Hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Mặt khác thị trường rất đa dạng và hiện có sự biến động do các tiến bộ khoa học, kỹ thuật phát triển nhanh chóng, sự cạnh tranh giữa các loại hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá đồng dạng rất gay gắt và yêu cầu nâng cao không ngừng hiệu quả hoạt động nên mỗi doanh nghiệp phải biết sức năng động trong việc lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho phù hợp với sự biến động của thị trường. Đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng một cách hợp lý danh mục các sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội, p hù hợp với điều kiện của môi trường kinh doanh nhằm tạo ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và có tính hiệu qủa của doanh nghiệp. Việc mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện theo 2 hướng: Thứ nhất, làm đa dạng hoá những sản phẩm truyền thống (sản phẩm chuyên môn hoá)
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp đối với việc nâng cao loại hình sản xuất và thay đổi phương pháp tổ chức sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Sự ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp đối với việc nâng cao loại hình sản xuất và thay đổi phương pháp tổ chức sản xuất
Khái niệm doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp là phạm trù phản ánh độ lớn của doanh nghiệp và cách thức tổ chức, bố trí các bộ phận cấu thành doanh nghiệp ấy.
Quy mô doanh nghiệp bao gồm 2 mặt: lượng và chất
- Về mặt lượng:
Để đánh giá quy mô doanh nghiệp người ta sử dụng những chỉ tiêu định lượng cụ thể, hay nói cách khác độ lớn của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp vào trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất. Trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất càng cao, quymô của doanh nghiệp càng lớn. Nhưng điều đó không phủ nhận sự tồn tại của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ bởi vì trình độ tích tụ tập trung hoá kinh doanh của các chủ đầu tư cũng không giống nhau. Mặt khác, quá trình tích tụ tập trung hoá diễn ra song song với quá trình nâng cao trình độ chuyên môn hoá, mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế.
- Về mặt chất: quy mô của doanh nghiệp không phải là sự tập hợp giản đơn các bộ phận cấu thành doanh nghiệp mà nó phản ánh cách thức tổ chức, sắp xếp các bộ phận ấy theo yêu cầu thực hiện, mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Cách thức tổ chức, sắp xếp bộ phận trong doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau độ lớn của doanh nghiệp, đặc điểm lĩnh vực kinh doanh, các mối quan hệ liên kết kinh tế mà doanh nghiệp tham gia.
Quy mô hợp lý của doanh nghiệp phải là quy mô đảm bảo khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. Do vậy quy mô hợp lý của doanh nghiệp không nhất thiết phải là quy mô lớn. Việc lựa chọn quy mô hợp lý của doanh nghiệp đặc biệt quan trọng vì
- Nó quy định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cơ bản.
- ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và qua đó ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh.
- Chi phối đến tiềm lực kinh tế của đất nước.
* Loại hình sản xuất
Loại hình sản xuất là đặc tính tổ chức kỹ thuật tổng hợp nhất của sản xuất, được quy định bởi trình độ chuyên môn hoá của bộ phận sản xuất, số chủng loại và tính ổn định của đối tượng sản xuất.
Loại hình sản xuất là căn cứ quan trọng để tiến hành tổ chức và kế hoạch hoá hoạt động của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xác định loại hình sản xuất của doanh nghiệp người ta phải xác định loại hình sản xuất cho từng bộ phận sau đó căn cứ vào loại hình nào chiếm ưu thế để xác định loại hình sản xuất chung cho doanh nghiệp.
Có 2 loại hình sản xuất chính.
- Loại hình sản xuất khối lượng lớn thuộc các quy mô lớn.
- Loại hình sản xuất đóng chiếc, số lượng ít thuộc các quy mô nhỏ.
- Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp
Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp là sự phối kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động và tư liệu sản xuất cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất, quy mô sản xuất và công nghệ sản xuất đã xác định nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội với hiệu quả cao trên cơ sở quán triệt và vấn đề kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường
sản xuất cái gì.
Sản xuất bằng cách nào.
Sản xuất cho ai
Sự ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp đối với loại hình sản xuất và tổ chức sản xuất.
Quymô sản xuất doanh nghiệp hay nói cách khác là sản lượng, số lượng thiết bị máymóc công nghệ số lượng công nhân của doanh nghiệp có ảnh hưởng quyết định đến loại hình sản xuất. Quy mô sản xuất của doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện thuận lợi để nâng cao loại hình sản xuất.
Quy mô của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ sản xuất và thiết bị máy móc.
Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường doanh nghiệp có trình độ khoa học - công nghệ càng cao khả năng cạnh tranh càng lớn và ngược lại. Trình độ khoa học công nghệ cũng có ảnh hưởng to lớn đến quy mô của doanh nghiệp. Thông thường, trình độ khoa học công nghệ cao có khả năng tạo ra khối lượng sản phẩm lớn nhưng nó cũng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và tạo thành tài sản cố định có giá trị cao của doanh nghiệp. Nghĩa là, việc áp dụng công nghệ có trình độ cao xét về tổng thể, thường dẫn tới việc hình thành cao doanh nghiệp có quy mô lớn. Tuy nhiên, quy mô của doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi hình thức chuyên môn hoá và các quan hệ liên kết kinh tế khác (hợp tác hoá, đa dạng hoá sản phẩm) cũng cần nhấn mạnh rằng hiệu quảkinh tế cao mà mỗi doanh nghiệp có khả năng đạt được không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ công nghệ hiện đại nhất, mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ thích ứng với nhu cầu và khả năng của từng doanh nghiệp. Do vậy, khi lựa chọn quymô doanh nghiệp không tách rời việc lựa chọn công nghệ.
Trong điều kiện ở nước hiện nay, việc lựa chọn quy mô hợp lý của doanh nghiệp chịu sự ràng buộc của những yêu cầu rất phức tạp: một mặt, doanh nghiệp phải có khả năng vươn tới trình độ công nghệ cao, mặt khác lại phải phù hợp với khả năng về vốn đầu tư còn hạn hẹp và có thể cần tạo thêm được nhiều việc làm. Những yêu cầu ấy không phải luôn luôn đồng hướng mà lại thường xuyên mâu thuẫn với nhau.
Tiến bộ khoa học, kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp tạo tiền đề vật chất, kỹ thuật cho tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp được hợp lý.
Như đã nêu ở trên, quy mô doanh nghiệp lớn thường gắn liền với việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cao. Như vậy để có được phương án tổ chức sản xuất hợp lý, mỗi doanh nghiệp phải biết và xác định được mình nên công nghệ nào, thiết bị máy móc với nguyên nhiên liệu, vật liệu nào là thích hợp.
Tổ chức sản xuất trong mối doanh nghiệp nếu được ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thì nó cho phép sử dụng đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, sử dụng hợp lý công suất của thiết bị, máy móc và sức lao động nhằm góp phần nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Trong tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nếu có được công nghệ mới, thiết bị máy móc tiên tiến hiện đại thông qua việc đầu tư theo chiều sâu thì sẽ nâng cao được trình độ sản xuất nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường.
Như vậy, tiến bộ khoa học, kỹ thuật (áp dụng trong doanh nghiệp quy mô lớn)và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp tuy là 2 vấn đề nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và thúc đẩy nhau cũng phát triển.Vì vậy, để có được phương án tổ chức sản xuất hợp lý, mỗi doanh nghiệp phải chú ý tới tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ thiết bị máy móc mới từ đó cần nhắc đến quy mô doanh nghiệp.
Quy mô doanh nghiệp lớn và sản xuất hàng loạt sẽ dẫn tới lựa chọn loại hình sản xuất khối lượng lớn. Tức là có nhiều bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp và mỗi bộ phận chỉ chế biến một loại chi tiết hoặc chỉ tiến hành một bước công việc nhất định. Như vậy bộ phận sản xuất đó được chuyên môn hoá rất cao. Với loại hình sản xuất này, người ta có thể sử dụng các trang thiết bị máy móc, dụng cụ chuyên dùng, bố trí các bộ phận sản xuất theo hình thức đối tượng chuyên môn hoá công nhân, do đó năng suất và hiệu quả cao.
Doanh nghiệp có trình độ chuyên môn hoá cao hợp tác hoá rộng thì số loại sản phẩm số ít sản lượng của từng loại sản phẩm sẽ lớn nên có điều kiện tổ chức theo loại hình sản xuất khối lượng lớn hay sản xuất hàng loạt.
Như vậy, quy mô của doanh nghiệp lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào loại hình sản xuất chuyên môn hoá.
Chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình phân công lao động giữa các doanh nghiệp để xác định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp vào những công việc cùng loại nhất định.
Ngoài ra, quá trình phân công lao động giữa các doanh nghiệp càng sâu, đòi hỏi sự hợp tác hoá giữa các doanh nghiệp càng phải chặt chẽ. Hợp tác hoá là quá trình tổ chức phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp nhằm thực hiện có hiệu quả cao các nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Như vậy, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chuyên môn hoá càng sâu, hợp tác hoá sản xuất phải càng chặt chẽ, tổ chức sản xuất trong mõi doanh nghiệp càng trở nên đơn giản. Do đó trong quá trình tổ chức và tổ chức lại sản xuất, mỗi doanh nghiệp đều phải chú ý và coi trọng sự ảnh hưởng của nhântố này, vì mục tiêu cơ bản của chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất của doanh nghiệp là nâng cao hiệu qủa kinh tế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của mình.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Mặt khác thị trường rất đa dạng và hiện có sự biến động do các tiến bộ khoa học, kỹ thuật phát triển nhanh chóng, sự cạnh tranh giữa các loại hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá đồng dạng rất gay gắt và yêu cầu nâng cao không ngừng hiệu quả hoạt động nên mỗi doanh nghiệp phải biết sức năng động trong việc lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho phù hợp với sự biến động của thị trường. Đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng một cách hợp lý danh mục các sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội, p hù hợp với điều kiện của môi trường kinh doanh nhằm tạo ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và có tính hiệu qủa của doanh nghiệp. Việc mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện theo 2 hướng: Thứ nhất, làm đa dạng hoá những sản phẩm truyền thống (sản phẩm chuyên môn hoá)
Thứ hai: đưa vào danh mục những sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá.
* Đa dạng hoá sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với kế hoạch sản xuất - kinh doanh, tổ chức sản xuất chuyên môn hoá và kinh doanh tổng hợp trong mỗi doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa đa dạg hoá sản phẩm và kế hoạch hoá sản xuất kinh doanh được thể hiện ở chỗ khi xác định phương án đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định rõ chủng loại sản phẩm, khối lượng sản xuất của mỗi loại, thị trường tiêu thụ, khả năng bảo đảm các yếu tố đầu vào, khả năng huy động vốn đầu tư và dự kiến mức lợi nhuận thu được (quy mô).
* Đa dạng hoá sản phẩm có liên quan đếntổ chức sản xuất và được thể hiện rõ ở chỗ khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi phải giải quyết một cách hợp lý về sự kết hợp về không gian và thời gian đối với các yếu tố cơ bản của sản xuất và vấn đề mang lại có ảnh hưởng đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp, trình độ chuyên môn hoá của các bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp. Mối quan hệ hợp tác hoá với các đơn vị kinh doanh khác.
* Ngoài những vấn đề đã nêu, ta còn thấy giữa da dạng hoá sản phẩm và chuyên môn sản xuất có mối quan hệ khăng khít với nhau được thể hiện ở chỗ các sản phẩm chuyên môn hoá của mỗi doanh nghiệp phải luôn được cải tiến, hoàn thiện cả về nội dung và hình thức theo hướng ngày càng đa dạng về mẫu vừa, kiểu cách, kích thước cấp độ kỹ thuật…. chỉ như vậy doanh nghiệp mới được bảo tồn thị trường của mỗi doanh nghiệp mới được mở rộng và phát triển, hiệu quả đạt được của mỗi doanh nghiệp mới cao để từ đó nâng cấp quy mô sản xuất của doanh nghiệp.
Sự cần thiết phải kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp
Như trên đã đề cập, do khả năng của các chủ đầu tư rất khác nhau, trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất ở các doanh nghiệp cũng khác nhau, nên trong mỗi ngành công nghiệp chuyên môn hoá tồn tại các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Bên cạnh các doanh nghiệp quy mô lớn, còn có những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Song trên phương diện tổ chức, không thể để các doanh nghiệp có quy mô khác nhau tồn tại, trong trạng thái phân tán, rời rạc mà cần phải kết hợp chúng thành một hệ thống thống nhất. Sự cần thiết phải kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong công nghiệp, ngoài đặc trưng của cơ chế thị trường là các doanh nghiệp tồn tại trong môi trường vừa cạnh tranh, vừa liên kết với nhau, còn là vì mỗi loạiquy mô doanh nghiệp đều có những ưu, nhược điểm nhất định.
Có thể tổng hợp ưu, nhược điểm của mỗi loại quy mô doanh nghiệp trong bảng so sánh dưới đây:
Nội dung so sánh
doanh nghiệp quy mô lớn
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ
1
2
3
1. Khả năng áp dụng công nghệ mới và phát triển công nghệ
- Có ưu thế vì phù hợp với xu thế phát triển công nghệ, có tiềm lực vật chất tài chính và lao động
- Có khả năng trình độ chuyên môn hoá cao.
1
2
3
2. Sử dụng vốn đầu tư:
Nhu cầu vốn
- Thời gian xây dựng
- Tỷ suất vốn
- Thời gian hoàn vốn
- Lớn
- Dài
- Thấp
- Chậm
- Nhỏ
- Ngắn
- Cao
- Nhanh
3. Chi phí sản xuất
- Mức tiêu hao ng/liệu
- Chi phí quản lý cho đơn vị sản phẩm
- Giá thành đơn vị sản phẩm
- Thấp
- Thấp
- Thấp
- Cao
- Cao
- Cao
4. Vị thế trên thị trường khả năng chuyển hưởng sản xuất
Lớn
- Chậm
- Nhỏ
- Nhanh
5. Đáp ứng nhu cầu
- Nhu cầu rộng
- Nhu cầu rộng
- Nhu cầu đặc thù
- Có ưu thế
- Bị hạn chế
- Bị hạn chế
- Có ưu thế
6. Kết hợp kinh tế quốc phòng
Khó phân tán và bảo vệ trong chiến tranh
Dễ phân tán và bảo vệ
Có thể khẳng định rằng không có loại quy mô doanh nghiệp nào có ưu thế tuyệt đối. Bên cạnh những ưu điểm, các doanh nghiệp quy mô lớn có những nhược điểm nhất định. Ngược lại, các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ cũng có những ưu điểm mà doanh nghiệp quy mô lớn không thể có. Chính điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp hợp lý các loại quy mô lớn không thể có. Chính điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp hợp lý các quy mô doanh nghiệp bằng các biện pháp thích ứng. để phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Việc kết hợp ấy phải được quán triệt trong tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hoá. Nhưng ở mỗi ngành, do đặc điểm về kỹ thuật sản xuất và vị trí trong hệ thống kinh tế chi phối cần xác định được loại quy mô trọng tâm. Chẳng hạn, trong các ngành hoá dầu, luyện kim, điện lực, xi măng… hướng vào việc xây dựng doanh nghiệp quy mô lớn là chủ yếu, còn các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản lại cần chú ý nhiều hơn tới xây dựng doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28293.doc