Đề tài Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do hình thành đề tài

Mục tiêu nghiên cứu

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ

Khái niệm khu vực công-khu vực tư- tiêu chí phân biệt hai khu vực

Khu vực công

Khu vực tư

Tiêu chí phân biệt khu vực công và khu vực tư

Khái niệm về nguồn nhân lực-nguồn nhân lực chất xám

Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức

Một số định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực chất xám

Nguồn nhân lực chất xám trong khu vực công

Các lý thuyết về di chuyển nguồn nhân lực

Nguyên nhân của việc di chuyển nguồn nhân lực

Mô hình lý thuyết về di chuyển nguồn lực

3.2.1Mô hình của Lewis

3.2.2Mô hình Haris-Todaro

3.2.3Lý thuyết “Mới” về di dân

Một số lí thuyết về quản lí nguồn nhân lực

3.3.1Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow

3.3.2Thuyết vê sự công bằng

3.3.3Thuyết hai nhân tố của Herzberg

3.3.4Mô hình động cơ thúc đẩy của Porter và Lawler

Vấn đề di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư

Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư

ẢNH HƯỞNG CỦA KHU VỰC CÔNG VÀ TƯ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - HIỆN TƯỢNG DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Khái quát về tăng trưởng và quá trình phát triền kinh tế

Tăng trưởng và phát triển kinh tế

1.1.1Tăng trưởng kinh tế

1.1.2Phát triển kinh tế

1.1.3Quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế

Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng và phát triển kinh tế

1.2.1Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế

1.2.2Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế

Ảnh hưởng của khu vực công và khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế

Khu vực công

2.1.1Vai trò của khu vực công

2.1.2Ảnh hưởng tích cực

2.1.3Ảnh hưởng tiêu cực

2.1.4Ví dụ về sự ảnh hưởng của khu vực công hiện nay

Trên thế giới

Trong nước

Khu vực tư

2.2.1Vai trò của khu vực tư

2.2.2Ảnh hưởng tích cực

2.2.3Ảnh hưởng tiêu cực

2.2.4Ví dụ về sự ảnh hưởng của khu vực tư hiện nay

Trên thế giới 54

Trong nước

Thực trạng di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư hiện nay

Trên thế giới

3.1.1Ở Anh

3.1.2Ở Utah

Trong nước

Ảnh hưởng của sự di chuyển chất xám đối với quá trình phát triển kinh tế

3.3.1Ảnh hưởng tích cực

3.3.2Ảnh hưởng tiêu cực

Giải pháp cho hiện tượng di chuyển chất xám từ công sang tư

Một số biện pháp hạn chế sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đang được áp dụng hiện nay tại Việt Nam

KẾT LUẬN

 

 

 

 

 

doc74 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5393 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%), Trong đó: Y: qui mô của nền kinh tế y :là tốc độ tăng trưởng Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa. Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế: Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế Quy mô sản lượng quốc gia : GDP, GNP Thu nhập bình quân đầu người ( PCI) Tốc độ tăng trưởng về sản lượng, thu nhập bình quân đầu người. Nhóm chỉ tiêu phản ánh những sự thay đổi cơ cấu kinh tế Chỉ số cơ cấu ngành: Thể hiện cả mặt định tính và định lượng. Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp của các nước này chiếm từ 20% đến 30% GDP. Trong khi đó ở các nước đang phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm từ 1%-7%. Chỉ tiêu cơ cấu nông thôn thành thị: Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu vùng kinh tế theo góc độ thành thị và nông thôn. Ở các nước đang phát triển, kinh tế nông thôn chiếm tỷ trọng rất cao. Theo số liệu của WB, vào cuối thập niên 90 của thế kỉ trước, 45 nước có mức thu nhập thấp, tỉ trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 63 nước có mức thu nhập tiếp theo, con số này là 65%. Trong khi đó, các nước phát triển có hiện tượng đối ngược lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị. Một xu hướng khá phổ biến ở các nước đang phát triển là luôn có một dong di cư từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả lực đẩy ra khỏi khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như sự thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả lực hút từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với Chính phủ các nước đang phát triển. Mặt khác việc thực hiện các chính sách công nghiệp hóa nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỉ trọng kinh tế thành thị ở các nước đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dân số chung và đó chính là xu thế hợp lý cho quá trình phát triển. Chỉ số cơ cấu ngoại thương: Các nước đang phát triển thường xuất khẩu sản phẩm thô như: nguyên liệu, nông sản, thực phẩm hay các sản phẩm thuộc các ngành dệt, may, công nghiệp nhẹ còn các nước phát triển thường xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm đã qua chế biến, các hàng hóa vốn hay những hàng hóa lâu bền. Cơ sở lý giải cho xu hướng này chính là lý thuyết về lợi thế so sánh. Theo đó, các nước sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các hàng hóa mà nước đó có lợi thế tương đối về chi phí sản xuất các mặt hàng đó. Các nước đang phát triển trong khi xuất khẩu sản phẩm thô với giá trị thấp nhưng lại phải nhập khẩu một số lượng lớn cả hàng hóa và nguyên liệu đầu vào, hàng hóa vốn cũng như hàng hóa tiêu dùng cuối cùng. Kết quả là ở các nước này luôn phải chấp nhận tình trạng thâm hụt thương mại quốc tế. Tuy vậy, theo xu hướng phát triển của mỗi nước, nền kinh tế có xu hướng mở ngày càng đa dạng, mức độ thâm hụt thương mại quốc tế ngày càng giảm đi theo xu thế giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa thô, hàng hóa có dung lượng lao động cao và tăng dần các hàng hóa có giá trị kinh tế lớn. Nhóm chỉ tiêu phản ánh tiến bộ về mặt xã hội. Một số chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người. Tuổi thọ: tuổi thọ của dân cư phản ánh kết quả cuối cùng của tiến bộ xã hội như môi trường sống, chăm sóc sức khỏe, thu nhập, điều kiện lao động tác động đến đời sống dân cư. Để phản ánh tuổi thọ dân cư, các chỉ tiêu được áp dụng: tuổi thọ trung bình của dân cư và chỉ số tuổi thọ. Gắn với quá trình phát triển kinh tế, các chỉ tiêu trên phải được cải thiện theo thời gian. Chỉ số tuổi thọ: Trong đó: Lf: tuổi thọ trung bình của quốc gia được đánh giá Lm: Tuổi thọ trung bình của quốc gia được xếp hạng thấp nhất trên thế giới. LM: Tuổi thọ trung bình của quốc gia được xếp hạng cao nhất trên thế giới. Giáo dục: Phản ánh trình độ giáo dục và dân trí của một quốc gia, các chỉ tiêu được sử dụng: Tỷ lệ người lớn biết chữ ( Tỉ lệ dân số 15t trở lên biết chữ), tỉ lệ dân số đi học phổ thông đúng độ tuổi (tỉ lệ dân số 6-17t đi học phổ thông), chỉ số giáo dục. Chỉ số giáo dục: Pe: tỉ lệ người lớn biết chữ. Pa: tỉ lệ dân số đi học phổ thông đúng độ tuổi. Thu nhập: Nhu cầu mức sống vật chất thể hiện ở nhu cầu hấp thụ lượng calori tối thiểu bình quân trên một ngày của mỗi người (2100-2300 calori) đảm bảo khả năng sống và làm việc bình thường. Để đảm bảo nhu cầu này, con người cần một khoảng thu nhập nhất định để chi tiêu cho lương thực, thực phẩm. Do đó, để phản ánh mức thu nhập trên, các chỉ tiêu được sử dụng: Tổng sản phẩm quốc dân tính trên đầu người và chỉ số thu nhập. Chỉ số thu nhập : GNP/người của quốc gia được đánh giá : GNP/người của quốc gia được xếp hạng thấp nhất trên thế giới. : GNP/người của quốc gia được xếp hạng cao nhất trên thế giới. Chỉ số phát triển con người: Chỉ tiêu này phản ánh toàn diện mức hưởng thụ của dân cư đối với ảnh hưởng của tăng trưởng và phát triển kinh tế về cả 3 khía cạnh : Thu nhập, sức khỏe, giáo dục. Tiêu chuẩn đánh giá: Theo tổ chức phát triển nhân lực của Liên hiệp quốc, trình độ HDI của thế giới được chia làm 3 nhóm: Nhóm quốc gia có HDI thấp : HDI < 0.5 Nhóm quốc gia có HDI trung bình : Nhóm quốc gia có HDI cao : HDI > 0.8 Nhóm chỉ tiêu phản ánh bảo vệ môi trường: Các chỉ tiêu được sử dụng bao gồm: Mức độ ô nhiễm môi trường tiêu chuẩn quy định Lượng sử dụng tài nguyên lượng khôi phục, chế tạo. Ảnh hưởng của khu vực công và khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế: Khu vực công: Vai trò của khu vực công: Với khái niệm đã được giải thích rõ ràng ở phần cơ sở lý luận phía trên, chúng ta biết được “khu vực công” chính là thuật ngữ chỉ chung cho khu vực “kinh tế nhà nước”. Từ xưa đến nay, nền kinh tế nhà nước-kinh tế công luôn là một thành phần kinh tế vô cùng quan trọng ở bất cứ một quốc gia nào. Nó tạo ra một lượng lớn của cải vật chất phục vụ cho xã hội đặc biệt là các sản phẩm mang tính chất công cộng và dịch vụ như đường sá, cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông công cộng, giáo dục, y tế… mà ở các thành phần kinh tế khác không hoặc rất hiếm khi tham gia vào quá trình sản xuất hay tạo ra. Đó là một bộ phận kinh tế mà tùy theo mỗi quốc gia khác nhau, nó sẽ chiểm một tỉ trọng khác nhau. Tuy nhiên, có một thực tế cho thấy rằng, ở hầu hết các nước, tỉ trọng đóng góp của khu vực công là tương đối cao. Theo thống kê thì khoảng 12% các hoạt động kinh tế của các nước phát triển ở phương Tây là thuộc khu vực công. Trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa, khu vực công là thành phần kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất trong khi ở các nước có nền kinh tế hỗn hợp như Pháp, Ấn Độ, Indonesia, Brazil thì thành phần kinh tế này chiếm hơn ¼. Trong khi đó ở 24 nước công nghiệp hóa OECD thì thành phần này chiếm ít hơn 1/6(tính tới tháng 12-1995). Rõ ràng, không phải vô cớ mà khu vực công lại là một thành phần kinh tế vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong nền kinh tế của bất kỳ một nước nào. Chỉ cần lấy một vài ví dụ điển hình của một số nước chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng không nhỏ của nó. Trước đây, nếu không dựa vào kinh tế nhà nước thì làm sao trong một thời gian tương đối ngắn, Liên Xô có thể trở thành cường quốc. Ngày nay, đâu phải nền kinh tế Trung Quốc chủ yếu là do các doanh nghiệp tư nhân và các "hộ chuyên" góp sức tạo thành. Ngay tại những nước tư bản phát triển nhất, kết cấu hạ tầng cũng vẫn phải do nhà nước đảm nhận xây dựng và vận hành. Chẳng hạn, ở Anh, dưới thời Thủ tướng M. Thát-chơ, người ta không thể nào tư nhân hóa được hệ thống đường sắt mà chỉ bán các nhà ga và những đoàn tàu; nước Mỹ cũng không thể rao bán NASA và các nhà máy điện hạt nhân cho những tập đoàn tư bản kếch sù, dù đó là Bô-ing hay Mai-crô-xốp... Bài học của Mê-hi-cô, do hành động theo "đơn thuốc" của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) là tư nhân hóa ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước, đã dẫn đến thảm họa thế nào, chúng ta đều biết rõ. Dù không nói công khai, nhưng dưới nhiều hình thức, ở những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po,... kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò "bà đỡ" cho các doanh nghiệp vào những giai đoạn khó khăn, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài. Những năm gần đây, khi nền kinh tế trì trệ, các chính phủ Mỹ, Nhật Bản, không phải chỉ một lần, xuất dự trữ nhà nước mua cổ phiếu để cứu vãn một số công ty khi chúng bị chao đảo trên thị trường chứng khoán. Nói như thế mới thấy được vai trò của khu vực công là hết sức quan trọng. Vậy tại sao khu vực công lại quan trọng đến như vậy? Nó tác động như thế nào đến quá trinh phát triển kinh tế? để biết được điều đó, chúng ta sẽ đi vào phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của khu vực kinh tế công đối với quá trình phát triển kinh tế. Ảnh hưởng tích cực: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Khu vực công có vai trò rất lớn trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như chúng ta đã biết, khu vực công bao gồm nhiều khu vực khác nhau trong đó bao gồm khu vực tài chính. Khu vực kinh tế công thông qua các khu vực khác nhau đó kể cả khu vực tài chính sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo quan điểm của trường phái kinh tế mới (lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh), Mankiw (1992), King và Levine (1993) nhấn mạnh rằng một khu vực tài chính vững mạnh có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, đổi mới công nghệ (TFP), nghiên cứu và phát triển (R&D) thông qua các kênh cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp và hộ kinh tế gia đình. Hơn thế nữa, một khu vực tài chính vững mạnh không chỉ giới hạn chức năng huy động các nguồn vốn trong nước mà còn có chức năng rất lớn tới thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn bên ngoài nền kinh tế như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp (FPI). Trong khi đó các nhà kinh tế theo quan điểm lý thuyết ngân hàng [the bank-based theory] thì nhấn mạnh vai trò của các ngân hàng thương mại trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế theo quan điểm này cho rằng trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế tại các nước đang phát triển các ngân hàng thương mại không chỉ là các kênh huy động vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế mà còn có chức năng giảm thiểu các rủi ro tài chính thông qua việc cung cấp thông tin và tư vấn cho các nhà đầu tư. Do vậy, các ngân hàng thương mại có thể phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả, giảm thiểu các rủi ro tài chính, và tránh tạo ra các cú sốc về tài chính đối với các nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, để khu vực tài chính hoạt động hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì theo các nhà nghiên cứu theo quan điểm Lý thuyết về luật và tài chính như Levine (1999); Rajan và Zingales (1998), cần có một môi trường pháp lý hiệu quả. Lý thuyết này nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Nhà nước đặc biệt là các chính sách tiền tệ trong nền kinh tế. Như vậy, chỉ mới lấy đơn cử một khu vực nhỏ trong khu vực công là khu vực tài chính, chúng ta đã thấy được phần nào tầm quan trọng của nó trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu thiếu đi khu vực kinh tế công này thì quá trình phát triển kinh tế của toàn xã hội nói chung sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bình ổn thị trường Như chúng ta biết thị trường là nơi mà cầu và cung biến động không ngừng. Chỉ cần một chút bất ổn trong hai yếu tố này có thể dẫn đến tình trạng khủng hoảng hàng hóa (dư cung hoặc dư cầu) từ đó làm cho giá cả của hàng hóa có thể tăng vọt hoặc giảm một cách đáng kể. Để giúp bình ổn tình trạng đó, khu vực công chính là một bộ phận quan trọng. Thông qua đặc quyền của mình trong quá trình sản xuất, khu vực công của nhà nước sẽ quyết định sản xuất bao nhiêu cho phù hợp với cầu của thị trường. Chẳng hạn trong tình trạng cầu tăng vọt làm cho sản phẩm cung ứng trên thị trường không đủ, giá cả hàng hóa tăng lên các doanh nghiệp trong khu vực này sẽ tăng thêm khối lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, khu vực công còn ổn định thị trường thông qua một số các công cụ khác như quy định giá trần, giá sàn nhằm giúp bình ổn giá cả các sản phẩm tránh tình trạng tăng đột ngột gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc tình trạng giá giảm nhiều làm cho các công ty sản xuất thua lỗ. Một biện phát không kém phần hiệu quả đó là áp dụng chế độ độc quyền ở một số các mặt hàng hết sức cần thiết như điện, nước. Kiềm chế lạm phát Lạm phát hiện nay đang là một vấn đề đau đầu của hầu hết các quốc gia. Lạm phát có nhiều mức độ khác nhau. Đây là tình trạng khối lượng tiền trên thị trường dư thừa trong khi khối lượng hàng hóa vẫn giữ nguyên hậu quả là giá cả hàng hóa tăng nhanh. Đứng trước tình trạng đó, các doanh nghiệp trong khu vực công sẽ là bộ phận chủ lực trong việc cung ứng thêm sản phẩm ra thị trường, giúp ổn định giá cả. Song song với việc làm đó, khu vực tài chính, ngân hàng của khu vực công sẽ là những bộ phận chủ chốt trong việc điều tiết lạm phát bằng cách sử dụng các công cụ như lãi suất, các công cụ thị trường tự do như bán cổ phiếu ra…để giảm bớt lượng tiền cung ứng trên thị trường. Theo quy luật, khi tình trạng lạm phát tăng càng cao thì rõ ràng nguy cơ xảy ra tình trạng suy thoái, khủng hoảng kinh tế cũng sẽ dễ dàng hơn. Như vậy, nếu như các doanh nghiệp, bộ phận trong khu vực công không làm tốt nhiệm vụ, chức năng của mình và không có những biện pháp kịp thời để giải quyết thì nền kinh tế sẽ dễ dàng đi vào tình trạng suy thoái mà hậu quả nặng hơn là có thể gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài. Ảnh hưởng tiêu cực: Vấn đề chính sách, chế độ bao cấp, ưu tiên, độc quyền và bảo hộ Có thể nói chính sự bao cấp, ưu tiên, độc quyền và bảo hộ không hợp lý của nhà nước đã gây một kết quả trái với mong đợi, biến các DNNN trở thành những đứa con được quá nuông chiều, luôn nhũng nhiễu và thường tỏ ra kém cỏi khi phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của thực tế. Sự bao cấp, ưu tiên, độc quyền của nhà nước là nguyên nhân cơ bản làm cho các DNNN không được điều hành theo đúng cơ chế thị trường và hậu quả là các DNNN mất sức cạnh tranh luôn phải cậy nhờ vào sức mạnh và sự can thiệp vốn rất hạn hẹp của bà mẹ nhà nước. Trong xu thế hội nhập, nếu không nhanh chóng xoá bỏ chế độ bao cấp, ưu tiên, độc quyền thì DNNN khó có thể có được sức mạnh thực sự để cạnh tranh có kết quả với các doanh nghiệp trong ngoài nước trên thị trường trong nước và quốc tế chứ chưa nói đến vai trò chủ đạo của nó, nghĩa là nó phải kinh doanh có hiệu quả nhất, có sức cạnh tranh lớn nhất và gương mẫu đi đầu trước mọi thách thức trong quá trình hội nhập. Ta có thể thấy căn bệnh độc quyền dẫn tới những phi lý về giá cả làm thiệt hại đến lợi ích người tiêu dùng và ảnh hưởng tới sự cạnh tranh và sự phát triển lành mạnh của chính các doanh nghiệp nhà nước. Giá sản phẩm và dịch vụ của các công ty độc quyền bất hợp lý làm biết bao doanh nghiệp khốn đốn và mất sức cạnh tranh một cách oan uổng. Những ưu tiên, độc quyền kiểu này chính là nguyên nhân dẫn đến những nghịch lý đang tồn tại như một căn bệnh di căn làm trở ngại sự phát triển bình thường của cả nền kinh tế. Rõ ràng là việc xoá bỏ những ưu tiên, độc quyền cho các DNNN không chỉ có tác dụng làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên vững mạnh và có sức cạnh tranh lớn hơn mà quan trọng hơn, nó còn là một điều kiện tiên quyết để cho cả nền kinh tế phát triển ổn định theo những quy luật thông thường. Vấn đề đầu tư Hiện nay, ở một số nước, nhất là các nước đang phát triển trong đó có cả Việt Nam, có một thực trạng là các DNNN hiện sử dụng một tỷ lệ lớn các nguồn lực nhưng lại tạo ra quá ít việc làm và có mức tăng năng suất lao động thấp. Đầu tư, phát triển sản xuất của các DNNN thiếu hiệu quả do không gắn với thị trường và thiếu chiến lược đầu tư hợp lý. Nhiều tác giả phân tích những tác hại của hiện tượng các DNNN đầu tư mua thiết bị, máy móc, công nghệ, lạc hậu hàng chục năm so với các nước phát triển nhưng theo chúng tôi vấn đề còn trầm trọng hơn nếu các DNNN được đầu tư dàn trải và sai định hướng. Bài học nhiều doanh nghiệp quốc doanh đầu tư phát triển xi măng lò đứng để rồi chết đứng là một ví dụ. Theo chúng tôi, sự lộn xộn và thiếu hiệu quả đầu tư của các DNNN thể hiện ngay trong chiến lược đầu tư ở tầm vĩ mô. Chúng ta chạy theo sự đầu tư dàn trải vào các ngành, các lĩnh vực trong khi ngân sách nhà nước khá hạn chế. Chúng ta chưa thể quên được bài học đắt giá của cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997 mà một trong những nguyên nhân chủ yếu của nó là sự sai lầm của chiến lược đầu tư. Trong thực tế hội nhập và phân công lao động quốc tế hiện nay cho phép chúng ta không phải lặp lại tất cả những gì các quốc gia đi trước đã trải qua. Trong chiến lược đầu tư hiện nay, với vị thế, hoàn cảnh của đất nước, chúng ta nên tập trung đầu tư phát triển dịch vụ, du lịch và công nghệ thông tin, đó là những ngành chúng ta có cơ hội hợp tác và cạnh tranh được với các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Vấn đề sử dụng nhân lực và chính sách tiền lương Tại một số nước hiện nay, nhất là ở các nước đang trong tình trạng ở các giai đoạn đầu của quá trình thực hiện nền kinh tế theo chế độ đa dạng hóa các thành phần kinh tế thì sự yếu kém của các DNNN một phần là do không thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Một thực tế là ngày nay lực lượng chất xám trong đó có nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, có xu hướng bị thu hút về khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn. Về bản chất đây là hiện tượng bình thường của kinh tế thị trường, các DNNN với tiền lương thấp hơn đương nhiên khó lòng thu hút được đội ngũ lao động có chất lượng cao. Kết quả là các DNNN vốn dĩ yếu kém càng ngày càng mất đi sức mạnh cạnh tranh về chất lượng đội ngũ lao động của mình. Thực tế cũng cho thấy, các DNNN chỉ có thể thực sự có vai trò chủ đạo khi nó là một mô hình kinh doanh năng động, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao và gương mẫu đi đầu trong nhiệm vụ cạnh tranh và hội nhập quốc tế đầy khó khăn ngày nay. Vì vậy, đổi mới DNNN phải là thực hiện những giải pháp khắc phục những thiếu sót cơ bản kể trên chứ không thể chỉ đổi mới thông qua các giải pháp mang tính tổ chức, tình thế. Thành công của công tác đổi mới các DNNN chắc chắn sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, việc đổi mới các DNNN cần đặt trong bối cảnh chung của sự nghiệp đổi mới nền kinh tế gắn với quá trình hội nhập. Đặt các DNNN bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần và vận hành chúng theo những quy luật kinh tế thị trường, đó là giải pháp cơ bản để đổi mới và hướng tới mục tiêu "giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần" ở các quốc gia này. Ví dụ về ảnh hưởng của khu vực công đối với quá trình phát triển kinh tế: Trên thế giới Ngày nay, như chúng ta đã nói ở trên, khu vực kinh tế công-kinh tế nhà nước vẫn là một bộ phận không thể thiếu trong nội bộ của bất kỳ một quốc gia nào. Với vai trỏ đóng góp không ít của nó, chúng ta có thể thấy được điều này. Chúng ta còn có thể thấy rõ hơn thông qua ví dụ cụ thể về những đóng góp không nhỏ của bộ phận kinh tế này ở một số quốc gia trong cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong xu thế toàn cầu hoá đang phát triển theo chiều sâu và bề rộng nên phạm vi tác động rất rộng lớn, sự lan toả rất nhanh chóng. Xem xét vai trò và tác động của nhà nước đối với cuộc khủng hoảng lần này, nổi rõ hai khía cạnh: Một là, tuy không nước nào thoát khỏi sự tác động xấu do cuộc khủng hoảng này gây ra, nhưng thực tiễn cho thấy mức độ ảnh hưởng từ các nước và các khu vực rất khác nhau: Các nền kinh tế càng “nhiều nhà nước” thì càng ít chịu thiệt hại, ngược lại các nền kinh tế càng “ít nhà nước” thì tổn hại càng nặng nề: Có thể thấy rõ điều này qua bảng so sánh sau đây: Tăng trưởng lạm phát năm 2008 và dự báo năm 2009 (IMF) Đơn vị tính:  % (Nguồn: Consensus Ecoromics, IMF (2009) Tăng trưởng Lạm phát (theo CPI) Các nền kinh tế 2008 Dự báo 2009 2008 Dự báo 2009 Hoa Kỳ 1,2       - 0,7 4,0 1,6 Khu vực đồng Euro 1,0       - 0,5 3,3 1,9 Nhật Bản 0,4       - 0,2 1,6       - 0,3 Hàn Quốc 4,0 2,0 4,7 3,0 Singapore 4,3 3,0 5,9 3,0 Thái Lan 2,0 2,0 6,5 3,1 Ấn Độ 6,9 6,3 9,6 4,3 Trung Quốc 9,3 8,5 6,1 3,4 Rõ ràng Hoa Kỳ là nước thực hiện cơ chế thị trường tự do sâu rộng nhất, nhà nước quản lý ít nhất, bị tác động mạnh nhất và nền kinh tế lún sâu nhất trong bãi lầy khủng hoảng (tăng trưởng kinh tế dự báo năm 2009 là âm 0,7%); Ngược lại, Trung Quốc có nền kinh tế được điều hành quản lý chặt chẽ và hiệu quả nên bị ảnh hưởng ít nhất (dự báo tăng tổng kinh tế năm 2009 khoảng 8,5%). Hai là, ngay sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, hầu như tất cả chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế đã nhanh chóng vào cuộc, tìm mọi giải pháp có thể để khắc phục hậu họa của nó: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và nhiều nền kinh tế thế giới đã phải phối hợp sử dụng nguồn lực tài chính chưa từng có và tất cả những biện pháp mạnh nhất để hỗ trợ thanh khoản, ứng cứu hệ thống tài chính khỏi sụp đổ. Các nhà quản lý của 20 nền kinh tế hàng đầu trên thế giới đã nhất trí đồng thuận với kế hoạch sử dụng hàng ngàn tỉ USD nhằm khơi thông dòng chảy thương mại vực dậy đà tăng trưởng của kinh tế thế giới. Các gói cứu trợ và kích thích kinh tế khổng lồ của các nước đã được thực thi. Gói cứu trợ của Mỹ lên tới hơn 2.000 tỉ USD, Anh 850 tỉ, Liên minh Châu Âu hơn 200 tỉ, Nhật Bản 255 tỉ, Hàn Quốc 141 tỉ. Với tất cả các giải pháp can thiệp mạnh và sự quyết tâm lớn, nền kinh tế của các nước đã có những bước chuyển biến theo chiều hướng khả quan, tín hiệu kinh tế phục hồi ở các nước đều nhanh hơn dự tính. So với tình hình chung ở tất cả các nền kinh tế trên thế giới, kinh tế Trung Quốc vừa ít bị ảnh hưởng do khủng hoảng vừa phục hồi một cách nhanh chóng, khả quan hơn. Trong 9 tháng đầu năm 2009, Kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trưởng 7% đến 8%, Quý 3/2009 là 8,9%. Các nhà kinh tế nhận định rằng, gói kích cầu trị giá 586 tỉ USD được áp dụng từ tháng 11 năm 2008 đến nay đã có tác động quyết định đến sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc. Với đà này, Trung Quốc sẽ đạt mục tiêu đề ra là tăng trưởng kinh tế hơn 8% trong cả nước năm 2009. Đây là yếu tố quan trọng tạo thêm nhiều việc làm cũng như đảm bảo ổn định xã hội. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, chính sự tăng trưởng ngoạn mục của kinh tế Trung Quốc đã góp phần quan trọng để kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng. Kết quả này cũng chứng tỏ vai trò tích cực và hiệu quả không thể phủ nhận của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này.Qua ví dụ trên, chúng ta có thể thấy được phần nào tầm quan trọng của bộ phận kinh tế nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế hiện nay. Trong nước Ở Việt nam, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ phận kinh tế nhà nước (khu vực công) vẫn là bộ phận chủ lực và không thể thiếu được. Cụ thể, Tính đến 31/12/2005, cả nước có 3067 công ty nhà nước (bằng 58,2% số lượng công ty nhà nước năm 2000) và 944 doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước. Tuy nhiên, có một thực tế đó là số lượng các công ty công ở nước ta hiện nay đang có xu hướng giảm. Quan sát bảng ở bên dưới chúng ta có thể thấy được điều này: Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp Quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước đã được nâng lên, so với thời điểm 1/1/2001, vốn nhà nước tại công ty nhà nước tăng trên 50%, quy mô vốn của công ty nhà nước tăng 1,08 lần, đầu tư tài sản cố định tăng 15,8%/ năm.. Kết quả sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục có sự tăng trưởng; cụ thể là: số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 79,4%, hòa vốn chiếm 5,4% và thua lỗ là 15,2%; doanh thu tăng bình quân 11,2%/ năm trong giai đoạn 2001-2005, tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm 2005 đạt 15,4%. Căn cứ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty nhà nước, theo báo cáo chưa đầy đủ thì kết quả phân loại năm 2004 đối với 2.848 công ty nhà nước gồm: 42% xếp loại A, 41% xếp loại B và 17% xếp loại C. Đồng thời, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và vẫn là “lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, anh ninh” (Nghị quyết Trung ương ba khoá IX). Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước cải thiện đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm 2005: 639 USD; năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên 1.000 USD. Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)… Vai trò của bộ phận kinh tế Nhà nước ta đối với kinh tế cà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tưđối với quá trình phát triển kinh tế.doc
Tài liệu liên quan