Đề tài Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp phần mềm Việt Nam

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I 3

NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM Ở VIỆT NAM 3

1. Khái niệm 3

2. Các yếu tố để phát triển CNPM 5

3. Chính sách và các yếu tố liên quan đến chính sách phát triển CNPM 6

3.1 Yếu tố hạ tầng 7

3.2 Yếu tố thị trường 9

3.3 Yếu tố nhân lực 10

3.4 Yếu tố tài chính 12

3.5 Yếu tố công nghệ 12

4. Tình hình phát triển của CNPM trên thế giới và vị thế của CNPM Việt Nam. 13

4.1 Khái niệm và quy mô 13

4.2 Công nghiệp Phần mềm Ấn độ 13

4.3 Quá trình hình thành và phát triển của các DNPM ở Trung Quốc 18

4.4 Vị thế của DNPM Việt Nam 18

5. Thị trường phần mềm trong nước 20

5.1 Đánh giá chung 20

CHƯƠNG II 22

HIỆN TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP 22

PHẦN MỀM VIỆT NAM 22

1. Tổng quan về doanh nghiệp phần mềm 22

1.1 Khái niệm 22

1.2 Phân loại DNPM Việt Nam 22

1.3 Tỷ lệ DNPM trong số các DN đăng ký hoạt động PM 23

1.4 Môi trường hoạt động của DNPM. 23

1.5 Đánh giá nhu cầu của các DNPM để hình thành và phát triển 25

1.6 Ứơc tính số lượng DNPM thực sự hoạt động trong cả nước 27

2. Vai trò của các khu CNPM tập trung đối với sự phát triển DNPM Việt Nam 27

2.1 Tình hình hoạt động của các khu CNPM tập trung 27

2.2 Vai trò hỗ trợ phát triển DNPM của các khu CNPM tập trung 31

3. Sự hình thành và phát triển của một số DNPM Việt Nam 37

3.1. Công ty cổ phần phần mềm kế toán Bravo 37

3.2. Công ty cổ phần dịch vụ công nghệ tin học HPT. 40

3.3. Công ty phần mềm quản lý doanh nghiệp FAST 47

4. Những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức đối với sự hình thành và phát triển của DNPM Việt Nam 52

4.1 Phân tích thuận lợi 52

4.2 Phân tích khó khăn 55

4.3 Phân tích thời cơ 61

4.4 Phân tích thách thức 67

Các nội dung Nhà nước phải làm để giữ vai trò chủ đạo 69

8. Các đề xuất có liên quan đến cơ chế, chính sách (bộ ngành trung ương) để phát triển DNPM. 72

KẾT LUẬN 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74

 

 

 

doc77 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp phần mềm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tại đây từ năm 2002, hiện nay vẫn đang được tiếp tục với một số dự án quy mô nhỏ. 2.2 Vai trò hỗ trợ phát triển DNPM của các khu CNPM tập trung a) Ưu thế của các khu CNPM tập trung Khu CNPM tập trung là các khu sản xuất phần mềm quy mô lớn, tập trung nhiều DNPM. Đây còn là nơi các nhà khoa học, các lập trình viên được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để nghiên cứu – phát triển sản phẩm mới, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng chất xám cao. Bên cạnh chức năng sản xuất và dịch vụ của các DNPM, ba lĩnh vực được đặc biệt ưu tiên và hỗ trợ trong các khu CNPM tập trung là nghiên cứu và phát triển trong công nghệ phần mềm, đào tạo nhân lực chất lượng và trình độ cao, ươm tạo DNPM mới cho ngành CNPM. Các nghiên cứu trên toàn thế giới còn cho thấy có 04 điều kiện quan trọng để các khu CNPM tập trung phát triển là : Sự tiếp cận dễ dàng những nguồn nhân lực lành nghề. Khả năng kết nối viễn thông và Internet với chi phí thấp. Dễ dàng và thuận tiện trong giao thông (gần sân bay quốc tế). Có các điều kiện sống và sinh hoạt chất lượng cao. Xây dựng và phát triển các khu CNPM tập trung là một trong những yếu tố hàng đầu trong phát triển CNPM và phải dựa trên hai yếu tố chính là “dành các chính sách ưu đãi tối đa” và “đầu tư tập trung có trọng điểm” vào một số khu CNPM tập trung. Làm tốt việc này, các khu CNPM tập trung sẽ trở thành hạt nhân cho nền CNPM quốc gia, là nơi sản sinh ra những DNPM có tầm vóc lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thực tiễn ra đời và quá trình hoạt động của QTSC và các khu CNPM tập trung khác tại TP. HCM trong 05 năm qua đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển của CNPM Việt Nam, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia sản xuất phần mềm và khẳng định được sự cần thiết của mô hình này. b) Mô hình Vườn ườm DNPM trong các khu CNPM tập trung Trong thực tiễn kinh doanh, do tiềm lực về tài chính không mạnh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thường bị bất lợi về cạnh tranh hơn sơ với những doanh nghiệp lớn. Họ vấp phải những rào cản thâm nhập thị trường, khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính, tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, tiếp cận các hoạt động nghiên cứu và phát triển, chi phí giao dịch cao hơn khi cần tiếp cận với các thị trường nước ngoài, dẫn đến tỷ lệ các SME thất bại là tương đối cao. Điều này cũng đúng cho các DNPM tại một quốc gia mới phát triển CNPM như Việt Nam, như thực tế khảo sát cho thấy. Vai trò của Nhà nước là phải tìm giảm bớt tỷ lệ thất bại của DNPM, khắc phục những khiếm khuyết của thị trường bằng cách cung cấp những dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và tài chính cho các DNPM mới thành lập, quy mô nhỏ để giúp họ cải thiện tính cạnh tranh, tiếp cận được các thị trường mới hoặc phát triển những sản phẩm và dịch vụ mới. Vườn ươm DNPM sẽ cung cấp một môi trường hỗ trợ thuận lợi cho chủ nhân của các DNPM mới tồn tại và phát triển. Việc cung cấp những dịch vụ cần thiết cho DNPM trên cơ sở “một cửa” cho phép giảm tổng chi phí hoạt động của DNPM. Vườn ươm nuôi dưỡng những DNPM trẻ, giúp đỡ họ sống sót và tăng trưởng trong thời gian khởi nghiệp - thời kỳ dễ bị thất bại và tổn thương nhất. Một cách cụ thể hơn, Vườn ươm DNPM sẽ đem đến: Dịch vụ phát triển doanh nghiệp: giúp đỡ DNPM mới thành lập các kinh nghiệm về một lĩnh vực xác định, có thể liên quan đến việc lập kế hoạch kinh doanh, đào tạo kỹ năng quản lý, tiếp cận với trình độ cao về kế toán, pháp luật, tiếp thị và tài chính, và những hình thức tư vấn đặc thù khác. Vườn ươm có thể tạo ra hay điều hành Quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào các doanh nghiệp được ươm tạo. Mạng tư vấn doanh nghiệp: Vườn ươm DNPM tự bản thân nó không thể cung cấp tất cả các phương tiện và những dịch vụ cần thiết, vì những tài nguyên chỉ có hạn. Thành mạng lưới với những nhà cung cấp bên ngoài là việc cần phải làm. Một mạng tư vấn hoạt động chung quanh Vườn ươm, hoặc một mạng lưới hỗ trợ phát triển DNPM gồm các chuyên gia tư vấn, nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, nhà giáo và doanh nhân thành đạt giàu kinh nghiệm sẽ sẵn sàng cung cấp tư vấn và các sự giúp đỡ cần thiết cho doanh nghiệp. Những người tham gia vào mạng lưới tư vấn sẽ được hưởng lợi thông qua hoạt động tư vấn, vì họ có được một nguồn khách hàng càng ngày càng nhiều và đây là một kênh thông tin tiếp thị rất có hiệu quả. Hiệp lực điều hành: Đóng góp quan trọng nhất của những Vườn ươm doanh nghiệp tới các doanh nghiệp trong Vườn ươm là các cơ hội mà chúng cung cấp cho chủ doanh nghiệp, để hợp tác và phát triển những mối quan hệ làm ăn với những chủ doanh nghiệp khác. Một đóng góp quan trọng khác mà việc sử dụng cùng trụ sở của các chủ doanh nghiệp có thể làm, là sẽ khắc phục được sự cô đơn của môi trường làm việc. Khuyến khích những quan hệ làm ăn bên trong Vườn ươm doanh nghiêp, trao đổi ý tưởng và tư vấn không chính thức sẽ tạo nên một mối liên hệ khăng khít giữa các doanh nghiệp. Không gian làm việc linh động với giá cả chấp nhận được: dưới dạng văn phòng làm việc hoặc dưới dạng phân xưởng, dựa trên cơ sở “dễ vào và dễ ra”, từ những không gian nhỏ (10 mét vuông), trong một thời gian ngắn (chỉ cần đăng ký trước 1 tháng), khả năng di chuyển vào một vị trí khác lớn hơn ngay trong Vườn ươm. Điều quan trọng là môi trường Vườn ươm, cả không gian bên trong lẫn công việc bên ngoài, đều phải được cung cấp với những tiêu chuẩn cao nhất, để xúc tiến kế hoạch cho những khách hàng mới nhưng cũng giúp tiếp thị những doanh nghiệp cho khách hàng. Cần có một địa điểm đầu mối ở đó mọi người có thể gặp gỡ và chia sẻ kinh nghiệm, thành công cũng như thất bại của họ. Nơi đây có thể bao gồm một căng tin, một nhà bếp riêng biệt và phòng vệ sinh. Những dịch vụ dùng chung: Bao gồm thư ký hỗ trợ, gọi điện trả lời, lễ tân và dịch vụ chuyển thư, truy nhập máy tính và các thiết bị văn phòng khác, phòng học và (trong vài trường hợp) căng-tin. Vườn ươm cần cung cấp cho tất cả các doanh nghiệp thuê được phép truy nhập tới một “cơ sở hạ tầng CNTT-TT” chung, nơi mà các doanh nghiệp truy cập Internet và được cung cấp những dịch vụ hỗ trợ khác. Dịch vụ hậu mãi và chăm sóc khách hàng: một Vườn ươm doanh nghiệp sẽ tìm cách cung cấp sự giúp đỡ liên tục cho những doanh nghiệp thuê sau khi họ rời Vườn ươm, và có thể cung cấp những dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ trong vùng nói chung. sự sẵn có những giải pháp đầy đủ và thích hợp là rất quan trọng, ngoài việc có đủ không gian làm việc. c) Các loại hình Vườn ươm doanh nghiệp Mô hình Vườn ươm có thể phân loại thành 2 loại: (1) Các vườn ươm phi lợi nhuận và (2) các vườn ươm vì lợi nhuận. Nhóm thứ nhất là các vườn ươm được các tổ chức, cơ quan của Chính phủ, các Trường đại học và các tổ chức không vụ lợi tài trợ, mục đích hướng đến là để phát triển kinh tế qua việc tăng công ăn việc làm, đa dạng hoá cơ sở kinh tế, tăng nguồn thu về thuế cũng như thương mại hoá các công nghệ mới. Các Vườn ươm này thường kết hợp với các chương trình nghiên cứu tại các trường đại học. Nhóm thứ hai là các Vườn ươm mang tính chất phi Chính phủ và thường là do các nhóm đầu tư, các nhà đầu tư thiện chí hay các công ty tư nhân vận hành. Hình thức đầu tư này được phổ biến khá rộng rãi tại EU và cũng đã đem lại nhiều kết quả khả quan trong những năm qua. Theo kinh nghiệm các nước, việc theo đuổi một chiến lược Vườn ươm phi lợi nhuận dựa trên sự bao cấp của Nhà nước với niềm tin sẽ có chiếc chìa khoá kỳ diệu để đi vào Vương quốc công nghệ cao sẽ làm thui chột sự năng động và hiệu quả trong hoạt động của các Vườn ươm – vì dù sao Vườn ươm cũng là một thành phần, thậm chí là thành phần năng động nhất của nền kinh tế. Điều quan trọng là “gieo mầm” hoạt động của Vườn ươm hơn là bao cấp một cách vô điều kiện. Một khi chính quyền chấp nhận nghĩa vụ bao cấp, trọng tâm sẽ dịch chuyển từ việc nuôi dưỡng các công ty mới (các doanh nghiệp mới được hưởng lợi) sang việc xây dựng và duy trì những khu liên hợp khổng lồ (ở đây chỉ các nhà thầu xây dựng và các công chức quản lý được hưởng lợi). Một mô hình kinh doanh tốt phải nỗ lực vì mục tiêu hoạt động tự hạch toán và ở đây Nhà nước chỉ đóng vai trò người tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự vận hành của những Vườn ươm doanh nghiệp. Tuy nhiên ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển Vườn ươm hầu hết các nước trên thế giới đều chọn mô hình Vườn ươm phi lợi nhuận (nonprofit) hoặc bán phi lợi nhuận (semi-nonprofit). Điều này dễ hiểu bởi để vận hành thành công mô hình Vườn ươm cần có khả năng tài chính dồi dào và kinh nghiệm quản lý tốt. Một giải pháp tốt cho việc hình thành và phát triển các Vườn ươm doanh nghiệp là hợp tác liên doanh với các đối tác nước ngoài, để đòi hỏi kinh nghiệm quản lý của họ. Về hình thức pháp lý của Vườn ươm. Theo kinh nghiệm của Pháp, vận hành Vườn ươm ban đầu (3 năm) có thể dưới dạng các công ty khuyết danh, nhóm quyền lợi công cộng (GIP) hay là công ty thương mại tự cân đối tài chính – các Vườn ươm này tiếp tục hưởng một vài trợ giúp của Chính phủ, nhưng sẽ tìm được các nguồn tài chính khác. Như vậy, có thể khẳng định Vườn ươm là một doanh nghiệp. Theo pháp luật Việt Nam, Vườn ươm có thể hoạt động dưới các hình thức cụ thể như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, công ty cổ phần d) Thực tiễn và kinh nghiệm triển khai mô hình “Vườn ươm DNPM” Đầu tư phát triển các Vườn ươm DNPM tại Việt Nam là hết sức cần thiết, vì đa số các DNPM mới thành lập còn rất yếu trong kinh nghiệm quản lý và khả năng thâm nhập thị trường. Sự liên kết giữa các DNPM trong tổ hợp Vườn ươm sẽ giúp họ có được một nền tảng vững vàng hơn trong thời gian đầu mới thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Vườn ươm DNPM không phải là một khái niệm hoàn toàn mới đối với CNPM Việt Nam. Ở TP. HCM từ năm 2000 cho đến nay đã có một số dự án nghiên cứu và áp dụng mô hình này. Hoạt động “ươm tạo” các DNPM tại TP. HCM có thể kể trước tiên là tại QTSC. Xây dựng theo mô hình một khu CNPM tập trung, mục đích hoạt động của QTSC khong chỉ là tạo môi trường thu hút các DNPM đang tồn tại tập trung lại thành một khối, một cộng đồng, để chia sẻ các nguồn tài nguyên và hỗ trợ, hợp tác với nhau, mà còn là một môi trường “nâng đỡ” cho các DNPM mới thành lập hoặc đang chuẩn bị thành lập. Tuy nhiên những hỗ trợ ưu ái các DNPM hoạt động tại QTSC được hưởng còn nặng về cơ sở hạ tầng. QTSC vẫn chưa thể hiện được kinh nghiệm, sự hiểu biết trong việc nhanh chóng nắm bắt những nhu cầu của DNPM mới, trong các dự án kinh doanh mới và giúp cho các dự án đó nhanh chóng được thức hiện. Ngày 13/09/2005, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra quyết định số 15/2005/QĐ-BKHCN về việc Ban hành Quy định tạm thời về việc tổ chức thực hiện nhiệm vự ươm tạo công nghệ trong các trường đại học. Đây là một bước tiến đáng kể trong nhận thức của lãnh đạo về vai trò ươm tạo công nghệ mà Vườn ươm Unisoft ĐHQG đã thử nghiệm trước đó 03 năm. 01 tháng sau khi có quyết định này, tại Đại học Quốc gia TP. HCM đã có 4 đề tài đăng ký ươm tạo được xét duyệt với kinh phí trên 2,5 tỷ đồng (trong tổng kinh phí 4 tỷ đồng dự kiến chi cho hoạt động ươm tạo công nghệ), chứng tỏ nhu cầu lấy công nghệ làm nền tảng để hình thành các doanh nghiệp công nghệ cao là rất thực tế. Hiện nay, dự án “Vườn ươm DNPM” tại QTSC, với sự hỗ trợ về chuyên gia và tài chính của Uỷ ban Châu Âu (EC) đang được triển khai. Đây là một trong tiểu chương trình 2 thuộc Chương trình Hỗ trợ khu vực tư nhân của EC tại Việt Nam. Mục tiêu tổng thể của chương trình này là “thúc đẩy các hoạt động của khu vực tư nhân, đặc biệt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, và thúc đẩy sự hội nhập của khu vực này vào nền kinh tế quốc tế”. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh việc cố gắng cải thiện môi trường pháp lý và hành chính cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao năng lực của các hiệp hội kinh doanh và sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, một trong các kết quả chính mà Chương trình hướng đến là “tạo ra các doanh nghiệp mới qua việc thành lập các Vườn ươm công nghệ - kinh doanh kiểu mẫu trong các ngành đã được lựa chọn (ngành chế biến thực phẩm ở Hà Nội và CNTT ở TP. HCM)”. 3. Sự hình thành và phát triển của một số DNPM Việt Nam 3.1. Công ty cổ phần phần mềm kế toán Bravo a) Sự hình thành Công ty cổ phần phần mềm kế toán Bravo được thành lập theo giấy phép số 4467/GP-UB ngày 07 tháng 10 năm 1999 của Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội. Được Sở Kế Hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 056682 ngày 18 tháng 10 năm 1999 Bravo là công ty chuyên sâu trong việc phát triển phần mềm kế toán và phần mềm quản trị tài chính. Với những kinh nghiệm thực tế giúp Bravo đã đáp ứng được những yêu cầu quản lý của các đơn vị và đây cũng chính là nền tảng để công ty phát triển phần mềm kế toán Bravo với những đặc điểm và chức năng đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về kế toán và chức năng quản trị. Phần mềm kế toán Bravo được thiết kế theo tư tưởng “hệ thống mở”, cho phép dễ dàng bổ xung và hiệu chỉnh chương trình theo yêu cầu của người sử dụng. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài với những phiên bản phần mềm kế toán đầu tiên Bravo 3.0,4.0,5.0,6.0 và hiện là Bravo 6.3, nó được xem là phần mềm dễ sử dụng nhất, đáp ứng các đòi hỏi khắt khe của thực tế và mang tính quản trị cao. Điều này cũng xuất phát từ chính mục tiêu phát triển của công ty là : “ trở thành nhà cung cấp phần mềm số 1 trong lĩnh vực phần mềm kế toán quản trị” Nhân lực của công ty : hiện tại công ty có hơn 70 nhân viên (gồm 60 lập trình viên), làm việc tại 03 văn phòng gồm Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Họ là những nhân viên chuyên nghiệp, trẻ, năng động, sáng tạo đã được đào tạo có bài bản, hiểu biết sâu sắc về kế toán tài chính và có khả năng triển khai, lập trình tốt. Công ty đã và đang triển khai một số dự án lớn được tài trợ bởi các tổ chức quốc tế như : Ngân Hàng Thế Giới, Chính Phủ Đan Mạch hay tổ chức SIDA của Thuỵ Điển, các dự án lớn trong nước như tổng công ty gang thép Thái Nguyên, công ty than nội địa, tổng công ty Du lịch Bến Thành, công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm dầu khí điện than Cà Mau Trong quá trình phát triển, công ty luôn ý thức được rằng con người là yếu tố quan trọng nhất để đi đến thành công. Chính vì vậy, công ty luôn có các khoá đào tạo cho nhân viên về nghiệp vụ, công nghệ, kỹ năng làm việc. Ngoài ra, công ty còn cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo của Ngân Hàng Thế Giới, các khoá cập nhật văn bản pháp luật Bộ Tài chính, các khoá tập huấn về các chuẩn mực kế toán mới của Việt Nam. Trong khi hầu hết các công ty phần mềm trong buổi đầu thường chọn hướng đi dễ tiếp cận, đơn giản thì những người sáng lập Bravo lại nghĩ khác. Để khẳng định mình trên thương trường họ cần chọn hướng đi chuyên nghiệp và bài bản hơn; dù có chông gai. Với vốn kinh nghiệm tích luỹ được từ quá trình lặn lội trong lĩnh vực phần mềm trước đó, tháng 10 / 1999, 3 chàng trai trẻ, những người sáng lập Bravo đã chính thức khai sinh công ty . Và lĩnh vực họ chọn là phần mềm kế toán quản trị doanh nghiệp, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm quản trị, một mảng “yếu” của phần mềm Việt Nam nói chung. “Đừng nghĩ có nhiều công ty cung cấp là thị trường phần mềm kế toán đã bão hoà”; ông Phạm Trung, giám đốc Bravo nhận xét “Chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam luôn thay đổi và đang tiến tới xây dựng các chuẩn mực kế toán. Các doanh nghiệp có xu hướng chú trọng hơn tới công tác quản trị doanh nghiệp. Nên kế toán không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng vấn đề nghiệp vụ với những con số đơn thuần mà còn là công cụ để điều hành doanh nghiệp. Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho thấy nhiều cơ hội rộng mở cho những DNPM có cái nhìn nghiêm túc với thị trường và có khả năng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của nhà quản lý” b) Sự phát triển của công ty Ý thức được tàm quan trọng của chất lượng dịch vụ nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, do vậy công ty đã triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và đã áp dụng thành công hệ thống chuẩn hoá tất cả các quy trình làm việc trong các phòng ban của công ty. Thành công của buổi ban đầu thành lập : công ty đã tạo được dấu ấn với thị trường gần 200 công ty làm phần mềm kế toán ở Việt Nam không phải là điều dễ! Nhưng những người trẻ tuổi ở công ty phần mềm kế toán Bravo đã làm được điều đó và làm một cách tự tin như chính cái tên của họ “ Hay lắm!”. Bravo là một ví dụ điển hình về mô hình của các công ty phần mềm Việt Nam nói chung : tuổi đời trung bình chỉ 26. Trong khi giới làm chính sách và các nhà quản lý đang đau đầu với vấn đề làm thế nào để phát triển thị trường phần mềm trong nước thì một công ty phần mềm trẻ như Bravo vẫn hết sức lạc quan với tốc độ tăng trưởng của Bravo luôn đạt năm sau hơn năm trước vài chục phần trăm. Năm 1999: Triển khai thành công phần mềm kế toán cho hơn 30 khách hàng đầu tiên, trong đó có những khách hàng lớn như Công ty nhựa thiếu niên tiền phong, Cấp nước Hải Phòng, gạch ngói Đồng Nai, Việc Vacxin Nha Trang, Tập Đoàn Hoà Phát Năm 2000: Triển khai thành công phần mềm kế toán cho hơn 80 khách hàng. Đặc biệt là công ty đã bắt đầu triển khai phần mềm cho các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài và những công ty sản xuất công nghiệp lớn hạch toán cực kỳ phức tạp như : dệt may Thắng Lợi, công nghiệp FUSHENG, công ty sản xuất thiết bị điện (05 đơn vị). Triển khai thành công phần mềm kế toán quản trị cho công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm khí VietGas, thoả thuận với công ty than nội địa về việc triển khai phần mềm cho các đơn vị trực thuộc. Năm 2001: Triển khai thành công phần mềm kế toán cho hơn 110 khách hàng trong đó có những dự án triển khai trên diện rộng nhiều đơn vị thành viên như công ty lương thực Miền Nam, công ty công nghệ thực phẩm miền trng Focosev, công ty lương thực Miền trung Foodico Năm 2002: Triển khai thành công phần mềm kế toán cho hơn 140 khách hàng. Trong đó có công ty thuốc lá An Giang, Công ty RedBullđặc biệt phần mềm Bravo được đánh gía là phần mềm chuyên nghiệp trong việc hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm. Ký hợp đồng thoả thuận hợp tác với công ty kiểm toán Việt Nam về cung cấp và triển khai phần mềm kế toán cho các doanh nghiệp do VACO tư vấn, kiểm toán tài chính. Năm 2003: Triển khai thành công phần mềm kế toán cho hơn 180 khách hàng. Trong đó có công ty sứ vệ sinh Inax, công ty Nichias Việt Nam, đặc biệt là công ty gang thép Thái Nguyên. Năm 2004: Triển khai thành công phần mềm kế toán cho hơn 210 khách hàng, lần đầu tiên triển khai thành công phần mềm BOMs cho công ty LG-IS Việt Nam. Đồng thời năm 2004 công ty cũng đã chính thức áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000. Năm 2005: doanh thu đạt trên 07 tỷ đồng và được các giới CNTT đánh giá rất cao. Công ty cũng đã hợp tác với các bộ, ngành triển khai thành công một số dự án ODA, các dự án của WB, SIDAcủa các Chính Phủ và tổ chức quốc tế tại Việt Nam.Mục tiêu trong năm 2006 là “Đạt mốc khách hàng thứ 1000, doanh thu toàn công ty đạt 10 tỷ đồng” 3.2. Công ty cổ phần dịch vụ công nghệ tin học HPT. Sự hình thành của công ty Công ty cổ phần dịch vụ công nghệ tin học HPT là công ty được thành lập vào ngày 13 tháng 01 năm 1995. Trụ sở chính 60 Nguyễn Văn Trỗi, Quận Phú Nhuận, TP.HCM. Công ty HPT ngày nay đã trở thành một trong những công ty tin học hàng đầu tại Việt Nam. Công ty cung cấp các dịch vụ CNTT cho nhiều khách hàng trong và ngoài nước, trong đó có các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước, công ty đa quốc gia và các nhà máy xí nghiệp - họ là những đơn vị đang giữ vai trò trọng yếu trong nền kinh tế. Ra đời ngay khi các hãng công ty hàng đầu thế giới như IBM, HP, Microsoft, Oracleđang ồ ạt tiến vào Việt Nam, Công ty cổ phần dịch vụ công nghệ tin học HPT chủ động nắm bắt thời cơ và từng bước hoà nhập được với cuộc cạnh tranh mang tầm cỡ toàn cầu này. HPT trở thành công ty tin học Việt Nam đầu tiên tại TP.HCM được cấp chứng nhận về Hệ thống Quản lý Chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000. Đầu năm 2006, họ đã chính thức được tập đoàn Microsoft cấp chứng nhận đối tác vàng (Microsoft Gold Cerified Partner), trở thành một trong những đối tác hàng đầu Châu Á – Thái Bình Dương và là công ty tin học thứ hai của Microsoft tại Việt Nam đạt đối tác vàng 10 năm xây dựng và vinh quang Lựa chọn HP và cũng được HP lựa chọn, công ty TNHH Dịch vụ Công nghệ Tin học HPT được hình thành vào năm 1995 với số vốn ban đầu rất ít ỏi (400 triệu đồng), chỉ vừa đủ chi phí để tìm mặt bằng thuê nhà, mua sắm trang thiết bị sử dụng và trả lương cho nhân viên. Khi đó, tình hình ứng dụng CNTT còn rất mới, đặc biệt các ứng dụng quản lý được phục vụ các doanh nghiệp lớn hầu như chưa có ở Việt Nam. Vậy nhưng đội ngũ cán bộ kỹ sư rất trẻ của HPT đã mạnh dạn lao vào nghiên cứu các hệ thống máy tính mini làm việc trên môi trường mở. Họ miệt mài nghiên cứu, học tập, thực hành, triển khailàm việc mỗi ngày từ sáng sớm đến tối mịt. Rồi HPT trở thành một trong những công ty đi tiên phong trong nghiên cứu triển khai hệ thống máy tính chạy trên nền hệ điều hành Unix, mô hình tổ chức hệ máy client – server. Năm 2005 vốn của công ty đã là 15 tỷ đồng và doanh thu đạt 295 tỷ đồng. Một trong những yếu tố cơ bản để đạt được mục tiêu phát triển biền vững của HPT là xây dựng bản sắc văn hoá riêng của doanh nghiệp. Ngay từ những ngày đầu thành lập, HPT đã tạo dựng một bầu không khí doanh nghiệp có văn hoá nhân bản, tiên tiến, có nguyên tắc rõ ràng trong mọi mặt hoạt động công tác, giao tiếp và vui chơi giải tríVăn hoá HPT được thể hiện trong những tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo, trong phong cách làm việc kiểu mới, xây dựng mối quan hệ con người với con người, con người với tổ chức nền tảng các giá trị nhân bảnVà, HPT cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng đầu tiên, đó là ký được những hợp đồng lớn với Đại học Báck kho TP. HCM, với liên doanh Canametal-box, Samsung Vina; tạo được niềm tin với đối tác Hewlett-Packard, được hãng uỷ quyền rất lớn cho HPT trở thành nhà cung cấp các giải pháp ứng dụng phục vụ doanh nghiệp, những giải pháp rất hiện đại lúc bấy giờ chạy trên các hệ máy tính mini HP9000 với hệ điều hành Unix-UX, triển khai thành công Hệ thống máy tính HP9000 lớn đầu tiên tại Việt Nam. Tổng giám đốc HPT Ngô Vi Đồng chia sẻ : “điều mà chúng tôi tâm đắc hơn cả là chúng tôi được truy cập vào kho dữ liệu trí thức khổng lồ của HP, kho dữ liệu chỉ rành riêng cho nội bộ và các đối tác hàng đầu của HP. Chúng tôi được thoải mái nghiên cứu những công nghệ mới, những ứng dụng hiện đại. Chúng tôi còn học được nhiều từ nguồn tri thức này, đó là cách thức tổ chức xây dựng công ty, kinh nghiệm quản lý điều hành, kinh nghiệm kinh doanh phát triển thị trường. Những bài học quản lý được học từ một công ty nổi tiếng về quản trị tuyệt hảo như HP, một công ty có bề dày hơn 60 năm phát triển và thành công, đó là những giá trị rất hữu ích giúp cho HPT xây dựng một chiến lược phát triển của riêng mình sau này”. HPT hôm nay Hoạt động của HPT ngày nay mở rộng trên khắp cả nước, có trụ sở chính, 4 chi nhánh tại TP. HCM và một chi nhánh tại Hà Nội. Các lĩnh vực dịch vụ của HPT cũng được phát triển, mở rộng theo thời gian và đi liền với sự phát triển, tăng trưởng của công ty với 5 mảng dịch vụ chính là : Phát triển phần mềm và dịch vụ phần mềm; Cung cấp các giải pháp, sản phẩm CNTT; Dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật và bảo hành; Dịch vụ tư vấn và đào tạo - dịch vụ kế toán; Xuất nhập khẩu và giao nhận hàng hoá. Trong đó, việc cung cấp giải pháp, sản phẩm và dịch vụ CNTT chiếm một tỷ trọng đáng kể về doanh số, hiệu quả và lợi nhuận của công ty trong suốt 11 năm qua. Hiện nay, HPT được khách hàng biết đến như một thương hiệu mạnh và uy tín trong việc thực hiện các giải pháp tích hợp, là nhà cung cấp các hình thức dịch vụ hỗ trợ và bảo hành tối ưu. Các giải pháp tích hợp gồm có : Giải pháp mạng, Giải pháp viễn thống, Giải pháp lưu trữ dữ liệu, Giải pháp và dịch vụ Microsoft, Giải pháp và Dịch vụ Orcle. Khách hàng đã được HPT thực hiện triển khai tích hợp giải pháp CNTT là các cơ quan doanh nghiệp nhà nước, các xí nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoan đa quốc gia, các tổ chức, doanh nghiệp ngoài quốc doanh như : Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Tổng cục thuế, Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam Airline, Sacombank, xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro, Bưu điện TP. HCM, đại học quốc gia TP. HCM, tập đoàn Unilever Với trên 300 cán bộ nhân viên chủ yếu là lực lượng chuyên gia, kỹ sư giầu kinh nghiệm trong việc xây dựng và triển khai các ứng dụng CNTT, công ty HPT đang đảm trách một khối lượng lớn các dự án ứng dụng tin học quan trọng cho nhiều tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trên khắp mọi miền của đất nước. hiện nay cán bộ của HPT đã đạt được nhiều bằng cấp chứng chỉ nghiệp vụ do các hãng hàng đầu về CNTT thế giới công nhận như các bằng cấp về hệ thống mạng của Cisco, các chứng chỉ về phát triển phần mềm của Microsoft và Orcle, các chứng chỉ về quản lý và xây dựng hệ thống của HP, và nhiều chứng chỉ nghiệp vụ của các hãng khác như AMP, APC Trở thành một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ CNTT hàng đầu, có uy tín trong cả nước hiện nay, HPT đã xây dựng được những giá trị nền tảng tạo nên sưự thành công. Đó là “hiểu rõ về khao khát vươn lên của những con người lao động chân chính, quyết tâm phấn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0587.doc
Tài liệu liên quan