Đề tài Sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam với hội nhập kinh tế thế giới

MỤC LỤC

Trang

Phần A: Lời mở đầu 1

Phần B: Nội dung 3

1. Tổng quan về kiểm toán 3

1.1. Khái niệm 3

1.2. Bản chất 3

1.3. Chức năng: 5

1.4. Phân loại kiểm toán và đối tượng chung – cụ thể của kiểm toán 6

1.4.1. Phân loại kiểm toán. 6

1.4.2. Đối tượng của kiểm toán. 7

1.5. Khái quát về tổ chức công tác kiểm toán. 9

1.5.1. Khái niệm : 9

1.5.2. Trình tự công tác kiểm toán. 10

1.6. Kiểm toán – một hoạt động độc lập với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến. 12

1.6.1. Kiểm toán và kiển tra kế toán. 13

1.6.2. Kiểm toán với thanh tra kiểm soát. 13

2. Sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam tiến tới hội nhập quốc tế. 14

2.1. Thực trạng - vị trí- đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. 14

2.2. Vai trò kiểm toán đối với từng khách thể kiểm toán cụ thể. 16

2.2.1. Doanh nghiệp nhà nước(DNNN). 16

2.2.2. Công ty cổ phần. 18

2.2.3. Công ty liên doanh. 19

3. Tác động cụ thể của kiểm toán tới việc quản lí và hoạch định chính sách kinh tế của Nhà nước trong quá trình đổi mới-đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế thế giới. 20

4. Một vài kiến nghị phát huy vai trò của kiểm toán. 24

Phần C: Kết luận 25

Tài liệu tham khảo 26

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam với hội nhập kinh tế thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản. Đồng thời khi sản xuất phát triển quy mô tài sản và kinh doanh tăng lên các mối liên kết kinh tế ngày càng đa dạng phức tạp. Cộng vào đó là sự phong phú thêm của khái niệm truyền thống về tài sản đặc biệt là sự xuất hiện của các tài sản vô hình, các hậu quả của rủi ro dẫn đến những thu nhập hoặc tổn thất bất thường về tài sản… tất cả những yếu tố này dẫn đến khả năng cách biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kiểm toán… Thực tế đó đã thúc đẩy sự ra đời của kiểm toán cùng tính tất yếu phải đặt thực trạng của tài sản vào đối tượng kiểm toán. 1.4.2.4 . Hiệu quả và hiệu năng - Đối tượng cụ thể của kiểm toán. Theo quan điểm hiện đại đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu năng và hiệu quả. Việc mở rông đối tượng kiểm toán như vậy cũng xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quản lý trong điệu kiện quy mô kinh doanh và hoạt động ngày càng đòi hỏi mở rộng,trong khi nguồn lực ngày càng gay gắt để thực hiện tiết kiệm,để thắng thế trong cạnh tranh …vấn đề hiệu quả,hiệu năng cần được đặt ra trong từng nghiệp hay hoạt động cụ thể. 1.5. Khái quát về tổ chức công tác kiểm toán. 1.5.1. Khái niệm : Qua một số nội dung chính về hoạt động kiểm toán chúng ta đã có được cái nhìn khái quát vềcác nhân tố của hoạt động kiểm toán. Song để có thể tổng hợp những nội dung trên và gắn kết chúng trong một quy trình kiểm toán cụ thể mà còn là tiền đề giúp chúng ta phát triển vào tổ chức công tác kiểm toán ở những loại hình cụ thể như kiểm toán tài chính,kiểm toán nghiệp vụ.Đồng thời qua đó cho chúng ta có thể hiểu được quá trình vận hành của kiểm toán để đạt được mục tiêu đặt ra.Và khi đó hoạt động kiểm toán mới có thể giúp cho khách thể kiểm toán nói chung có thể điều chỉnh và phát triển. Từ đó từng bộ phận trong nền kinh tế phát triển sẽ là bàn đạp tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Tổ chức kiểm toán hướng tới việc tạo ra mối liên hệ khoa học và nghệ thuật các phương pháp kỹ thuật kiểm toán dùng để xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng. Kiểm toán là một hệ thống có chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng tài chính.Các yếu tố của xác minh và bày tỏ ý kiến là kiểm toán cân đối,đối chiếu logic,đối chiếu trực tiếp,thực nghiệm và điều tra …Các yếu tố này cần được kết hợp theo một trình khoa học phù hợp với đối tượng cụ thể khác nhau và mang lại hiệu quả cụ thể khác nhau. Đó chính là tính nghệ thuật của tổ chức. 1.5.2. Trình tự công tác kiểm toán. Trình tự công tác kiểm toán thực hiện theo một quy trình chung với 3 bước cơ bản: Chuẩn bị kiểm toán Thực hành kiểm toán Kết thúc kiểm toán 1.5.2.1. Chuẩn bị kiểm toán. Chuẩn bị là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác kiểm toán nhằm tạo ra tất cả tiền đề và điện kiện cụ thể trước khi thực hành kiểm toán.Đây là công việc có ý nghĩa quyết định chất lượng kiểm toán.Do đó,những công việc trong giai đoạn này cần được xác định rõ ràng chính xác nhằm tạo được cơ sở pháp lý,kế hoạch kiểm toán cụ thể và các điều kiện vật chất cho công tác kiểm toán.Các công việc đó được xác định thành 5 người : Xác định mục tiêu,phạm vi kiểm toán Mục tiêu kiểm toán là đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả kiểm toán cụ thể.Mục tiêu chung của kiểm toán phải gắn chặt với mục tiêu, yêu cầu của quản lí.Vì vậy,trước hết mục tiêu kiểm toán phải tuỳ thuộc vào quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào loại hình kiểm toán. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán. Phạm vi kiểm toán thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán và là một hướng cụ thể hoá mục tiêu này. Chỉ định người phụ trách công việc kiểm toán và chuẩn bị các điều kiện vật chất cơ bản Công việc này có thể làm đồng thời với việc xây dựng mục tiêu cụ thể song cần thực hiện trước khi thu thập thông tin,đặc biệt là việc làm quen với đối tượng,với khách thể mới của kiểm toán. Với yêu cầu của công việc này là phải có người có trình độ tương xứng với mục tiêu,phạm vi kiểm toán nói riêng và tương xứng với vị trí,yêu cầu,nội dung và tinh thần của cuộc kiểm toán nói chung. Đồng thời chúng ta cần chuẩn bị các thiết bị và điều kiện vật chất khác kèm theo ;phương tiện tính toán kèm theo… Thu thập thông tin ở bước chuẩn bị, thu thập thông tin chỉ hướng tới việc đưa ra các bước quyết định về kiểm toán mà chưa đặt ra tương ứng vơí mục tiêu và phạm vi kiểm toán song nói chung cần quan tâm đến chiều rộng hơn là chiều sâu. Thậm chí có trường hợp chỉ xét tới khả năng hiện diện của các nguồn tài liệu cụ thể như: chế độ, chuẩn mực có liên quan, truyền thống và tín nhiệm của khách thể kiểm toán…trong thu thập thông tin trước hết cần tận dụng tối đa nguồn tài liệu đã có song khi cần thiết vẫn phải có những biện pháp điều tra bổ sung. Các nguồn tài liệu đã có thường bao gồm: Các nghị quyết có liên quan đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Các văn bản có liên quan đến hoạt động của đơn vị và khách thể kiểm toán. Các kế hoạch dự toán dự báo có liên quan. Các báo cáo kiểm toán lần trước, các biên bản kiểm kê và biên bản xử lý các vụ việc đã xảy ra trong kỳ kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán. Kế hoạch kiển toán là quá trình cân đối tích cực giữa nhu cầu và nguồn lực đã có. Trong kiểm toán kế hoạch chung này gọi là kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên giới hạn lập kế hoạch được đề cập ở đây là kế hoạch tổng quát cho một cuộc kiểm toán. Trên cơ sở xem xét các quan hệ về mục tiêu phạm vi nhu cầu cần xác định số người, kiểm tra phương tiện và xác định thời hạn thực hiện công tác kiểm toán. Số người tham gia kiểm toán cần được xem xét cả về cơ cấu và tổng số. Cơ cấu của nhóm công tác phải thích ứng với từng việc cụ thể đã chính xác hoá mục tiêu, phạm vi ở phần xác định nhu cầu. Tóm lại, nhiêm vụ của xây dựng kế hoạch kiểm toán là xác định số lượng, cơ cấu, chất lượng về người và phương tiện tương ứng với khối lượng nhiệm vụ kiểm toán. Đồng thời kế hoạch của từng cuộc kiểm toán cũng phải được xây dựng phù hợp với từng loại hình kiểm toán. Xây dựng chương trình kiểm toán. Hoạt động kiểm toán bao gồm nhiều phần hành có vị trí, đặc điểm khác nhau nên phạm vi loại hình kiểm toán cũng khác nhau dẫn đến số lượng và thứ tự các bước kiểm toán khác nhau. Xây dựng chương trình kiểm toán chính là việc xác định số lượng và thứ tự các bước kể từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc công việc kiểm toán. Chúng ta cần xây dựng quy trình kiểm toán riêng cho từng loại nghiệp vụ trên những cơ sở cụ thể trước hết là mục tiêu, đặc điểm cụ thể của đối tượng kiểm toán. 1.5.2.2. Thực hành kiểm toán Thực hành kiểm toán là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế hoạch, chương trình kiểm toán. Trong bước công việc này tính nghệ thuật trong tổ chức bao trùm suốt quá trình. Mặc dù vậy tính khoa học của tổ chức vẫn đòi hỏi thực hành kiểm toán phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản sau: Kiểm toán phải tuyệt đối tuân thủ chương trình kiểm toán đã xây dựng. Kiểm toán viên phải thường xuyên ghi chép những phát giác, những nhận định về các nghiệp vụ nhằm tích luỹ bằng chứng nhận định với những kết luận kiểm toán và loại trừ những nhận xét ban đầu không chính xác về nghiệp vụ. Định kỳ tổng hợp kết quả kiểm toán để nhận rõ mức độ thực hiện so với khối lượng công việc chung. Mọi điều chỉnh về nội dung phạm vi đều phải có ý kiến thống nhất của người phụ trách chung công việc kiểm toán và người ký thư mời hợp đồng kiểm toán. 1.5.2.3. Kết thúc kiểm toán. Trong bất kỳ cuộc kiểm toán nào kiểm toán viên phải đưa ra kết luận kiểm toán và lập báo cáo hoặc biên bản kiểm toán. Kết luận kiểm toán là sự khái quát kết quả thực hiện các chức năng kiểm toán trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Do đó kết Luận kiểm toán phải đảm bảo yêu cầu cả về nội dung cũng như tính pháp lý. Về nội dung phải phù hợp và đầy đủ, phù hợp là sự nhất quán giữa kết luận đưa ra với mục tiêu kiểm toán, đầy đủ là sự bao hàm toàn bộ yêu cầu phạm vi kiểm toán đã xác định và được điều chỉnh. Tính pháp lý của kiểm toán trước hết đòi hỏi những bằng chứng tương ứng theo yêu cầu của các quy chế chuẩn mực và luật pháp. để đảm bảo các yêu cầu pháp lý trong kiểm toán tài chính được quy định thành chuẩn mực với 4 loại phù hợp với các tình huống cụ thể: ý kiến chấp nhận toàn bộ. ý kiến loại trừ ý kiến bác bỏ. ý kiến từ chối. Báo cáo hoặc biên bản kiểm toán là hình thức biểu hiện các chức năng kiểm toán và thể hiện kết luận kiểm toán. Biên bản kiểm toán thường được sử dụng trong kiểm toán nội bộ hoặc trong từng phần kiểm toán báo cáo tài chính. 1.6. Kiểm toán – một hoạt động độc lập với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến. Kiểm toán là một công cụ quản lý kinh tế ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống các công cụ quản lý của nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Kiểm toán là một lĩnh vực khoa học chuyên môn có phạm vi rộng nhưng cũng được phân loại chuyên sâu theo những loại hình kiểm toán khác nhau. Để có thể nhận thức một cách toàn diện về kiểm toán ta đề cập đến một số khái niệm để phân biệt với kiểm toán. 1.6.1. Kiểm toán và kiển tra kế toán. Kiểm tra kế toán là chức năng cố hữu của kế toán. Phương pháp tự kiểm tra của kế toán được thực hiện dựa trên các phương pháp: Chứng từ kế toán, tính giá, đối ứng tài khoản, cân đối tổng hợp. Kiểm tra kế toán dù có ưu việt song chỉ tạo được niền tin cho một giới hạn nhất định của người quan tâm đến tình hình tài chính trước hết là những người làm kế toán và những nhà quản lý am hiểu về nghiệp vụ kiểm toán. Do vậy việc kiểm tra ngoài kế toán là yêu cầu tất yếu của quản lý đặc biệt trong điều kiện đa phương hoá sở hữu và đa dạng hoá các loại hình đơn vị kinh doanh và cộng cộng đồng thời cần nhận thức rõ sự cách biệt giữa thực trạng hoạt động tài chínhvới sự phản ánh của nó trong kế toán. Đây là khoảng cách tất yếu giữa kỳ vọng của nhiều người quan tâm đến hoạt động tài chính với những giới hạn cho phép về nghề nghiệp trong các chính sách. Vì vậy kiểm tra kế toán dù khoa học cũng chỉ kiểm tra phần thông tin thu được, Với lượng thông tin thu được. Với lượng thông tin chưa thu đựơc nhưng lại cần có để xác minh thực trạng tài chính rõ ràng cần kiểm tra ngoài kế toán. Kiểm toán sinh ra từ yêu cầu của quản lý và phục vụ cho quản lý. Quản lý bao gồm cả việc định hướng và tổ chức thực hiện những hướng đã định. ở mọi giai đoạn đều cần thiết phải kiểm tra. Khi nhu cầu kiểm tra chưa nhiều và chưa phức tạp kiểm tra được thực hiện với các chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống nhất. Trái lại khi nhu cầu này thay đổi tới mức độ cao kiểm tra cũng cần tách ra thành một hoạt động độc lập và được thực hiện bằng một hệ thống phương pháp chuyên môn độc lập. 1.6.2. Kiểm toán với thanh tra kiểm soát. Thanh tra và kiểm soát việc thi hành chế độ tài chính kế toán trong các đơn vị cơ quan kinh tế trực thuộc trực tiếp và gián tiếp vào chính phủ.Cụ thể thanh tra tài chính với nhiệm vụ là kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chính sách,luật lệ,chế độ tài chính Nhà nước tại các cơ quan bất kì đơn vị nào. Trên cơ sở đó nhanh chóng phát hiện các vụ việc vi phạm, tham ô lãng phí tiền của, vật tư, tài sản của nhà nước để trình các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh, bảo đảm kỷ cương, phép nước trong hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh tế, xã hội. Làm lành mạnh hoạt động tài chính doanh nghiệp và tài chính quốc gia. Trong khi đó kiểm toán là một hoạt động độc lập với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về tất cả các đối tượng cần kiểm toán. trong trường hợp chủ thể kiểm toán(phân loại kiểm toán theo bộ máy tổ chức) là kiểm toán nhà nước, là bộ máy chuyên môn trực thuộc chính phủ có quyền hạn kiểm tra các hoạt động của nhà nước, kiểm toán tài sản công cụ thể như sau: Xây dựng chương trình kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch đó. Định kỳ báo cáo thực hiện chương trình kế hoạch kiểm toán lên Thủ tướng chính phủ. Cung cấp kết quả kiểm toán cho chính phủ và các cơ quan cấp nhà khác theo quy định của chính phủ. Xác nhận đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung đã đánh giá. Góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai sót kiến nghị với cấp có thẩm quyền, xử lý những vi phạm và đề xuất với thủ tướng chính phủ về việc sửa đổi. Kiểm toán nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ đã được nhà nước quy định. Và với kiểm toán độc lập, là một hoạt động đặc trưng của kinh tế thị trường. Đây là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hàng.Cuối cùng là kiểm toán nội bộ là bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị, phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Do mục tiêu được giới hạn ở phạm vi nội bộ đơn vị nên bộ máy này thường chỉ bao hàm những kiểm toán nội bộ. 2. Sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam tiến tới hội nhập quốc tế. 2.1. Thực trạng - vị trí- đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam với điểm xuất phát thấp nên gặp rất nhiều khókhăn trong quá trình hoạt động.Với sự tàn phá nặng nề của chiến tranh nền kinh tế Việt Nam tưởng chừng như không thể thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu.Nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước kinh tế đã đi lên với tốc độ tương đối nhanh và ổn định.Trong những năm gần đây với cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước và sự đổi mới sâu sắc cơ chế quản lý kinh tế tài chính,hệ thống kế toán,kiểm toán Việt Nam phù hợp với cơ chế quản lý phù hợp với tiến trình cải cách đổi mới và hội nhập kinh tế.Với sự cố gắng nỗ lực các doanh nghiệp nói chung đã đóng góp một phần không nhỏ tạo điều kiện thúc đẩy nhanh kinh tế đất nước và có chỗ đứng trong khu vực tiến tới hội nhập kinh tế thế giới.Nền kinh tế đã đáp ứng một khối lượng nhu cầu lớn trong nước và nước ngoài (là nước đứng đầu về xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng khác). Hiện nay, nước ta có nền kinh tế phát triển đứng ở vị trí gần đầu khu vực Đông Nam á.Mặc dù vậy Việt Nam còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa bởi chúng ta vẫn còn những khó khăn nhất định. Chính vì những khó khăn chưa giải quyết được nên khi so sánh với các nước bạn chúng ta còn thua kém họ ở các chỉ tiêu kinh tế như Việt Nam có tỉ lệ thất nghiệp đứng thứ hai chỉ sau philipin,lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp –thuỷ sản của nước ta vào loại cao nhất trong khu vực, và cũng giảm chậm nhất. Đặc biệt,ngày nay với sự cạnh tranh gay gắt về kinh tế buộc chúng ta phải luôn luôn tự điểu chỉnh và xác định hướng đi chính xác. Và tất cả những điều chỉnh đó phải đưa đến kết quả cuối cùng đó là nền kinh tế Việt Nam phải hội nhập với kinh tế thế giới. Chúng ta có thể kể ra một số khó khăn mà trong điều kiện hiện nay buộc chúng ta không thể chậm trễ mà phải gấp rút đưa ra được những phương hướng thích hợp: Chuyên môn tay nghề của cán bộ,công nhân chưa cao. Quá trình hoạt động và quản lí chưa đạt hiệu quả và hiệu năng Các nguồn tài chính công còn chưa được sử dụng hiệu quả. Trình độ khoa học kĩ thuật vẫn còn lạc hậu. Như chúng ta đã biết một trong những yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất đó là lực lượng sản xuất –nhân tố con người.Với nhận thức đúng đắn về vai trò của con người trong quá trình sản xuất chúng ta mới có thể đặt ra phương hướng đào tạo đội ngũ cán bộ,công nhân có trình độ chuyên môn cao. Tiếp đó chúng ta phải tổ chức hoạt động sao cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối đa và mục tiêu của các chương trình dự án.Trong điều kiện quy mô kinh doanh và hoạt động sự nghiệp ngày càng đòi hỏi mở rộng,trong khi nguồn lực ngày càng bị giới hạn. Đặc biệt trong kinh doanh khi cạnh tranh ngày càng gay gắt,để thực hiện tiết kiệm, để thắng thế trong cạnh tranh…vấn đề hiệu quả hiệu năng cần đặt ra cho từng nghiệp vụ hay hoạt động.Với các đơn vị có sử dụng nguồn ngân sách,như Doanh Nghiệp Nhà Nước được coi là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của DNNN trong các ngành hạ tầng như giao thông,năng lượng,bưu chính viễn thông …đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.Khu vực DNNN chiếm vị trí quan trọng trong các nguồn thu của ngân sách nhà nước.Do đó nhà nước có những khoản tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp.Tuy nhiên tình trạng tài chính không lành mạnh,phần do phát sinh mới chưa được xử lý kịp thời làm cho hạch toán bị méo mó, thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc mua sắm thiết bị chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách mà không tìm cách huy động các nguồn vốn khác; khi gặp khó khăn trong sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm thì đòi hỏi nhà nước ưu đãi, bao cấp. Chính vì vậy, mà nguồn ngân sách nhà nước bị hao hụt, lãng phí.Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học.ở những nước phát triển,trong quá trình hoạt động sản xuất họ áp dụng một cách tối đa tính ưu việt của khoa học công nghệ nên sản phẩm của họ đáp ứng được mọi yều cầu của khách hàng dù có khó tính nhất. Điểm nổi bật về trình độ kỹ thuật trong các doanh nghiệp nói chung là công nghệ lạc hậu (Theo kết quả khảo sát ở trong DNNN có727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện khoa học bảo hộ lao động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến hành thì có đến 76%thiết bị,máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50-60, trên 70% là đã hết khấu hao,gần 50% được tân trang lại ). Trên đây chỉ là một số hạn chế còn tồn tại trong nền kinh tế của nước ta.Điều chúng ta quan tâm đó là phát hiện ra những hạn chế và nghiên cứu để đưa ra phương hướng tốt nhất để giải quyết tất cả những khó khăn còn tồn tại. 2.2. Vai trò kiểm toán đối với từng khách thể kiểm toán cụ thể. 2.2.1. Doanh nghiệp nhà nước(DNNN). Trong nền kinh tế nhiều thành phần,hệ thống các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nghiên cứu năng lực sản xuất kinh doanh của DNNN nhằm hoạch định các mục tiêu,nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,làm sáng tỏ các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến việc tồn tại và phát triển cũng như sự tác động của hệ thống DNNN đến nền kinh tế quốc dân.Để quá trình hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp được tiến hành liên tục và có hiệu quả thì doanh nghiệp phải biết sử dụng và khai thác triệt để các nguồn lực sẵn có.Các yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể phân thành hai nhóm :nhóm về yếu tố thuộc về cơ sở vật chất. Qúa trình hoạt động kinh doanh luôn đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các yếu tố sản xuất diễn ra liên tục trong từng bộ phận sản xuất cũng như toàn bộ doanh nghiệp. Mức độ đồng bộ và cân đối càng cao thì tạo ra năng lực sản xuât càng lớn. Khi quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra,việc mất cân đối giữa năng lực sản xuất của các yếu tố sản xuất so với nhiệm vụ đặt ra,sự chênh lệch năng lực sản xuất này chứa đựng khả năng tiềm tàng mà doanh nghiệp cần tập trung khai thác. Mặt khác, việc xem xét tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh chính là đánh giá khả năng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù đã giảm mạnh số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn cần đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phảm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông…Doanh nghiệp nhà nước đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định chính trị xã hội, định hướng công bằng văn minh góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm thu nhập cho người lao động xoá đói giảm nghèo phát triển văn hoá giáo dục y tế làm cơ sở và nền tảngcho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới. Doanh nghiệp nhà nước đã chiếm tỉ lệ khá cao về xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm 20%. Doanh nghiệp nhà nước là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than, gạo. Đồng thời doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm trên 98% tổng số dự án liên doanh với nước ngoài đã góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể từ khu vực này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về mặt kinh tế phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiêù tồn taị yếu kém trên nhiều mặt. Có thể kể ra sau đây một số yếu kém cơ bản sau: Về tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh: Tốc độ này chưa cao và đang giảm dần số doanh nghiệp thực sự có hiệu quả còn ít và số doanh nghiệp bị lỗ liên tục chiếm khoảng 20% còn lại là những doanh nghiệp chưa có hiệu quả nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi. Về công nợ: Công nợ trong khu vực này còn quá lớn và khả năng thanh toán lại rất thấp. Tình trạng tài chính không lành mạnh. Về quan điểm kinh doanh: Quan điểm kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước còn mang nặng tư tưởng bao cấp. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm các doanh nghiệp nhà nước còn được vay trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi. Về tình hình lao động: Lao đọng thiếu việc làm và dôi dư là một khó khăn lớn ảnh hưởng xấu đến quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư. Về quy mô phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ còn dàn trải chồng chéo theo cơ quan quản lý và ngành nghề. Sự chồng chéo trùng lặp về ngành nghề về sản phẩm trong một thị trường còn chưa phát triển và sức mua còn thấp đã dẫn dến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư dàn chải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối Về trình độ kỹ thuật: Điểm nổi bật về trình độ kỹ thuật trong các doanh nghiệp nhà nước là công nghệ lạc hậu. Đây chính là cản trở lớn nhất đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Với tinh thần đó giúp các nhà quản lý thấy rõ thực trạng của doanh nghiệp nhà nước hiện nay đối với kiểm toán viên nhà nước những tư liệu trên có thể là có ích trong quá trình tìm hiểu và nhận diện đối tượng kiểm toán quan trọng của kiểm toán nhà nước Việt Nam. Qua đó kiểm toán (Kiểm toán Nhà nước) có thể đưa ra những nhận xét cụ thể cho từng doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào làm ăn không có hiệu quả thì có thể mạnh dạn cổ phần hoá hoặc tuyên bố giải thể. Đặc biệt với xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả hơn tránh tình trạng lệ thuộc làm thâm hụt ngân quỹ của nhà nước. Đối với những doanh nghiệp làm hoạt động chưa có hiệu quả nhưng là những ngành mũi nhọn của nhà nước thì qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến với hình thức tư vấn về những mặt còn yếu kém và những phương hướng giải pháp cụ thể nhằm khác phục những yếu kém. Cụ thể Công ty 28 là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng cục Hậu cần – Bộ quốc phòng hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất- kinh doanh – xuất nhập khẩu các sản phẩm dệt, may, kinh doanh bất động sản. trong đó nhiệm vụ chính trị trung tâm là sản xuất quân trang phục vụ quân đội. Là doanh nghiệp nhà nước thực hiện hoạch toán độc lập trong cơ chế thị trường Công ty luôn lấy chủ trương phát triển vững mạnh làm nền tảng. Một trong những điều kiện cần của nó là phải luôn luôn duy trì được một tình trạng tài chính lành mạnh và khoẻ khoắn. Kiểm toán là biện pháp có ích nó vừa giúp cho người Giám đốc nắm chắc tình hình tổ chức và tài chính doanh nghiệp, lại vừa thúc đẩy những người làm công tác quản lý nhất là quản lý tài chính. Công ty đã tiến hành thuê kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính tất cả các công trình đầu tư cũng đều được kiểm toán nhờ đó mà công ty đã thu lại được một khoản tiền đáng kể. Qua các kỳ kiểm toán đã giúp cho Đảng uỷ doanh nghiệp và Giám đốc khắc phục được những thiếu sót nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng, nhất là góp phần vào sự tăng trưởng vốn của công ty lên gấp 5,76 lần. 2.2.2. Công ty cổ phần. Các công ty cổ phần được thành lập bởi các tổ chức, cá nhân…góp vốn và được gọi là các cổ đông. Mặc dù loại hình công ty này chưa được phát triển rộng rãi ở nước ta. Song các công ty cổ phần được hình thành trong cơ chế thị trường nên quá trình hoạt động của nó mang tính tự chủ về tài chính và độc lập về loại hình hoạt động.Đồng thời trong quá trình hoạt động công ty cũng thể hiện tính năng động thích ứng với đòi hỏi của kinh tế thị trường. Các Công ty cổ phần thường xuyên có các cuộc họp hội đồng quản trị để đưa ra những nhận xét đánh giá về tình hình hoạt động của công ty đặc biệt là tình hình tài chính. Công ty cổ phần cũng đóng góp một phần không nhỏ vào qúa trình phát triển kinh tế ở nước ta.Do đó chúng ta cần quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho công ty hoạt động liên tục và có hiệu quả. Tuy nhiên với đặc điểm hoạt động tài chính có sự đan xen của các quan hệ kinh tế phức tạp dẫn đến tình trạng công ty gặp khó khăn trong giải các mối quan hệ đó. Trong trường hợp này kiểm toán có thể tìm hiểu về đặc điểm loại hình hoạt động kinh doanh của Công ty từ đó có thể xác minh được các vấn dề mà công ty đang gặp khó khăn. Từ đó mà tình hình tài chính của công ty được khoẻ khoắn và làm cho nguồn vốn của công ty được gia tăng.Trong trường hợp công ty đã hoạt động có hiệu quả thì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35617.doc
Tài liệu liên quan