối với việc sử dụng lâu dài các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, thông qua việc công bố CHIẾN LƯỢC BẢO TỒN QUỐC GIA, trên cơ sở nhận thức rõ về vị trí chủ đạo của văn bản “Chiến lược bảo vệ toàn cầu” do IUCN đề xuất.
Sau hai mươi năm phát triển theo mục tiêu bền vững, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của người dân, thực hiện ổn định chính trị - xã hội và bảo vệ môi trường. Thực hiện phát triển bền vững, chúng ta có những thuận lợi nhất định, nhưng bên cạnh đó, con đường phía trước cũng không ít khó khăn.
Chúng ta đều biết rằng phát triển bền vững yêu cầu một chương trình hành động tổng hợp của con người, với sự tham gia của cả Chính phủ cũng như mọi tổ chức và cá nhân. Xuất phát từ đặc điểm đó, phát triển bền vững ở Việt Nam, trong phạm vi luận văn này, chỉ được nghiên cứu thông qua chính sách, pháp luật có liên quan và một số khía cạnh thực tế của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trước mục tiêu này.
3.1. Về chính sách và pháp luật
Như đã nêu trên, CHIẾN LƯỢC BẢO TỒN QUỐC GIA năm 1986 chính là điểm mốc đánh dấu sự phát triển của hệ thống chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Hệ thống này không ngừng được xây dựng và kiện toàn trong suốt thời gian qua.
Chiến lược năm 1986 tập trung vào bốn nhiệm vụ ưu tiên là: Ổn định dân số; Phục hồi và quản lý rừng; Thành lập Uỷ ban quốc gia về tài nguyên và môi trường; Xây dựng các luật, các quy định về sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong bốn nhiệm vụ đặt ra, chúng ta mới chỉ thực hiện được duy nhất việc ban hành một số văn bản pháp luật. Việc ban hành các văn bản pháp luật về môi trường từ những năm cuối của thập kỷ 80 (Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989, Pháp lệnh về thu thuế tài nguyên 1989, Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản 1989…) cũng như trong những năm tiếp theo (Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991, Luật Đất đai 1993, Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật 1993…) được coi là một bước tiến mới trong chính sách môi trường của Việt Nam, đặc biệt là việc ban hành Luật bảo vệ môi trường, có hiệu lực từ 10/1/1994. Có thể nói đây là thời điểm mà công tác bảo vệ môi trường của Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản có liên quan tới bảo vệ môi trường đã được định nghĩa; các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân được ràng buộc bằng biện pháp pháp lý.
Năm 1991, Chính phủ chính thức phê duyệt KẾ HOẠCH QUỐC GIA VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN LÂU BỀN 1991-2000. Bản kế hoạch này chứa đựng những ưu tiên môi trường cơ bản nhất, thể hiện quyết tâm của Việt Nam vì sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước, sự hưởng ứng của Việt Nam với cộng đồng quốc tế vì sự ổn định, phồn vinh của toàn thế giới. Rõ ràng phúc lợi kinh tế của người dân Việt Nam phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và các hệ sinh thái quan trọng, nhưng đồng thời sự phát triển đô thị, phát triển công nghiệp cũng phải thống nhất với việc quản lý môi trường. Tuy nhiên, bản Kế hoạch còn có nhược điểm là chưa xem xét đến ảnh hưởng của cơ chế thị trường, chưa phân tích ảnh hưởng của chính sách quản lý kinh tế đến môi trường và cũng vì vậy mà chưa được gắn với chiến lược kinh tế - xã hội.
Việt Nam cũng đã phê chuẩn nhiều công ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực môi trường nhưng thể hiện mối liên quan trực tiếp nhất tới vấn đề phát triển bền vững chính là việc phê chuẩn Công ước đa dạng sinh học năm 1994. Sau đó, Việt Nam ban hành KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG ĐA DẠNG SINH HỌC (BAP), được Chính phủ phê duyệt năm 1995, thể hiện cam kết trách nhiệm của Việt Nam sau khi ký kết Công ước. Đây là văn bản có tính pháp lý định hướng cho hành động của Việt Nam trong việc bảo vệ đa dạng sinh học ở tất cả các cấp, các ngành và đoàn thể; văn bản này cũng thể hiện nhận thức mới của Việt Nam về vai trò của đa dạng sinh học đối với phát triển bền vững.
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà khoa học và các cấp chính quyền Việt Nam đang tập trung nỗ lực để xây dựng và hoàn thiện CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC, cũng như các chiến lược chuyên biệt trong từng lĩnh vực cụ thể, do các Bộ ngành phối hợp tiến hành (có thể kể đến Chiến lược phát triển truyền thông môi trường, Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn…), phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cùng với các biện pháp ngắn hạn tăng cường năng lực quản lý môi trường ở các cấp và phát triển bền vững kinh tế và xã hội. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang tiến hành nghiên cứu xây dựng Agenda 21 với tư cách là một khung chiến lược, định hướng dài hạn cho phát triển bền vững. Bên cạnh các quan điểm chung, Agenda 21 của Việt Nam phải bao gồm các phương hướng cụ thể cho từng lĩnh vực trọng điểm về kinh tế, xã hội, môi trường và phải nêu lên được những chương trình hành động cần ưu tiên cao nhất trong các Kế hoạch. Agenda 21 này sẽ là sự rà soát và tổng hợp các chiến lược phát triển hiện có dưới lăng kính của quan điểm phát triển bền vững. Đây được coi là một trong những hoạt động nhằm đẩy mạnh việc thực hiện cam kết Rio trong những năm tới của Việt Nam.
3.2. Về một số mặt kinh tế - xã hội
Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng vẫn đảm bảo phát triển ổn định, bền vững, Việt Nam cần nhận thức sâu sắc những thách thức to lớn đang đặt ra trên con đường phía trước. Thực tế, nghèo đói, đông dân và sự hạn chế trong nhận thức chính là những cản trở chủ yếu.
Nhận thức được điều đó, Nhà nước chủ trương thực hiện xóa đói, giảm nghèo như một ưu tiên cao nhất, và theo đuổi mục tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nhờ đó, nền kinh tế đã có những bước tiến vượt bậc và đang trong quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, các hoạt động có khả năng gây ô nhiễm môi trường từ đó cũng có xu hướng tăng lên đáng kể. Nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như dầu khí, vật liệu xây dựng,…được chú trọng đầu tư. Cùng với phát triển công nghiệp là việc tăng số lượng và quy mô các khu công nghiệp, khu chế xuất; quá trình đô thị hóa cũng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Có thể nói, hiện nay, tăng trưởng ở các thành phố đã vượt quá năng lực của các cơ sở hạ tầng hiện có. Tắc nghẽn giao thông, sự quá tải ở các khu dân cư, sông hồ bị ô nhiễm và vấn đề chất thải đô thị, là những dấu hiệu dễ nhận thấy nhất
III/Các điều kiện để phát triển du lịch ở thị xã Sầm Sơn
1/Điều kiện về tài nguyên du lịch
a-Tài nguyên thiên nhiên:
Một quốc gia, một vùng dù có nên fkinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội phát triển cao, song nếu không có những tài nguyên du lịch thì cũng không thể phát triển được du lịch. Tiềm năng về kinh tế là vô hạn, song tiềm năng về tài nguyên du lịch là có hạn, nhất là đối với tài nguyên thiên nhiên- những các mà thiên nhiên chỉ ban cho một số vùng. Sầm Sơn may mắn được thiên nhiên ưu ái rất nhiều điều kiện thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên. Địa hình bằng phẳng, có bãi biển quá đẹp vói bãi cát trắng mịn, nứoc biển rát trong và sóng vỗ mạnh- tích hợp cho những chuyến nghỉ hè sảng khoái. Nhiều khách du lịch đã yêu thích nghỉ hè ở đây không chi vì có bãi tăm đẹp mà con bởi phong cảnh ở đây tao nên một không gian vô cùng sống động. Biển đẹp được boa bộc bởi dảy nui Trường Lệ gắn liền với câu chuyện vô cùng cảm động. Nói đến Sầm Sơn không chỉ có biển, núi mà ở nơi đây còn có Hòn Trống Mái- bất kỳ khách du lịch nào nghỉ mát ở đây đều không thể bỏ qua điêm tham quan hấp dẫn này….
b-khí hậu:
Khí hậu ở sầm Sơn Phải nói là quá tuyệt cho bất cứ chuyên nghỉ hè nào. Số ngày mưa tương đối ít vào thời vụ du lịch, tức là mùa du lịch ở đây tương đối khô đã làm tăng hiệu quả của chuyến đi nghỉ biển. đặc biệt, số ngày nắng trung bình trong ngày cao, nhiệt độ trung bình của không khí vào ban ngày và ban đêm không cao lắm. Vao buổi đêm không khí mang theo gió biển rất thoáng mát, thuận lợi cho việc đi dạo mát, giải trí, nghỉ ngơi và ngủ được ngon giấc. Nhiệt độ nước biển ôn hoà( khoảng 20 độ C).
c-Sầm Sơn có nguồn thuỷ, hải sản rất phong phú, đáp ưng đủ nhu cầu tgưởng thức hải sản của du khách khi đên tham quan nghỉ biển. Ví dụ: tôm, cá, mực… loại thực phẩm này luôn đảm bảo về độ tươi ngon đảm bảo sẽ làm hài lòng bất kỳ du khách nào.
2/Tài nguyên nhân văn:
Giá trị văn hoá, lịch sử, các thành tựu về kinh tế có ý nghĩa rất sâu sắc cho sự phát triển du lịch của Sầm sơn. Các giá trị lịch sử có sự thu hút đặc biệt như: chùa Độc Cước, chùa Cô tiên…thuờng thu hút khách du lịch nội địa muôn scó hiếu biết sâu sắc về lịch sử của dân tộc mình. Ngày nay, khách du lịch sdên tham quan nghỉ mát ở Sầm Sơn sẽ vô cùng ngạc nhiên về những đổi thay đổi to lớn của nền kinh tể ở đây. Điều đó được thể hiện khá rõ khi bộ mặt của thị xã du lịch này ngày càng khởi sắc, vừa mang dáng dấp hiện đại cua một khu du lịch nhưng vẫn thấp thoáng một cái gì đó rất linh thiêng của những truyền thuyết lịch sử được truyền từ đời này sang đời khác.
3/ Các điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ du khách
-Sự sàng của bộ máy quản lý ở địa phương
- sự có mặt của các tổ chức và các doanh nghiệp chuyên trách về du lịch.Phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp này bao gồm: Kinh doanh khách sạn. kinh doanh vận chuyển và kinh doanh các dịch vụ khác.
4/ Các điều kiện về kỹ thuật
-Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: hệ thống khách sạn, nhà hàng, phương tiện giao thông vận tải, các khu nhà giải trí, nhà hàng công viên, đường sá, hệ thống thoát nước, mạng lưới điện trong khu vực của cơ sở du lịch, rạp hát, rạp chiếu phim…Đã đáp ứng tương đối đày đủ nhu cầu ngày một tăng của du khách.
-Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội: là những phương tiện vật chất không phải do các tổ chức du lcịh xây dựng lên mà là của toàn xã hội. Hệ thống đường sá, công viên ở Sầm Sơn đã làm hài lòng các du khách. Ngoài ra, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện….đã phối hợp rất nhịp nhàng với nghành du lịch ở đây để tạo nên hiệu quả tốt nhất.
- Các điều kiện về kinh tế: việc đảm bảo các nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh du lịch luôn được đảm bảo, nghành du lịch luôn là nghành đi đàu về phương diện tiện nghi hiện đại và là nghành được Sầm Sơn luôn luôn đổi mới. Người dân ở đay luôn luôn tâm niệm du lịch là nghành nghề chinh của họ, nên họ có thái độ rất tốt trong việc phtá triẻn du lịch của địa phương. Luôn đảm bảo đầy đủ việc cung ứng vật tư hàng hoá cho tổ chức du lịch, luôn quan tâm đến chất lượng và giá cả của hàng hoá để có đủ sức cạnh tranh trên thương trường.
III/ Phương pháp nghiên cứu
Trong đề án em sử dụng các phương pháp sau:
Luận văn phân tích
Tổng hợp, so sánh, đối chiếu các sự việc, các quy định.
Các phương pháp logic pháp lý
Tham khảo một số tài liệu đã được công bố.
Phần II: Thực tiễn
I/ Đánh giá hoạt động du lịch ở sầm Sơn những năm qua
Những năm qua, Sầm Sơn luôn là địa điểm có sức hút mạnh mẽ đối với khách du lịch trong và ngoài nước, nhưng thực trạng dịch vụ du lịch trên địa bàn còn tồn tại một số vấn đề ở các lĩnh vực: Công tác quản lý, điều hành, tổ chức kinh doanh dịch vụ, trật tự đô thị, văn minh du lịch, vệ sinh môi trường, sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng... Để khắc phục những tồn tại đó, yêu cầu đặt ra đối với Sầm Sơn là phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng du lịch, dịch vụ, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư trong tổ chức hoạt động và phát triển bền vững du lịch Sầm Sơn.
Năm 2005 được xem là năm đột phá trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và môi trường văn hóa du lịch, hướng tới một Sầm Sơn Trật tự - Kỷ cương - Văn minh du lịch. Với du khách, hiện tại Sầm Sơn đã có một diện mạo hoàn toàn mới, cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp; Môi trường du lịch được cải thiện một cách đáng kể, việc bài trừ các tệ nạn xã hội được phát động trong toàn dân, văn hóa, văn minh được đề cao trong hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Năm 2006, là năm đầu tiên thực hiện chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa mà Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI đề ra. Do vậy, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan đơn vị và các tổ chức kinh doanh du lịch, dịch vụ trên địa bàn thị xã đã triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các hoạt động nằm trong chương trình “Tăng cường nâng cao chất lượng du lịch Sầm Sơn”, phấn đấu trong năm nay đón được 748.000 lượt khách, doanh thu đạt 205 tỉ đồng, tăng 17% so với năm 2005. Đó thực sự là một tín hiệu đáng mừng cho nhịp độ phát triển du lịch ở đây.
II/ Sầm Sơn kỷ niệm 100 năm du lịch.
Mùa hè năm 2007, du lịch Sầm Sơn tưng bừng kỉ niệm sự kiện trọng đại dang thu hút rất nhiều sự quan tâm của du khách cả nước. Đó là sự kiện 100 năm du lịch Sầm Sơn- một mốc lịch sử đáng nhớ. Vì vậy, hiện nay, thị xã Sầm Sơn đang tích cực làm công tác chuân bị để chào đốn sự kiện này. Đây có lẽ là cột mốc quan trọng nhất để có thể đánh giá sự thay đổi nhanh chóng trên mảnh đất này. Chính quyên fở đây đang thực hiện những chương trình hành động tích cực tác động vào môi trường cảnh quan, xây dựng lai hệ thống đường xá, tu bổ các khu di tich lịch sử, danh lam thắng cảnh….
Ngay từ đầu năm, các cấp lãnh đạo và nhân dân Thị xã đã thực hiện các hoạt động có hiệu quả làm thay đổi bộ mặt du lịch của Sầm Sơn:
Thứ nhất, làm chuyển biến căn bản về nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về yêu cầu cấp bách phải khắc phục những tồn tại yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, trật tự đô thị, trật tự kinh doanh. Đặc biệt là văn hóa ứng xử với khách du lịch; vệ sinh môi trường và các tiêu cực khác có tác động xấu đến môi trường phát triển du lịch bền vững. Đồng thời, phối hợp với các ngành chức năng tổ chức triển khai tuyên truyền sâu rộng tới mọi đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh du lịch và cộng đồng dân cư tại địa phương về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lí hoạt động du lịch.
Thứ hai, làm tốt công tác tổ chức, quản lý, văn minh du lịch bằng cách sắp xếp chỉnh trang lại các điểm bán hàng trên các tuyến đường, bố trí lại các bãi đỗ xe, nghiên cứu xây dựng một khu phố giới thiệu văn hóa ẩm thực xứ Thanh; Phối hợp với Sở Du lịch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho người dân tham gia làm dịch vụ du lịch, tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức cũng như chất lượng phục vụ, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ du lịch. Chú trọng công tác vệ sinh môi trường trên bãi biển, đường phố và công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh... Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, kịp thời phát hiện xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm các qui định của Nhà nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, nề nếp, kỷ cương...
Thứ ba, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho du khách, xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong từng công sở, đơn vị, trong từng quán hàng, đảm bảo tốt môi trường trật tự an ninh cho du khách. Tập trung phát hiện và giải quyết dứt điểm các hiện tượng cò mồi, ép giá, chạy bám theo khách để bán hàng. Tổ chức lực lượng con người và phương tiện hợp lý, tập huấn nghiệp vụ cứu hộ trên các bãi tắm và trên các tàu cứu hộ, phối hợp chặt chẽ với Trung tâm y tế thị xã làm tốt công tác bảo hiểm bãi tắm, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro xảy ra với du khách.
Với những nỗ lực của các cấp chính quyền và nhân dân Thị xã Sầm Sơn, bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, Sầm Sơn đã có một diện mạo hoàn toàn mới - một Thị xã du lịch biển văn minh, an toàn đối với du khách.
III/ Nét văn hoá độc đáo.
Đến với Sầm Sơn, du khách không thể không thể không lên thăm viến đền Độc Cước, chùa Cô Tiên. Có thể chính đền chùa với nền văn hoá xưa con tiềm ẩn trong dân gian ở đay đã khiến Sầm Sơn trở nên linh thiêng, huyền bí, hấp dẫn du khách.
Chỉ riêng với sự tích đền Độc Cước với tín ngưỡng thờ thần đã là một kho cổ tích hấp dẫn. Đền Độc Cước có một vị trí tuyệt đẹp xét cả ở phối cảnh không gian, cả việc thuận tiện cho du khách thăm viếng. đền nằm ngay trên móm núi nhô ra biển của hòn Cổ Giải thuộc dãy núi Trường Lệ. Từ biển nhìn vào, đền như một ngọn hải đăng, một trạm gác tiền tiêu, một người khổng lồ, lưng tựa vào núi, ngực hướng ra khơi xa.
Trèo lên 50 bậc đá, du khách sẽ đến được khu đền chính. Từ đây, phóng tầm mắt về phía đông là biển xanh ngắt tân chân trời. Chếch phía bắc, sát ngay chân núi là bãi tắm phẳng đẹp, thơ mộng. Du khách nên thăm viếng theo trình tự: Tiền đường, Trung tẩm, hậu tẩm, Cấm cung. Ngôi Tiền đường rông 5 gian, trong có bàn thờ, ngoài ra còn có giá đỡ trống, giá binh khí như dùi đồng, phủ việt, gươm trường, giáo dài…Tiếp theo Tiền đường là Trung tẩm gồm 3 gian nhà. Tiếp nữa là hậu cung, bên trong bày các pho tương phật. Toàn bộ khu vực được liên kết với nhau theo hình chữ công( I). Trong Hậu cung, có thờ ngai vị thần Độc Cước, một tượng thần được tạc nửa người. Gian sau Hậu cung có cửa đóng kín gọi là Cấm cung. Cấm cung mỗi năm chỉ mở một lần và chỉ ông Từ, cụ Tiên chỉ của làng mới được vào. Cấm cung có xây bệ gạch, có khám bằng ggõ sơn son thếp vàng, trên đặt thần vị ghi 4 chữ: chu minh thánh vị. Ngoài khu trên, chếch về phía bắc có lầu Nghình Phong, phía nam có phủ.
Trong ký ức dân gian cũng như trong sách vở không ghi rõ đền được xây tư khi nào. Tuy nhiên, trong dân gian có truyện kể liên quan đến đời Trần. Số là, vua Trần đem quân đi đánh giặc phía nam qua vùng này, có một vị thần một chân báo mộng sẽ giúp vua đánh giặc. Giặc tan, nhớ lời hứa, vua về cho xây đền để quanh năm dân chúng hương khói thờ thần. Lại có truyện kể việc xây đền liên quan đến cây gỗ thần từ ngoài biển dạt vào từ thời vua Lê Thánh Tông. Chắc chắn, đó chỉ là truyền thuyết trong dân gian nhằm thần thánh hoá ngôi đền.
Từ xưa, đền Độc Cứơc đã là một trong 3 điểm lễ hội lớn của vùng Sầm Sơn. Tuy nhiên lễ hội đên Độc Cứoc chủ yếu là tế lễ, dâng hương chứ không có các trò diễn dân gian như các lễ hội khác, Chính vì vậy, rước kiệu trở thành hội vui và độc đáo ở sầm Sơn. Khi rước kiệu ở lễ hội vùng này thì kiệu Chị đi trước, kiệu Em đi sau.Các cụ trong vùng giải thích: Chị ở đay là bà Triều, con một vua Lý đi lánh nạn mà dạy vào làng Triều Dương. Bà đem nghề dệt vải truyền cho dân, nên khi chất được phong làm Thành Hoàng. hần Độc Cước muốn hỏi bà làm vợ, bà ra điều kiện: hai người thi tài, nếu thần Độc Cước thắng bà sẽ ưng làm vợ, nếu thua bà sẽ gọi là chị. Thần Độc Cứoc nghe theo. Bà Triều thì xé nát tấm lụa rồi dệt lại như mới. Thần Độc Cước thì đập nát con trâu rồi nặn lại. Kết quả, khi bà Triều dệt xong tấm lụa, thì thần Độc Cước mới chỉ nặn xong đầu con trâu. Thần Độc Cước chịu làm em nhưng vẫn cứ tiếc rẻ., vì vậy thỉnh thoảng kiệu Em lại chạy lên ngó nghiêng sang kiệu Chị. Cũng vì vậy, lễ vật cho lễ hội bà Triều là một tấm lụa trắng, còn lễ vật thần Độc Cước là một đầu trâu. Lễ hội đền Độc Cước chủ yếu diễn ra vào mùa xuân, lễ mở rất to. Vào những ngày đầu xuân, rất nhiều du khách ở khắp nơi đã chon đền Độc Cước làm nơi dừng chân để cầu phúc cho một năm gặp nhiều may mắn và hạnh phúc. Người dân ở Sầm Sơn ngày nay vẫn duy trì lễ hội này và kèm theo các lễ hội khác như: lễ hôi bánh chưng bánh dày…Chỉ có lễ cầu mưa diễn ra vào ngày 13 tháng năm âm lịch, tiếc rằng cho đến nay lễ hội này chưa được khôi phục.
Hiện nay du khách đến Sầm Sơn còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một khu giả sơn, ngay dưới chân núi nơi có đền Độc Cước. Khi tham quan khu giả sơn này chắc bạn sẽ ngạc nhiên về vẻ đẹp tuyệt vời của nó- đó là một công trình nghệ thuật thu nhò hình ảnh của Sầm Sơn với núi non và biển hồ thơ mộng. Không những đẹp về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 67652.DOC