Đề tài So sánh một số vấn đề về phòng chống tham những của Việt Nam-Singapore và kiến nghị

Đối với Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 các tội phạm vềtham nhũng

không được quy định trong l uật mà được quy định trong BLHS. Do đó đểxửlý các

hành vi tham nhũng được quy định ởĐiều 3 của Luật phòng, chống tham nhũng năm

2005 thì cần sửdụng BLHS và cụthểlà các quy định ởChương XXI Các tội phạm về

chức vụ. Đối với các tội danh được quy định ởChương XXI Các tội phạm vềchức vụ,

phạm vi tác động được quy định tại Điều 5 "BLHS được áp dụng đối với m ọi hành vi

phạm tội thực hiện trên lãnh thổnước Cộng hoàxã hội chủnghĩa Việt Nam" Đi ều 6

"Công dân Việt Nam phạm tội ởngoài lãnh thổnước Cộng hoàxã hội chủnghĩa Việt

Nam có thểbịtruy cứu trách nhiệm hình sựtại Việt Nam theo Bộluật này". Theo đó,

các hành vi phạm tội do công dân Vi ệt Nam thực hiện trên lãnh thổViệt Nam sẽbị xử

phạt theo BLHS, còn đối với các hành vi phạm tội được thực hiện ởnước ngoài có thể

bịtruy cứu trách nhiệm hình sựtheo BLHS. Đối với Luật phòng, chống tham nhũng

của Singapore tại Điều 37 "Các quy định của Luật này có hi ệu lực đối với m ọi công dân

Singapore, trong cũng như ngoài lãnh thổ, khi có tội phạm theo quy định của luật này

xảy ra bởi công dân Singapore bất kể ởtronghay ngoài lãnh thổ, thì người phạm tội sẽ

bị xửlý như tội phạm xảy ra trên lãnh thổSingapore", theo đó các hành vi tham nhũng

của công dân Singapore xảy ra ởtrong hay ngoài lãnh thổSingapore đều xửlý nhưtội

phạm trên lãnh thổSingapore.

pdf55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2342 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài So sánh một số vấn đề về phòng chống tham những của Việt Nam-Singapore và kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h về tham nhũng trong BLHS ở chương XXI mục A Các tội phạm về chức vụ. Vì bản thân tên luật hiện nay, đã bao hàm nội dung là chống tham nhũng, nhưng việc đó lại được quy định trong BLHS hiện hành và trong Luật phòng, chống tham nhũng hiện nay cũng không có các quy định về chống tham nhũng. Vì thế để thể hiện đúng nội dung của luật thì tên Luật phòng, chống tham nhũng của nước ta hiện nay nên sửa lại là Luật phòng ngừa tham nhũng hoặc có thể quy định các biện pháp chống tham nhũng vào trong Luật phòng, chống tham nhũng hiện nay. Đều đó, không có nghĩa là chúng ta loại trừ hoàn toàn các tội danh đó ra khỏi BLHS, mà chỉ những tội danh được cho là gắn liền với hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó thì Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore đã thể hiện được cả hai phương diện đó là phòng và chống tham nhũng. Ngoài việc phòng tham nhũng như trong luật quy định về việc kê khai tài sản, và chống tham nhũng như quy định tại điểm ii khoản b Điều 5 "bất kỳ thành viên nào, cán bộ hay nhân viên của cơ quan công quyền làm hoặc không làm một việc có liên quan đến một vấn đề gì đó hay giải quyết một việc có mục đích mà có liên quan đến cơ quan công quyền đó, sẽ bị coi là phạm tội và sẽ bị phạt tiền lên tới 100.000 đôla Singapore hoặc phạt tù tối đa 5 năm hoặc cả hai", nhưng không vì thế mà các tội tham nhũng không được quy định trong BLHS của Singapore cụ thể là tại Điều 165 hoặc từ Điều 213 đến Điều 215. 2.2 Đối tượng điều chỉnh của luật: Theo khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam năm 2005 quy định "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi", theo quy định trên thì tham nhũng chỉ có thể là hành vi của người có chức có quyền, do đó chủ thể của tội này chỉ có thể là người có chức vụ, quyền hạn và theo khoản 3 Điều 1 của luật này thì người có chức vụ quyền hạn là "Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó" và 24 theo quy định trên thì đó chỉ là những người có chức vụ quyền hạn phục vụ trong các cơ quan Nhà nước. Hay nói cách khác đối tượng điều chỉnh theo Điều 1 của Luật phòng chống tham nhũng chỉ dành cho những người có chức vụ quyền hạn trong khu vực công mà không đặt ra đối với những người có chức vụ quyền hạn ở khu vực tư nhân. Trong khi đó đối với Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng Singapore quy định "cá nhân" có nghĩa là bất kỳ người nào làm việc hay được thuê làm việc cho người khác, và bao gồm cả người được ủy quyền, quản lý và người thực hành, người phục vụ của Chính phủ hay ở bất kỳ tổ chức hay cơ quan công quyền nào, và theo tinh thần của Điều 8 bao gồm “những người làm hợp đồng và bất kỳ người nào đang làm hợp đồng được ủy quyền", theo đó thì đối tượng điều chỉnh của Luật phòng, chống tham nhũng Singapore là đối với tất cả mọi người bao gồm những người làm việc trong khu vực Nhà nước và cả những người làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước. Qua đó thấy được sự giống nhau của cả hai Bộ luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam và Singapore đó là phạm vi chịu tác động đầu tiên của tham nhũng là những người làm việc trong cơ quan Nhà nước. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, xuất hiện ở mọi quốc gia và không một quốc gia nào có thể tránh khỏi, chỉ khác nhau ở chỗ là ở hình thức và mức độ tham nhũng. Tham nhũng luôn gắn liền với một cá nhân có chức vụ và quyền hạn; và “chức vụ, quyền hạn” đó chỉ xuất hiện rõ nét nhất là ở những người làm việc trong cơ quan Nhà nước. Vì họ được Nhà nước giao cho một chức vụ và quyền hạn cụ thể, và họ đã sử dụng những quyền lực Nhà nước giao cho để làm lợi cho bản thân. Do đó, phạm vi tác động đầu tiên của cả hai Luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và Singapore đều chú trọng đến người có chức vụ quyền hạn ở các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, giữa phạm vi điều chỉnh của hai bộ luật này cũng có điểm khác nhau: Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore thì còn quy định thêm phạm vi tác động là đối với cả khu vực ngoài Nhà nước, còn Luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam lại không điều chỉnh các đối tượng này. Mặc dù biểu hiện rõ nét nhất của người có chức vụ quyền hạn là nằm ở cán bộ công chức trong khu vực Nhà nước, nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những người thuộc khu vực ngoài Nhà nước vẫn lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để làm lợi cho bản thân. Theo ThS Đinh Văn Minh “Đối với khu vực ngoài Nhà nước, mặc dù cũng đã có trường hợp xảy ra hành vi lợi dụng vị trí công tác để “rút ruột” tài 25 sản của tổ chức, doanh nghiệp, nhưng do đây không phải là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước nên đã xử lý bằng cơ chế khác, các hiện tượng này không phổ biến”24 và theo giảng viên Nguyễn Ngọc Trí khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội25 “về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội, người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở một số nước trên thế giới... Hàng năm, thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng... tham nhũng ở một số nước châu Phi, châu Mỹ Latinh, Đông Nam Á, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc... lại có quy mô lớn. Những vụ tham nhũng thường lên đến hàng trăm triệu đôla, thậm chí hàng tỷ đôla, gây khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế quốc gia, dẫn đến khủng hoảng chính trị”. Qua đó thấy được mặc dù tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay được xem là quốc nạn nhưng vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các cơ quan Nhà nước, do đó các nhà làm luật chỉ quy định phạm vi tác động của Luật phòng, chống tham nhũng của đất nước chỉ nằm ở trong phạm vi là đối với các cơ quan Nhà nước. Có thể coi phạm vi điều chỉnh Luật phòng, chống tham nhũng của nước ta hiện nay phù hợp với tình hình bây giờ, nhưng trong tương lai có lẽ sẽ cần có sự thay đổi. Tuy tham nhũng luôn được gắn liền với người có chức vụ, quyền hạn nhưng để có thể hạn chế tham nhũng phát sinh thì cần phải hạn chế mọi việc dẫn đến tình trạng tham nhũng, do đó cần phải mở rộng phạm vi tác động của Luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam vào cả khu vực ngoài Nhà nước. Để từ đó, chúng ta mới có thể chống tham nhũng được một cách toàn diện và triệt để, đồng thời hạn chế tình trạng tham nhũng phát triển. Một lý do nữa để trong tương lai, Việt Nam nên mở rộng đối tượng điều chỉnh của luật ra khu vực tư là vì tại Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng năm 2005 (sau đây gọi tắt là Công ước về chống tham nhũng) mà Việt Nam đã tham gia thảo luận và ký kết vào ngày 10 tháng 12 năm 2003, theo Công ước trên tại Điều 12 quy định các quốc gia thành viên Công ước, trên cơ sở luật pháp quốc gia, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các chuẩn 24 Th.s ĐINH VĂN MINH, Một số vấn đề về tệ nạn và những nội dung cơ bản của luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2006, tr. 87 25 26 mực kế toán, kiểm toán liên quan đến khu vực tư; ban hành các chế tài dân sự, hành chính hoặc hình sự có hiệu lực đối với các hành vi vi phạm. Theo đó các quốc gia thành viên phải ban hành pháp luật để phòng ngừa tình trạng tham nhũng ở khu vực tư. Do đó, ta thấy được việc quy định phòng ngừa tham nhũng ở khu vực tư nhân vẫn được các quốc gia xem trọng. Xét tại thời điểm đó thì quy định này thực sự không phù hợp với pháp lệnh chống tham nhũng, nhưng khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành, các nhà làm luật vẫn không nội luật hóa các quy định này vào trong luật. Thiết nghĩ các nhà làm luật nên sớm thêm đối tượng tác động của Luật phòng, chống tham nhũng bao gồm cả khu vực tư nhân. Mặc dù Singapore không tham gia ký kết Công ước về chống tham nhũng nhưng bản thân Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore lại chứa đựng một nguyên tắc quan trọng của pháp luật quốc tế trong vấn đề phòng, chống tham nhũng đó là quy định khu vực tư nhân. Điều này vừa giúp cho kết quả đạt được toàn diện và triệt để, vừa giúp cho việc chống tham nhũng được phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội. 2.3 Hiệu lực hồi tố: 2.3.1 Hiệu lực hồi tố về thời gian: Tại khoản 6 Điều 4 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 của Việt Nam "Người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác vẫn phải bị xử lý về hành vi tham nhũng do mình thực hiện", theo đó thì hành vi tham nhũng xảy ra trước khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có hiệu lực vẫn bị xử phạt. Và trong Hội nghị Tổng kết công tác ngành và phong trào thi đua năm 2006, triển khai công tác năm 2007 của Ngành Kiểm sát nhân dân Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh về vấn đề "Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp cần tập trung thực hiện tốt hơn nữa chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội", qua đó thấy được một trong những nguyên tắc được chú trọng là nguyên tắc không bỏ lọt tội phạm. Đối với người phạm tội, thì họ sẽ phải chịu chế tài đúng với hành vi phạm tội của họ; và trong trường hợp này là đối với tội tham nhũng. Tham nhũng hiện nay được coi là 27 quốc nạn, theo giáo sư Hoàng Tụy "Trong vòng vài mươi năm lại đây, ai có chút liêm sỉ đều coi tham nhũng là quốc nạn và nhiều vụ tham nhũng lớn cũng đã bị phanh phui và trừng trị, ấy thế mà mỗi năm, số vụ tham nhũng vẫn cứ tăng, không hề giảm mà các thủ đoạn tham nhũng ngày càng trở nên tinh vi hơn"26, do đó đối với các hành vi tham nhũng cần phải được nghiêm trị. Bên cạnh đó, trước khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có hiệu lực Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về vấn đề này như: Chỉ thị số 64-CT/TƯ ngày 10/10/1989 của Ban Bí thư (khoá VI) về lãnh đạo đấu tranh chống tham nhũng, ngày 26/6/1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Quyết định số 240-HĐBT tập trung đấu tranh chống tệ tham ô, hối lộ, cố ý làm trái chính sách, pháp luật và sử dụng lãng phí tiền bạc, tài sản của Nhà nước, Chỉ thị số 15-CT/TƯ ngày 20/11/1992 của Bộ Chính trị đã đề ra một số biện pháp để tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng và buôn lậu, Bộ Chính trị khoá VII đã có Nghị quyết số 14-NQ/TƯ ngày 15/5/1996 nêu chủ trương, mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp để đấu tranh chống tham nhũng, Bộ Chính trị lại có Chỉ thị số 10 ngày 14/1/1997 đề ra một số việc cần làm để tăng cường hơn nữa đấu tranh chống tham nhũng và tiến bộ nhất là pháp lệnh về phòng chống tham nhũng năm 1998 và nghị quyết 64 với 5 chương, 38 điều được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành nghị quyết, nhưng tệ nạn tham nhũng vẫn phát triển mạnh mẽ, một phần là do các điều luật được ban hành không chặt chẽ tạo nhiều kẻ hở để cho kẻ phạm tội lọt qua, và chúng ta cũng không có những hành động thực sự quyết liệt để phòng chống tham nhũng. Do đó tình trạng bỏ lọt tội phạm trong giai đoạn này xảy ra rất nhiều. Do đó với việc Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã quy định về việc xử phạt các hành vi tham nhũng xảy ra trước khi Luật có hiệu lực là phù hợp với hoàn cảnh. Bên cạnh đó thì trong 37 Điều của Luật phòng, chống tham nhũng Singapore thì lại không quy định về hiệu lực hồi tố đối với các hành vi tham nhũng. Một phần là do trước khi Luật phòng, chống tham nhũng Singapore 1960, các Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore trước đó, đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc chống lại các tội phạm tham nhũng và phòng ngừa tội phạm, do đó đã đưa Singapore trở thành một trong 4 nước có tỉ lệ tham nhũng thấp nhất thế giới do tổ chức tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International_TI) công bố vào năm 2008 với chỉ số tham nhũng là 9,2 theo thang bậc từ 0 (tham nhũng cao) đến 10 (không 26 28 tham nhũng) và chỉ sau 3 nước là Denmark, New Zealand, Sweden 27 nên trong Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore hiện nay không quy định. Nhưng đều đó không có nghĩa là Singapore sẽ không bỏ lọt tội phạm, vì Luật phòng, chống tham nhũng hiện nay của Sinagapore đã quy định thêm rất nhiều quyền hạn của nhân viên CPIB có quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài khoản ngân hàng của những kẻ tình nghi, của vợ con và những nguời thân thuộc của họ như tại khoản 1 Điều 15 "Người lãnh đạo hay điều tra viên chuyên ngành có thể bắt mà không cần lệnh bất kỳ cá nhân nào tham nhũng theo quy định của điều luật này hay đối với người mà việc tố cáo họ có cơ sở hay việc nghi ngờ đó là có căn cứ" 2.3.2 Hiệu lực hồi tố về không gian: Đối với Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 các tội phạm về tham nhũng không được quy định trong luật mà được quy định trong BLHS. Do đó để xử lý các hành vi tham nhũng được quy định ở Điều 3 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 thì cần sử dụng BLHS và cụ thể là các quy định ở Chương XXI Các tội phạm về chức vụ. Đối với các tội danh được quy định ở Chương XXI Các tội phạm về chức vụ, phạm vi tác động được quy định tại Điều 5 "BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" Điều 6 "Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này". Theo đó, các hành vi phạm tội do công dân Việt Nam thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam sẽ bị xử phạt theo BLHS, còn đối với các hành vi phạm tội được thực hiện ở nước ngoài có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS. Đối với Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore tại Điều 37 "Các quy định của Luật này có hiệu lực đối với mọi công dân Singapore, trong cũng như ngoài lãnh thổ, khi có tội phạm theo quy định của luật này xảy ra bởi công dân Singapore bất kể ở trong hay ngoài lãnh thổ, thì người phạm tội sẽ bị xử lý như tội phạm xảy ra trên lãnh thổ Singapore", theo đó các hành vi tham nhũng của công dân Singapore xảy ra ở trong hay ngoài lãnh thổ Singapore đều xử lý như tội phạm trên lãnh thổ Singapore. Đối với BLHS Việt Nam và Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore đều 27 29 quy định các hành vi tham nhũng xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia mình, sẽ bị xử phạt theo đúng các quy định tương ứng với mỗi quốc gia. Vì công dân của mỗi quốc gia khi phạm tội trên lãnh thổ của quốc gia mình đều phải chịu sự chi phối các quy định của pháp luật quốc gia đó. Nên đối với các hành vi tham nhũng xảy ra trên lãnh thổ của nước mình, thì các nước sẽ sử dụng các quy định trong luật để xử lý các hành vi tham nhũng. Nhưng đối với các hành vi phạm tội được thực hiện ngoài lãnh thổ của mỗi quốc gia thì đối với mỗi quốc gia có các biện pháp khác nhau. Đối với Việt Nam, khi có hành vi tham nhũng xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì có thể bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam. Tại Điều 6 của BLHS, dùng từ "có thể", do đó sẽ có một số trường hợp người có hành vi tham nhũng sẽ bị xử lý theo các quy định trong BLHS, và một số trường hợp khác sẽ không bị xử lý theo BLHS. Đương cử đó có thể là các trường hợp được giải quyết theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết, vì tại khoản 1 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 "Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế", do đó khi các hành vi tham nhũng xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam, nếu xảy ra ở quốc gia mà Việt Nam có ký kết về điều ước quốc tế, thì sẽ giải quyết theo điều ước quốc tế. Qua đó, ta thấy được các nhà làm luật đã thể hiện sự thống nhất giữa pháp luật thực định của nước Việt Nam với các Điều ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia ký kết. Nhưng đối với Singapore thì hành vi do công dân Singapore thực hiện ở ngoài lãnh thổ Singapore cũng xem như là phạm tội trên lãnh thổ Singapore mà không cần phụ thuộc vào các quy định trong điều ước quốc tế mà Singapore ký kết với các nước khác. Qua đó, ta thấy được đối với Singapore các hành vi tham nhũng do công dân của mình thực hiện ở trong hay ngoài nước đều không có sự phân biệt, và làm cho người phạm tội đều phải chịu các chế tài được quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng Singapore. 30 2.4 Thẩm quyền của cơ quan điều tra phòng, chống tham nhũng Ngày 28/8/2006, UBTVQH đã thông qua nghị quyết số 1039/2006/NQ- UBTVQH về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Theo nghị quyết này, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng là một cơ quan mới trong hệ thống chính trị của nước ta. Cơ cấu ban chỉ đạo theo Điều 6 của nghị quyết, gồm: a) Trưởng ban chỉ đạo: Thủ tướng Chính phủ. b) Phó trưởng ban chỉ đạo: Phó thủ tướng Chính phủ. c) 9 ủy viên: có thể chia thành các nhóm sau: (i) Các ủy viên giữ các chức vụ thực thi quyền lực hành pháp gồm: tổng thanh tra, bộ trưởng bộ công an, bộ trưởng bộ văn hóa thông tin, thứ trưởng bộ quốc phòng; (ii) Các ủy viên giữ các chức vụ thực thi quyền lực tư pháp gồm: viện trưởng viện kiểm sát tối cao, chánh án toà án nhân dân tối cao; (iii) Các ủy viên giữ các chức vụ trong cơ quan của Đảng gồm: phó chủ nhiệm Ủy ban Trung ương, Phó trưởng ban nội chính Trung ương. Theo như cơ cấu nêu trên thì cơ cấu tổ chức của ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng là một cơ cấu mạnh, không chỉ có khả năng chỉ đạo những vấn đề có tính vĩ mô về phòng, chống tham nhũng mà còn có khả năng trực tiếp giải quyết hoặc kiến nghị chỉ đạo chủ trương giải quyết những vụ việc cụ thể phát sinh trong quá trình thực thi nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh một cơ cấu tổ chức mạnh, ban chỉ đạo còn có được những quyền hạn khá rộng trong việc chống tham nhũng: Theo quy định tại khoản 1, Điều 5 của nghị quyết: “Ban chỉ đạo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền báo cáo về tình hình tham nhũng và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng tại cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; trong trường hợp cần thiết, yêu cầu báo cáo việc xử lý những vụ, việc tham nhũng cụ thể, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý thông tin về hành vi tham nhũng…” Bên cạnh đó, ban chỉ đạo cũng có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; xem xét trách nhiệm, xử lý đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng để xảy ra hậu quả nghiêm trọng, cũng như là yêu cầu tiến hành việc điều tra, thanh tra, kiểm toán đối với những vụ việc có biểu hiện tiêu cực. Trưởng ban chỉ đạo (Thủ tướng Chính phủ) có quyền trực tiếp ra quyết định 31 đình chỉ công tác đối với người giữ chức vụ Thứ trưởng và các chức vụ tương đương, chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực HĐND, chủ tịch, phó chủ tịch, các thành viên khác của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các chức vụ khác do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, cách chức khi người đó có dấu hiệu tham nhũng, gây khó khăn đối với hoạt động chống tham nhũng.28 Đây là một trong những quy định mới góp phần gia tăng thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (trưởng ban chỉ đạo) trong việc xử lý các cá nhân liên quan đến tội tham nhũng. Theo quy định tại khoản 4, Điều 5, Nghị quyết của chính phủ về thẩm quyền của ban chỉ đạo trung ương trong việc phòng, chống tham nhũng thì Thủ tướng Chính phủ có quyền trực tiếp ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với người giữ chức vụ chủ tịch, ủy viên thường trực HĐND. Mà theo quy định tại Điều 52, 53 của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì vấn đề này thuộc quyền hạn của UBTVQH: “UBTVQH có quyền phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực HĐND cấp tỉnh; hoạt động của HĐND cấp tỉnh chịu sự giám sát và hướng dẫn của UBTVQH; Thường trực HĐND cấp tỉnh chịu trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình lên UBTVQH”. Căn cứ vào các quy định đó, thì UBTVQH có thẩm quyền trong việc tạm đình chỉ đối với người giữ chức vụ Chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác chỉ đạo phòng, chống tham nhũng thì UBTVQH đã ủy quyền cho trưởng ban chỉ đạo. Bên cạnh đó, trưởng ban chỉ đạo còn có quyền tạm đình chỉ công tác đối với các chức danh thứ trưởng và tương đương, chủ tịch HĐND, UBND cấp tỉnh, sau đó mới báo cáo Bộ chính trị, Ban bí thư. Mà theo điều lệ quy định của Đảng thì trình tự, thủ tục là ngược lại. Quy trình mới về việc xử lý cán bộ có dấu hiệu tham nhũng, gây khó khăn cho hoạt động chống tham nhũng sẽ rút ngắn được nhiều thời gian, tạo điều kiện cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện nhiệm vụ của mình và thực chất bằng việc ban hành những quy định như trên, Bộ chính trị, Ban bí thư đã ủy quyền xử lý cán bộ cho trưởng ban chỉ đạo. Tuy nhiên, để thực hiện được sự đổi mới về quy trình xử lý cán bộ như trên thì cũng cần phải sửa đổi các văn bản của Đảng để thể hiện sự thống nhất cao giữa Đảng và Nhà nước trong việc phòng, chống tham nhũng. Thêm vào đó, ban chỉ đạo có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm 32 quyền tạm đình chỉ công tác đối với người giữ chức vụ lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở Trung ương theo quy định tại khoản 5, điều 5 của nghị quyết. Singapore không có ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng, thay vào đó là một cơ quan điều tra tham nhũng tách rời khỏi các cơ quan khác, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có quyền độc lập điều tra và ngăn chặn tham nhũng. Chính điều này sẽ giúp cho cơ quan không bị chi phối trong hoạt động điều tra. Chức năng và nhiệm vụ của CPIB là tiếp nhận và điều tra các tố giác về tham nhũng trong các cơ quan Nhà nước và tư nhân (lĩnh vực công và tư nhân); điều tra và làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp trong các tổ chức của Nhà nước; ngăn chặn và phòng ngừa tệ nạn tham nhũng bằng cách điều tra, xem xét quá trình và phương thức hoạt động trong các cơ quan Nhà nước nhằm hạn chế đến mức tối đa các điều kiện để tham nhũng nảy sinh. Thành phần CPIB: CPIB là cơ quan trực thuộc chính phủ, độc lập với các cơ quan khác, tổ chức bộ máy gọn nhẹ. CPIB gồm có 75 nhân viên, trong đó có 49 nhân viên điều tra gọi là CPI officers và 26 nhân viên phục vụ. Trong số các nhân viên điều tra, có cả chủ tịch và 2 phó chủ tịch CPIB, 5 trợ lý chủ tịch và 41 nhân viên điều tra chuyên nghiệp được sắp xếp theo các cấp bậc khác nhau. Những người không làm nhiệm vụ điều tra gồm có 4 nhân viên tiếp nhận và xử lý thông tin, 22 nhân viên văn phòng. Bộ phận nghiệp vụ là bộ phận quan trọng nhất, tập trung số lượng lớn nhân viên có trình độ cao. Bộ phận này thực thi nhiệm vụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham nhũng và tiến trình điều tra các hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội tham nhũng theo luật định. Bộ phận nghiệp vụ được chia thành 4 đơn vị, mỗi đơn vị đảm trách điều tra một số loại vụ việc, một số loại đối tượng nhất định. Trong đó có đơn vị gọi tắt là SIT- đây là đơn vị được giao điều tra những nhân vật quan trọng (có chức, có quyền và có địa vị xã hội) và các vụ việc có tính chất phức tạp. Bộ phận trinh sát nghiệp vụ có nhiệm vụ thu thập và xử lý các thông tin về tham nhũng, xác minh tính chính xác của những thông tin đã được cung cấp, nghiên cứu nhằm xác nhận và cung cấp các yêu cầu cần thiết đối với điều tra nghiệp vụ. Bộ phận hành chính - nghiệp vụ chịu trách nhiệm về vấn đề hành chính, nhân sự, tổ chức của cơ quan, lập kế hoạch chiến lược cho cơ quan điều tra chống tham 33 nhũng. Ngoài ra còn có chức năng lập báo cáo cho chính phủ và cung cấp thông tin cần thiết khác cho các cơ quan trung ương có yêu cầu. Trong bộ phận này còn có một đơn vị với chức năng ngăn chặn và thẩm định, có nhiệm vụ xem xét, đánh giá cách thức hoạt động của các cơ quan chính phủ có khuynh hướng tham nhũng để đưa ra những nhận xét về những yếu kém, sơ hở trong quản lý điều hành làm nảy sinh tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác, từ đó kiến nghị các biện pháp khắc phục và phòng ngừa một cách có hiệu quả. Qua cơ cấu tổ chức trên, ta có thể nhận thấy thành viên của CPIB là những nhân viên cảnh sát chuyên về lĩnh vực điều tra tham nhũng nên họ có rất nhiều kinh nghiệm trong những hoạt động điều tra, nghiên cứu những vụ việ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfSo sánh một số vấn đề về phòng chống tham những của Việt Nam-Singapore và kiến nghị.pdf
Tài liệu liên quan