Đề tài So sánh hoạt động thuyết minh của hướng dẫn viên du lịch có và không sử dụng ca dao

MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Đối tượng nghiên cứu 2

3. Phạm vi nghiên cứu 2

4. Mục đích và ý nghĩa của đề tài. 2

5. Phương pháp nghiên cứu 3

6. Bố cục của đề tài: 3

PHẦN II: NỘI DUNG 4

CHƯƠNG I: CA DAO VIỆT NAM - NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT. 4

1.1.Khái quát về ca dao 4

1.2. Các đặc điểm: 5

CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU SO SÁNH MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP HOẠT ĐỘNG THUYẾT MINH CỦA HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH CÓ VÀ KHÔNG SỬ DỤNG CA DAO 7

2.1. So sánh theo các tình huống giả định 7

2.1.1.Tình huống 1: 7

2.1.2.Tình huống 2: 8

2.1.3.Tình huống 3: 9

2.1.4.Tình huống 4: 10

2.1.5.Tình huống 5: 11

2.1.6.Tình huống 6: 12

2.1.7.Tình huống 7: 13

2.1.8.Tình huống 8: 14

2.1.9.Tình huống 9: 15

2.1.10.Tình huống 10: 16

2.2. Phân tích bảng 17

2.2.1. Tình huống 1: 17

2.2.2.Tình huống 2: 19

2.2.3. Tình huống 3: 20

2.2.4. Tình huống 4: 22

2.2.5.Tình huống 5: 23

2.2.6.Tình huống 6 24

2.2.7.Tình huống 7: 25

2.2.8.Tình huống 8: 26

2.2.9.Tình huống 9: 28

2.2.10.Tình huống 10: 29

2.3. Những tiện ích của ca dao trong hoạt động thuyết minh của Hướng dẫn viên du lịch 29

2.3.1. Tính thông tin 29

2.3.2. Tính minh họa 30

2.3.3. Tính hấp dẫn 31

2.3.4. Tính thuyết phục 31

2.4. Một số đề xuất về việc sử dụng ca dao trong bài thuyết minh của hướng dẫn viên du lịch. 33

PHẦN III: KẾT LUẬN 34

PHỤ LỤC 35

CA DAO NGƯỜI HƯỚNG DẪN VIÊN THƯỜNG SỬ DỤNG 35

1. Ca dao về lễ hội và các mốc thời gian. 35

2. Ca dao về các địa danh và đặc sản của từng vùng 37

3. Ca dao về các sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử 42

4. Một số bài ca dao khác 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO 46

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài So sánh hoạt động thuyết minh của hướng dẫn viên du lịch có và không sử dụng ca dao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g gánh nặng hai vai: Đèo Ngang nặng gánh hai vai Một vai Hà Tĩnh một vai Quảng Bình Bao năm bom dội nát mình Hoành Sơn vẫn giữ giáng hình cha ông Thời kỳ này Đèo Ngang là một trong những tụ điểm phải hứng chịu nhiều trận bom tàn phá, cày xới của thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ. Người ta tưởng chừng như Đèo Ngang đang "chảy máu" và có thể "ngã gục". Thế nhưng nó vẫn đứng đó hiên ngang bất khuất thách thức cùng kẻ địch. Để rồi hôm nay vết thương chiến tranh lành lại Đèo Ngang vẫn là chiếc "đòn gánh" gánh hai đầu Nam - Bắc đi lên. 2.1.10.Tình huống 10: Trên đường dẫn khách về dự hội chùa Keo - Thái Bình vào những ngày giữa tháng 9. Đoàn xe có dừng lại giữa đường, hai bên là những cánh đồng luá thẳng cánh cò bay. A B Nhắc đến Thái Bình là ta đã hình dung mảnh đất của chị Hai "năm tấn"- một "vựa lúa" của cả miền Bắc. Thời kỳ kháng chiến chốn Pháp, chống Mỹ cứu nước, đây thực sự đóng vai trò làm hậu phương vững chắc cung cấp lương thực thực phẩm chính cho tiền tuyến. Phương thức sản xuất canh tác lúa truyền thống của nông dân Việt Nam xưa vẫn chủ yếu là lao động chân tay, con nguời sử dụng trâu bò làm gia sức kéo, dùng tay để tát nước, nhổ mạ, gặt, hái … Để có được một bát cơm đầy dẻo thơm là cả một quá trình lao động vất vả mệt nhọc; mùa hạ thì Chiêm, mùa đông thì Mùa, không lúc nào nhàn rỗi. Chính trong điều kiện lao động như vậy đã rèn luyện cho người nông dân Việt Nam đức tính cần cù chịu khó, hay lam, hay làm. Chúng ta hãy nhìn ra những cánh đồng lúa mênh mông đang thời con gái kia, nó húa hẹn một vụ mùa mới đầy bội thu cho dân làng. Ngày nay khoa học kỹ thuật đã phát triển công việc nhà nông cũng bớt phần vất vả hơn trước, họ đã dùng máy cày, máy lừa, máy bơm nước thay bằng sức trâu, sức người như trước; năng suất lao động cũng tăng lên, đời sống người dân ổn định trù phú. Chúng ta đang đứng nơi đây chính là mảnh đất Thái Bình một thời nổi tiếng với cái tên "Chị Hai năm tấn", một "vựa lúa" của toàn miền Bắc, một hậu phương vững chắc chi viện cho miền Nam tiền tuyến. Thế nhưng để đạt được kết quả đó, là một sự nỗ lực lao động cần cù, chịu khó hết lòng vì tiền tuyến của nhân dân Thái Bình. Thời đó phương thức canh tác lúa vẫn theo kiểu truyền thống. Người ta quen với cái cảnh: Trên đồng cạn, dưới đồng sâu Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa. Hoạt động sản xuất chủ yếu vẫn là dùng sức người ( chân tay) và dùng trâu, bò làm sức kéo. Nhưng nhân dân ta vẫn rất siêng năng lao động, khuyên bảo nhau cùng làm việc: Quanh năm cấy hái cày bừa Vụ Chiêm thì hạ, vù Mùa thì đông Ai về nhắn chị em cùng Muốn cho sung sướng nghề nông phải cần Ngày nay khi khoa học kỹ thuật đã phát triển, công việc nhà nông cũng đỡ vất vả hơn, không còn nhiều cảnh: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Đời sống nhân dân Thái Bình hôm nay nói riêng cũng như nông dân Việt Nam nói chung đang thay da đổi thịt từng ngày, hứa hẹn sự phát triển đi lên cùng kinh tế đất nước. 2.2. Phân tích bảng Trong phần 2.1 tôi đã vừa đưa ra một số tình huống có thể diễn ra trong quá trình thực hiện hoạt động thuyết minh của Hướng dẫn viên. ở trong mỗi một tình huống đều có hai hướng giải đáp chính đó là: một đoạn thuyết minh không sử dụng ca dao và một đoạn thuyết minh có sử dụng các bài ca dao trong đó. Trên thực tế sức nặng của một bài ca dao có thể còn lớn hơn cả một đoạn thuyết minh dài như vậy. 2.2.1. Tình huống 1: Trên đường đi đến Thành Cổ Loa - kinh đô nước Âu Lạc thời An Dương Vương. Việc thuyết minh trên xe một cách khái quát về điểm Du lịch mà khách sắp đến là cần thiết và nên làm. Tuy nhiên, việc thuyết minh, đưa ra thông tin cho khách. Nếu chỉ ở dạng những con số, những câu nói kiển " tán" hời hợt như ở đoạn A thì thật sẽ không dễ gây được cảm tình đặt biệt cho du khách về điểm Du lịch mà họ lựa chọn ngay từ bước đầu. Hoạt động thuyết minh của Hướng dẫn viên tới một tuyến điểm Du lịch thường không phải là ngắn, mà là sự tổng thể của rất nhiều đoạn thuyết minh nối liền nhau. Trong tình huống này, đoạn thuyết minh là cánh cửa đầu tiên mở ra cho du khách về Cổ Loa, để rồi sau đó khi đến Cổ Loa, Hướng dẫn viên sẽ tiếp tục giới thiệu cho du khách những nơi cụ thể trong cụm di tích như về đền thờ An Dương Vương, về Mỵ Châu, giếng ngọc, các câu chuyện sự tích liên quan , các hiện vật còn để lại…Và nếu như ngay từ đoạn thuyết minh đầu tiên này, các " ấn tượng" không được khắc sâu và đậm nét thì sẽ gây "trở ngại" cho du khách trong việc tiếp nhận những thông tin sau này. Các nhực điểm của đoạn thuyết minh A sẽ được khắc phục khi hướng dẫn viên biết và sử dụng bài Ca dao sau đây vào trong đoạn thuyết minh như ở phần B: Ai về đến huyện Đông Anh Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục Vương Cổ Loa hình ốc khác thường Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây Đọc bài ca dao ta còn thấy ở đó toát nên một tình cảm, một sự mời gọi chân thành du khách thập phương đến với Loa Thành " Ai về đến huyện Đông Anh Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục vương" "Ai" ở đây có thể là bạn, là tôi, là tất cả mọi người hãy đến, hãy về với " Huyện Đông Anh". Tại sao lại dừng ở Đông Anh ? à bởi vì ở đây có " phong cảnh Loa Thành Thục Vương". Đây chính là kinh đô nước Âu Lạc thời kỳ dựng nước, nơi mà đã một thời là "trái tim" của cả dân tộc. Vậy bạn còn chần chừ gì nữa, hãy "ghé thăm" đi. Câu thứ ba của bài ca dao ngân lên " Cổ Loa hình ốc khác thường" như vẽ lên trước mặt chúng ta hình ảnh toà thành Cổ Loa sừng sững câu ca cũng đã nêu bật nên được đặc điểm của thành Cổ Loa đó là "hình ốc khác thường" và đã là " hình ốc" thì người ta dễ liên tưởng tới một toà thành được xây dựng lên bao gồm nhiều vòng thành bao bọc nhau theo hình xoáy chôn ốc…Đến câu kết của bài ca dao: " Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây". Nói nên sự trường tồn của Thành ốc Cổ Loa đó, tuy trải qua bao năm tháng nhưng vẫn còn dấu tích in đậm lại vẫn còn là minh chứng cho óc sáng tạo, khả năng quân sự tuyệt vời của ông cha vẫn còn là lời nhắn nhủ lại với con cháu bài học mất nước… Vậy đấy, chỉ với một bài ca dao nhỏ bé chỉ vẻn vẹn có bốn câu nhưng nội dung mà nó truyền tải và gợi tả là rất lớn. Vậy tại sao người hướng dẫn viên không sử dụng nó vào ngay bài thuyết minh đầu tiên của mình về Loa thành. Tôi chắc chắn rằng cũng chỉ với đoạn thuyết minh A, nếu người hướng dẫn viên đưa thêm bài ca dao này vào cũng đã đủ tăng thêm tính hấp dẫn cho bài nói. Bài ca dao sẽ là minh họa rất đắt cho bài nói, nó vừa truyền tải được thông tin cho người nghe, vừa làm tăng lên sắc thái uyển chuyển, nhịp nhàng, đậm chất thơ cho bài thuyết minh. 2.2.2.Tình huống 2: Tình huống hai xẩy ra là câu hỏi của một Du khách Việt Nam, có lẽ là lần đầu tiên ra thăm thủ đô Hà Nội, muốn thông qua người hướng dẫn viên để biết đôi điều khái quát về thủ đô Hà Nội - nơi mà mình chưa có dịp được tìm hiểu. Nhiệm vụ của người hướng dẫn viên ở đây là trả lời câu hỏi của du khách một cách khái quát những vẫn phải đảm bảo cung cấp đủ thông tin và gây được ấn tượng ban đầu cho du khách về thủ đô thân yêu của đất nước mình, nhân dân mình. ở đoạn thuyết minh A ( nội dung thuyết minh không sử dụng ca dao ), hình ảnh Hà Nội được nhắc đến rất mờ nhạt, nó dễ bị nhoà đi trong tưởng tượng của Du khách. Ai chẳng biết trước kia Hà Nội từng có cái tên là Thăng Long, từng là đô thị cổ của nước đại Việt. Nhưng cái hồn của cảnh vật, của sức sống bền bỉ của Hà Nội ở đây là gì thì người Hướng dẫn viên vẫn chưa nêu lên được, chưa gây ra được sức thuyết phục cho Du khách. Trong đoạn thuyết minh B, các thông tin mà Hướng dẫn viên đưa ra cho Du khách vẫn chưa thực sự là nhiều, nhưng nói như vậy cũng không phải là ít và cũng không phải là không để lại chút ấn tượng nào cho Du khách về Hà Nội. Trong đoạn thuyết minh này người Hướng dẫn viên muốn ngầm nói với Du khách rằng: Tôi cũng như bạn, trong trái tim chúng ta ai ai cũng đều hướng về thủ đô Hà Nội, nơi " trái tim thân yêu của tổ quốc". Chúng ta đều dành cho nó những tình cảm thân thương trìu mến nhất, nó thiêng liêng biết chừng nao!. ấy là bởi vì Hà Nội của chúng ta không phải là một đô thị mới phát triển có cái bề ngoài hoà nhoáng về kinh tế mà còn bởi vì cái yếu tố thiêng liêng, sức sống trường tồn " Nghìn năm văn vật" của Hà Nội cùng lịch sử dân tộc. Trải qua nhiều quá trình phát triển thăng trầm của lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam có lúc rời đô, chuyển đô song Thăng Long - mảnh đất thế rồng bay - Hà Nội vẫn được nhân dân ta - nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chọn làm thủ đô của đất nước mình. Và cùng với sự lựa chọn đó là sự gửi gắm niềm tin: Hà Nội sẽ mãi là một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá đầu não của cả nước. Dẫn đất nước đi lên cùng bạn bè năm châu bốn bể. 2.2.3. Tình huống 3: Tình huống 3 diễn ra trong bối cảnh người Hướng dẫn viên đang dẫn Du khách đi trẩy hội Đền Hùng - Phong Châu,Phú Thọ. Đây cũng có thể là những đoạn thuyết minh trình bày một cách khái quát về lễ hội Đền Hùng ngay trên xe nhằm giới thiệu cho khách cái nhìn tổng quan về lễ hội thiêng liêng này trước khi Du khách bước vào hội, nhập vào dòng người hành hương lên vãn cảnh đền. Đền Hùng là một khu di tích có rất nhiều ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam, nó được coi là vùng đất tổ thiêng liêng, vùng đất của dòng vua dựng nước - vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng là mội lễ hội có tầm vóc và quy mô quốc gia. Mỗi năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch nhân dân Việt Nam dù trong nước hay ở nước ngoài cũng đều nhìn về nơi quê cha đất tổ, hướng về nó với một sự ngưỡng vọng vô bờ. Du khách thập phương đều mong muốn được nhập mình vào dòng khách hành hương trẩy hội đền Hùng để tỏ lòng thành kính, nhớ ơn những người khai quốc, để cầu phúc cầu tài, để thưởng ngoạn cảnh đẹp và được tham dự các trò chơi dân gian đặc sắc, náo nhiệt… Trong đoạn thuyết minh A, ta thấy người hướng dẫn viên mới chỉ nêu ra, đưa ra một vài thông tin về lễ hội và các trò diễn theo một lối diễn giải bình bình, không tập trung nhấn mạnh vào một số thông tin quan trọng. Ví dụ như thông tin về ngày tổ chức lễ hội. Ngày tổ chức lễ hội ở đây là ngày 10 tháng 3 âm lịch chỉ được người Hướng dẫn viên nhắc đến một lần trong bài thuyết minh mà lại ở dạng diễn giải, "cào bằng", xếp cùng với các thông tin khác. Điều này chắc chắn sẽ không thể để lại ấn tượng đặc biệt và sâu sắc cho Du khách. Du khách có thể sẽ nhanh chóng quên đi những thông tin này ngay sau khi nghe chúng. Nhưng ở đoạn thuyết minh B, ta bắt gặp ở đây sự khôn khéo, tài tình của người Hướng dẫn viên khi mở đầu bài thuyết minh của mình bằng một bài Ca dao ngắn gọn, xúc tích: Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba Bài Ca dao đã nhấn mạnh cho người nghe mốc thời gian lễ hội diễn ra đó là ngày mồng Mười tháng Ba. Và đồng thời nó cũng nhấn mạnh người nghe một nghĩa vụ "nhớ" lấy ngày "giỗ Tổ" cho dù có "đi ngược về xuôi", cho dù có buôn bán trăm miền. Sau khi nhấn mạnh về thời gian lễ hội, không phải tốn nhiều công sức người Hướng dẫn viên tiếp tục hoạ về lễ hội. Đến với lễ hội Đền Hùng Du khách sẽ được tham gia các trò chơi dân gian, được thưởng ngoạn cảnh đẹp, được "sở cầu như ý"…Và minh chứng cho các thông tin vừa được nêu ra cũng chính là một bài Ca dao quen thuộc: Đu tiên mới dựng năm nay Cô nào hay hát kỳ này hát lên Tháng Ba nô nức hội đền Nhớ ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay Dạo xem phong cảnh trời mây Lô, Đà, Tam Đảo cùng quay đầu về Khắp nơi con cháu ba kỳ Kẻ đi cầu phúc người đi cầu tài Sở cầu như ý như ai Xin rằng nhớ lấy mồng Mười tháng Ba Thật tài tình và khéo léo, câu kết của bài Ca dao " Xin rằng nhớ lấy mồng Mười tháng Ba" cũng là một lời nhấn mạnh vào mốc thời gian của lễ hội. Vậy là mọi thông tin Hướng dẫn viên đưa ra đều được đơn giản hoá, nhịp điệu hoá khiến cho một Du khách dù có vô tâm đến đâu đi chăng nữa cũng không thể nào quên được hình ảnh lễ hội trong tâm trí mình. 2.2.4. Tình huống 4: Tình huống 4 diễn ra khi Hướng dẫn viên dẫn khách thực hiện tour Du lịch theo một lịch trình đã định sẵn từ Hà Nội đi Hạ Long. Trên đường đi có một Du khách trong đoàn đã yêu cầu Hướng dẫn viên giới thiệu trước cho mình một số đặc sản nổi tiếng của tỉnh Khánh Hoà bởi vì họ dự định sẽ có một chuyến Du lịch dài ngày vào đó trong tuần tới. Trong tình huống này, vai trò của bài ca dao ở đây sẽ được khẳng định rõ hơn. Người Hướng dẫn viên trong khi đi hướng dẫn du khách về một điểm du lịch đã được hoạch định từ trước, có thể họ sẽ có điều kiện tìm hiểu trước các thông tin về điểm du lịch đó. Nhưng trong chuyến du lịch, nhu cầu hiểu biết thông tin đối với khách là vô hạn, họ có thể hỏi Hướng dẫn viên về mọi điều có liên quan đến trong và ngoài tuyến điểm Du lịch đó. Và khi ấy, trong điều kiện kiến thức về những vấn đề mà khách hỏi không được chuyển bị trước, người Hướng dẫn viên đặc biệt là những người mới vào nghề hướng dẫn, kiến thức trau rồi ít; sẽ dễ vấp phải tình trạng "không trả lời được" rồi dẫn tới " nói lảng đi" hay " nói bịu" thông tin cho du khách. Điều này trong một chừng mực nhất định nào đó sẽ rất ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động hướng dẫn du lịch, làm suy giảm độ tin cậy của du khách vào Hướng dẫn viên. Lúc này kiến thức ca dao về các địa danh hay các vấn đề mà khách hỏi sẽ là cứu cánh hữu hiệu nhất giúp Hướng dẫn viên trả lời những câu hỏi của khác. Hay chí ít bài ca dao cũng là cơ sở để người Hướng dẫn viên phát triển ý và hoàn thành nhiệm vụ cung cấp thông tin cho khách. Trong đoạn thuyết minh B, bài Ca dao về đặc sản của Khánh Hoà đã thực sự là "chiếc phao" giúp cho Hướng dẫn viên hoàn thành tốt câu trả lời của mình một cách phù hợp và chặt chẽ (vừa nêu ra được tên đặc sản, vừa nêu ra được tên địa danh cụ thể). Ta phải đặt đoạn thuyết minh này trong mối tương quán so sánh với đoạn thuyết minh A ta mới thấy rõ được tầm quan trọng của bài Ca dao. Do không được chuẩn bị trước, Hướng dẫn viên có thể trả lời bâng quơ, hoặc nói bịa. Nếu khách tiếp tục hỏi về những địa danh cụ thể của tỉnh Khánh Hoà nơi có những đặc sản nổi tiếng ấy thì người Hướng dẫn viên chắc chắn sẽ gặp phải bế tắc, không giải đáp được những thắc mắc của Du khách. ở một chừng mực nhất định nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng bài thuyết minh của Hướng dẫn viên Du lịch. Ta thấy rằng trong quá trình thực hiện hoạt động Hướng dẫn Du lịch của Hướng dẫn viên có thể xẩy ra vô vàn những tình huống khác nhau, có thể được hỏi những câu hỏi về nhiều vấn đề khác nhau…Người Hướng dẫn viên không thể lường trước hết được. Trong những trường hợp này vốn Ca dao trong hành trang mang theo bên mình của Hướng dẫn viên sẽ luôn là những " cộng tác viên" đắc lực và hữu hiệu nhất giúp cho Hướng dẫn viên hoàn thành tốt nhiệm vụ thuyết minh Du lịch của mình. 2.2.5.Tình huống 5: ở tình huống 5, ta bắt gặp ở đây một câu hỏi về một khía cạnh trong văn hoá ẩm thực Việt Nam đó là nghệ thuật chế biến thức ăn của người Việt Nam. Câu trả lời tưởng chừng như đơn giản chỉ là sự liệt kê hay nêu nên một vài cách thức chế biến món ăn nào đó phổ biến ở Việt Nam. Song trên thực tế, người Hướng dẫn viên có thể chọn hướng trả lời chung chung về cách chế biến một vài loại thức ăn mà đi kèm với nó là một số loại gia vị đặc trưng cho từng món. Nhưng nếu chỉ kể, chỉ liệt kê ra như trong đoạn thuyết minh A, thì nghệ thuật ẩm thực Việt Nam thật quá giản đơn và khó có thể để lại ấn tượng cho du khách. Và chỉ với bài ca dao " Con gà cục tác là chanh…" được đưa vào bài dẫn, cũng sẽ làm tăng lên, nổi bật lên giá trị nghệ thuật trong việc chế biến món ăn của người Việt. Không nói thịt gà thì phải ăn với lá chanh, thịt lợn thì đi với hành, thịt chó ăn với riềng…Người Việt đã rất khôn khéo chuyển nhu cầu thị hiếu của con người thành nhu cầu thị hiếu của chính các loài vật: mỗi con một tính, đòi ăn một món ăn riêng, cách đòi cũng khác nhau. Chính vì thế nói về cách chế biến thức ăn mà nhân dân ta đã biến nó trở thanh một bài thơ kể chuyện loài vật đặc sắc, hấp dẫn. Tác dụng của bài ca dao ở đây không chỉ là đưa ra thông tin mà còn làm cho bài thuyết minh phong phú về giọng điệu, đạm chất thơ và nó dễ đi vào lòng người, để lại ấn tượng sâu sắc cho Du khách. 2.2.6.Tình huống 6 Tình huống 6 diễn ra ngay trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Hướng dẫn viên và Du khách cùng ngồi trên một chiếc thuyền nan xuôi theo con sông ra thăm trận địa cọc gỗ, ôn lại những kỷ niệm hào hùng về chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta chống phong kiến xâm lược phương Bắc. ở đoạn thuyết minh A, Hướng dẫn viên mới chỉ đơn thuần chỉ ra sông Bạch Đằng là một con sông cửa ải, con song lịch sử. Cũng chính tại nơi đây, trên con sông này đã lần lượt diễn ra 3 cuộc đại chiến của quân và dân ta chống phong kiến phương Bắc xâm lược, 3 lần chứng kiến những chiến tích vĩ đại của những anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm. Đó là: Ngô Quyền với trận địa cọc gỗ đánh tan quân Nam Hán (năm 938), Lê Hoàng (năm 981), Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và các danh tướng nhà Trần ( năm 1288). Thế nhưng trong tình huống này Hướng dẫn viên vẫn chưa làm nổi bật lên được vai trò cũng như đóng góp lịch sủ của cong sông Bạch Đằng trong các chiến thắng vang dội ấy. Với địa thế hiểm trở (chế độ thuỷ triều cường, nhiều gầm đá hiểm trở…) thuận lợi cho quân và dân ta làm "chiến tranh du kích" tiêu diệt sinh lực địch, con sông Bạch Đằng thực sự cũng trở thành một "dũng tướng" cùng tham gia đánh đuổi quân xâm lược Nguyên Mông. Góp phần quyết định to lớn trong các trận chiến xẩy ra trên sông Bạch Đằng. Các nhược điểm ở đoạn thuyết minh A có thể khắc phục được khi nội dung thuyết minh có sử dụng các bài Ca dao như ở trong đoạn thuyết minh B. Sâu nhất là sông Bạch Đằng. Ba lần giặc đến, ba lần giặc đi * Bạch Đằng Giang là sông cửa ải Tổng Hà Nam là bãi chiến trường Hai bài Ca dao tuy nhỏ về câu chữ mà không nhỏ về nội dung truyền tải, chúng đã góp phần làm nổi bật lên vai trò quan trọng của con sông trong các chiến tích hào hùng đó. Bạch Đằng - con sông cửa ải đã bao lần ngăn bước kẻ thù xâm lược, mọi kẻ thù dù có mạnh đến đâu đi chăng nữa cũng đều bị quân và dân ta đánh bật ra khỏi bờ cõi nưóc Nam khi tiến vào xâm lược nước ta. Con sông chính là bãi chiến trường đã từng chôn xác hàng vạn quân thù, nó là chứng tích hào hùng nhất, đời đời còn ghi chiến công của những người anh hùng dân tộc trong sự nghiệp chống giặc giữ nước. Với đoạn thuyết minh B, Hướng dẫn viên vừ có thể khắc phục được nhược điểm của đoạn thuyết minh A đó là đã nêu lên được, nhấn mạnh được vai trò và đóng góp lịch sử của cong sông Bạch Đằng đối với các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Đồng thời các bài Ca dao được sử dụng trong đoạn thuyết minh đã giúp cho Du khách có thể hình dung ra cái âm hưởng hào hùng và oanh liệt của các trận chiến năm xưa, để rồi ngồi đây sau gần một nghìn năm, chỉ cần nghe kể lại câu chuyện về các trận chiến, Du khách có cảm nhận như mình đang được chứng kiến tận mắt những trận chiến đó. 2.2.7.Tình huống 7: Nếu như trong tình huống 6, Hướng dẫn viên đưa khách đi thăm quan một di tích lịch sử, ôn lại không khí hào hùng của các trận chiến Bạch Đằng ác liệt năm xưa thì tình huống 7 diễn ra trong một bối cảnh hoàn toàn khác: Hướng dẫn viên đưa khách thực hiện chuyến Du lịch lên vùng núi Sa Pa đầy thơ mộng, nơi có nét văn hoá truyền thống Chợ Tình rất đặc sắc và đầy thú vị. Câu hỏi của Du khách đặt ra hướng người Hướng dẫn viên phải trả lời về cách tỏ tình của người Việt Nam truyền thống. ở trong đoạn thuyết minh A, Hướng dẫn viên cũng đã thể hiện được chiều sâu hiểu biết của mình về cách bày tỏ tình cảm nói chung cũng như cách tỏ tình nói riêng của người Việt truyền thống. Thế nhưng, vấn đề quan trọng nhất, trọng tậm nhất của câu hỏi cần được trả lời kỹ thì Hướng dẫn viên vẫn chưa làm rõ được. Đó là vấn đề: cách tỏ tình như thế nào và cụ thể ra sao ? Đến đoạn thuyết minh B, Hướng dẫn viên đã thực sự thể hiện được tài năng hiểu biết cũng như sự khôn khéo của mình khi nêu bật lên đưọc "phương tiện" tỏ tình chủ yếu của người Việt truyền thống - Ca dao và vị trí của Ca dao tình yêu trong cách bày tỏ tình cảm của người dân là vô cùng lớn. Tình yêu là thứ tình cảm đẹp nhất, thiêng liêng nhất của mọi thời đại, nó luôn được con người chân trọng, nâng niu, tận hưởng. Do đó nó là đề tài muôn thủa của các thể loại văn học (trong đó có thể loại văn học dân gian - Ca dao). Tình yêu ở đây được nam nữ " vịn " vào cảnh vật, vào các hình tượng nghệ thuật để diễn tả, bộc lộ. Ví như : Mận - Đào, lửa mới nhen, trăng mới mọc…Và đôi khi nó còn là một sự táo bạo đến bất ngờ "dải yếm" (Bác cầu dải yếm cho chàng sang chơi)…Ca dao tình yêu chính vì thế đã đi sâu vào trong đời sống người dân Việt Nam từ rất lâu đời, nó đã trở thành " cách thức" tỏ tình chính của nhiều đôi trai gái. Người Việt Nam truyền thống bày tỏ tình cảm với nhau, trai gái tỏ tình với nhau là dùng Ca dao; Ca dao thực sự là thứ " ngôn ngữ tâm hồn" hay nhất, hiệu quả nhất… 2.2.8.Tình huống 8: Tình huống 8 diễn ra trong bối cảnh Hướng dẫn viên đưa khách Du lịch vào thăm làng dệt lụa truyền thống Vạn Phúc (thị xã Hà Đông, Hà Tây). Lần theo mỗi bước chân của Hướng dẫn viên và Du khách là những tiếng lách cách nghe rất vui tai của những con thoi đập vào khung cử. Theo những bước chân đầu tiên bước vào làng, Hướng dẫn viên giới thiệu qua cho Du khách về làng Vạn Phúc và những sản phẩm lụa của làng. Trong đoạn thuyết minh A Hướng dẫn viên đã nêu lên được tên tuổi, tiếng tăm của lụa Vạn Phúc, khắp nơi xa gần đều biết đến đó là những tấm lụa Vân, The, Lĩnh, Gấm, Vóc…Để có được những tấm lụa chất lượng cao được nhân dân ưa dùng, tín nhiệm là công sức lao động của những bàn tay tài hoa các nghệ nhân nơi đây. Hướng dẫn viên cũng đã nêu rõ được sự nổi tiếng của Vạn Phúc có từ thời phong kiến, những sản phẩm lụa nơi đây đã được dùng như một thứ hàng hoá "sa sỉ" dùng để tiến vua, may quốc phục cho triều đình và cung cấp cho kinh thành Thăng Long…Cho đến nay lụa Vạn Phúc vẫn tiếp tục phát triển và ngày càng được nhiều người sử dụng biết đến. Tuy nhiên trong đoạn thuyết minh này, Hướng dẫn viên mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu rất khái quát, chung chung, chưa gây được gì thực sự ấn tượng cho Du khách về Vạn Phúc. Đến đoạn thuyết minh B, tiếng tăm của làng lụa Vạn Phúc được người Hướng dẫn viên nhắc đến đầu tiên. Lụa Vạn Phúc là loại lụa mà bất kỳ khi nào nhắc đến lụa Việt Nam người ta cũng nhắc đến cái tên Vạn Phúc: The La, lĩnh Bưởi, chồi Phùng Lụa vân Vạn Phúc, liễu vùng Mỗ bên Sản phẩm lụa Vạn Phúc rất được coi trọng và tín nhiệm sử dụng ngay từ thời phong kiến: Lụa này thật lụa cổ đô Chính tông lụa cống các cô ưa dùng Tất cả những sự nổi tiếng, tiếng tăm của lụa Vạn Phúc được lưu truyền trong dân chúng ấy là bởi chất lượng và những tính năng của lụa: áo lụa em mặc thêm thanh vẻ người Mọi thông tin Hướng dẫn viên đưa ra đều được Ca dao kiểm nghiệm và Ca dao chính là minh chứng xác đáng nhất công nhận chất lượng và danh tiếng sản phẩm lụa Vạn Phúc. Những bài Ca dao này đã góp phần làm cho bài thuyết minh thêm chặt chẽ hơn, thuyết phục hơn cho người nghe; tạo cho bài thuyết minh một giọng điệu mới, để lại ấn tượng sâu sắc cho Du khách: Ai về Vạn Phúc cùng anh áo lụa em mặc thêm thanh vẻ người 2.2.9.Tình huống 9: Tình huống 9 diễn ra trong bối cảnh đoàn xe Du lịch trên đường vào thăm cụm di tích Huế có dừng chân tại Đèo Ngang - Một con đèo nằm trên dãy Hoành Sơn đâm ngang ra biển. Trước cảnh đẹp thơ mộng đầy gợi cảm nơi đây, Hướng dẫn viên hướng Du khách tới một Đèo Ngang trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp - Mỹ ác liệt, một Đèo Ngang đối lập hoàn toàn với hiện tạinhằm tôn vinh thêm vẻ đẹp và sự hoành tráng của con đèo này. Trong đoạn thuyết minh A, người Hướng dẫn viên khi bước chân xuống xe đã thực hiện theo quy luật: Đầu tiên họ giới thiệu quang cảnh Đèo Ngang cho Du Khách, tận hưởng khung cảnh thơ mộng cùng Du Khách, tiếp theo người Hướng dẫn viên đặt Đèo Ngang trong lịch sử của một thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất. Đèo Ngang đã phải gánh chịu nhiều trận bom cày xới. Tuy nhiên, Đèo Ngang vẫn đứng vững trên dãy Hoành Sơn, vẫn giữ được vẻ đẹp "nguyên xơ" của mình. Song ở trong bài thuyết minh này Hướng dẫn viên vẫn chỉ dừng lại ở diễn giải, tả cảnh khiến cho Du khách khó có thể hình dung ra được hình ảnh Đèo Ngang mà Hướng dẫn viên nhắc tới. Đến đoạn thuyết minh B người Hướng dẫn viên cũng tuân theo quy luật trên hướng dẫn Du khách thưởng ngoạn cảnh đẹp Đèo Ngang trước và sau đó đưa Du khách vào một sự so sánh đối chiếu giữa Đèo Ngang hiện tại và Đèo Ngang cách đây 30 - 40 năm trước. Hình ảnh Đèo Ngang hiện tại có cảnh trí nên thơ, non nước trữ tình: " Cỏ cây chen đá, lá chen hoa" Nhưng hình ảnh Đèo Ngang cách đây 30 - 40 năm lại là một Đèo Ngang phải chịu nhiều "thương tật" nhất, là một tụ điểm ném bom của kẻ địch. Chúng muốn bẻ gãy ngăn chặn cong đường tiếp tế miền Bắc - miền Nam mà cụ thể là giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong điều kiện " gánh nặng hai vai" "bom giội nát mình" như thế nhưng Đèo Ngang vẫn trụ vững, vẫn giữ được " giáng hình cha ông"…Bài thuyết minh của Hướng dẫn viên giờ đây không còn là những lời thuyết giảng kể lể nữa mà là một bài phân tích so sánh. Điều đó làm cho người nghe dễ hiểu hơn, dễ tiếp thu hơn; làm cho con người và cảnh vật dễ giao hoà với nhau, hoà quện cùng nhau… 2.2.10.Tình huống 10: Tình huống 10 diễn ra trong bối cảnh Hướng dẫn viên đưa khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 90.doc
Tài liệu liên quan