Nguyễn Trãi có rất nhiều đóng góp về thể loại tác phẩm Văn Học trong lịch sử Văn Học Việt Nam. Các thể loại Văn học chính thời kì Trung Đại là: Thơ, Phú, Chiếu, Biểu,Văn bia, Cáo, Truyện kí, Chính luận trong đó, Nguyễn Trãi đã có những đóng góp rất quan trọng với một số thể loại chính như: Thơ,Văn chính luận,Chiếu,Cáo. Đây là những đóng góp rất quan trọng.
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 22963 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sã, tưởng khó thành thơ mà vẫn lộ rõ cốt cách thanh cao nhưng giản dị của Nguyễn Trãi.
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch ,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật, 35)
Thể thơ
Nguyễn Trãi đã sử dụng thành công thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nôm của mình. Ðây là một thể thơ được sáng tác dựa trên quy cách và cấu trúc của thơ Ðường luật. Ðiểm khác biệt là ở hiện tượng xen kẽ những câu sáu tiếng vào các câu 7 tiếng của bài thơ bát cú lẫn tứ tuyệt luật Ðường.
Số lượng các bài thơ được sáng tác theo hình thức này rất lớn (186/254) chứng tỏ rằng Nguyễn Trãi hoàn toàn có ý thức khi vận dụng thể thơ này như một sự thử nghiệm cho việc tìm ra một thể thơ mới cho dân tộc, chống lại ảnh hưởng quá sâu sắc của thi ca Trung Hoa.
Ba tiêu (236)
Bản Nôm:
芭 蕭 自 橅 唏 春 卒 吏 添 苔 蓬 邏 牟 偷 店
情 書 蔑 幅 封 群 謹 陿 唏 兜 強 闦 娂
Dịch thơ :
Cây chuối
Tự bén hơi xuân tốt lại them
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
Hồn thơ ấy cũng không gò bó câu thúc trong khuôn khổ thơ luật Đường mà tìm cách thể hiện cá tính của mình trong những phá cách lục ngôn. Nghiêm cấm trong thơ chữ Hán bao nhiêu thì ông lại phóng túng trong thơ chữ Nôm bấy nhiêu, đó cũng là dấu ấn đặc sắc của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập.Người đọc có thể hình dung một Nguyễn Trãi “Cơm ăn chẳng quản dưa muối – Áo mặc nài chi gấm thêu” giữa một thiên nhiên rất giàu cảm xúc và đậm nét đời thường:
Tùng (218-220) (3 bài thủ vĩ liên hoàn)
Bản Nôm:
秋 旦 夛 儍 拯 邏 怰
蔑 命 辣 課 倈 冬
林 泉 埃 浪 緥 乄 客
才 棟 梁 高 乙 奇 用
棟 梁 才 固 亖 朋 眉
茹 奇 隊 番 瀬 跬 台
檜 钖 駢 移 拯 動
雪 霜 体 乑 鄧 饒 挧
雪 霜 体 乑 鄧 饒 挧
固 餜 長 生 強 跬 台
琥 珀 苻 苓 認 買 別
涜 群 底 助 民 尼
Bản dịch:
Thu đến cây nào chẳng lạ lung
Một mình lạt thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng
Đống lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay
Hổ phách phục linh nhìn mới biết
Dành còn để trợ dân này.
Tùng của Nguyễn Trãi là chùm thơ ba bài, đều viết theo tứ tuyệt, thất ngôn xen lục ngôn. Cấu trúc liên hoàn - thước kiều, tạo nên một chính thể nghệ thuật toàn bích, trong đó, ngôn ngữ liên kết, liền mạch, hình tượng cây tùng mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc nhiều vẻ. Vịnh cây tùng, Nguyễn Trãi khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, đồng thời kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình.
Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6 tiếng trong bài thơ thất ngôn xen lục ngôn khiến lời thơ trở nên cô đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thường phù hợp với việc diễn đạt những chân lý của đời sống, những quyết tâm hành động của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp phong phú của câu thơ 6 chữ khiến nó có khả năng diễn đạt được những cung bậc tình cảm đặc biệt tinh tế, sâu sắc của con người.
Văn chương chép lấy đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.
Trừ độc, trừ tham,trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng.
(Bảo kính cảnh giới ( bài 5))
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các câu thơ 6 chữ đã làm phá vỡ kết cấu hoàn chỉnh của bài thơ Ðường luật, dẫn đến việc thất niêm, thất luật. Vì vậy, thể thơ này ngày càng ít đực sử dụng, nhường chỗ cho những thể thơ dân tộc khác hoàn chỉnh hơn về mặt cấu trúc và niêm luật, nhịp thơ.
Không thể đọc nó theo nhịp thơ Đường quen thuộc: Hầu nên khôn lại / tiếc khuâng khuâng mà chỉ có thể coi cả câu là một nhịp hoặc phân nhịp tương đối là Hầu nên khôn / lại tiếc khuâng khuâng. Câu thơ thuần như một thầm nhắc, buột ra dễ dàng, tự nhiên đến thú vị, không có sự câu thúc của thể thức, chương pháp
Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng
Thu đến đêm qua cảm vả mừng
Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ ác tan vầng.
Cách sử dụng biền Văn cũng rất đa dạng, được viết theo kiểu văn tứ lục, dùng các câu ngắt quãng 4,6 chữ nối nhau. Kiểu tứ lục có thể biến thành các kiểu đối 4,4 - 4,4 hoặc 6,6 – 6,6 hoặc xa hơn nữa nhưng lối câu thịnh hành nhất,là lối biền văn cận thể tứ lục biến cách.
Nhân nghĩa chi cử ,yếu tại an dân.
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử đạo.
(4,4 – 4,4)
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang
(6 – 6)
Trong mỗi câu gần 10 chữ ngắt nhịp theo nhịp 4,6 :
Yết can vi kì,manh lẹ chi đồ tứ tập
Đầu giao hưởng sĩ,phu tử chi binh nhất tâm.
(Bình Ngô Đại Cáo)
Trật tự này có thể đảo ngược thành 6,4 :
Ninh kiều chi huyết thành xuyên,lưu tinh vạn lý,
Tốt Động chi thi tích dã,di xú thiên niên
(Bình Ngô Đại Cáo)
Thể thơ 6 chữ xen 7 chữ với cách gieo vần thích hợp
“Rồi hóng mát thưở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp gương,
Thạch Lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng Liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dễ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(Gieo vần ở cuối các câu 2,4,6,8)
Thơ Nguyễn Trãi có sự ngắt nhịp rất nhiều và có sự gieo vần:
Thơ Đường Luật, thơ thất ngôn bát cú là thể thơ cơ bản của thơ Đường Luật. Về vần trong 7 tiếng 8 câu thì tiếng cuối câu 1 và các câu chẵn vần với nhau (vần chân và độc vần) vần chủ yếu là vần bằng. Cũng có vần trắc nhưng ít hơn về luật:có sự luân phiên bằng trắc tạo lên nhịp cơ bản 223. Trong mỗi câu thơ phổ biến là luật bằng, vần bằng.
Trong bài thơ “Bạch Đằng Hải Khẩu” đã thể hiện rất rõ:
“Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngọc Đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích triết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tầng
Vãng sư hồi đâu ta dĩ hí
Lâm lưu phủ ảnh khí nan thăng.”
(Rút từ tập “Ức Trai Thi Tập”)
Gieo vần chân :
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ Thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi huyền .”
(Gieo vần chân ở cuối câu 1,3)
Một cách gieo vần khác là :
“Vãng sự nan tầm,thời di quá,
Quốc âm vị báo,lão kham niên
Bình sinh đôi bảo tiên ưu chí,
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.”
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)
(Gieo vần chân cuối câu 2,4 (Niên – Miên )
(Gieo vần lưng ở giữa câu 2,3 (Báo – Bão )
Thể loại
Nguyễn Trãi có rất nhiều đóng góp về thể loại tác phẩm Văn Học trong lịch sử Văn Học Việt Nam. Các thể loại Văn học chính thời kì Trung Đại là: Thơ, Phú, Chiếu, Biểu,Văn bia, Cáo, Truyện kí, Chính luận… trong đó, Nguyễn Trãi đã có những đóng góp rất quan trọng với một số thể loại chính như: Thơ,Văn chính luận,Chiếu,Cáo. Đây là những đóng góp rất quan trọng.
Thơ
Nguyễn Trãi để lại tập thơ là Ức Trai thi tập bằng chữ Hán và Quốc âm thi tập bằng chữ Nôm. Tiêu biểu nhất là Quốc Âm Thi Tập được viết bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ hiện nay còn lưu giữ được 254 bài. Hai tập thơ đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng thơ dân tộc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hàm xúc, tinh luyện, thâm trầm, đó là tập thơ Ức Trai thi tập.Những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi nói lên tư tưởng của người Nho gia, sống thanh thản hòa mình cùng thiên nhiên, không ham danh lợi tiền bạc. Tập thơ Ức Trai thi tập hiện có khoảng 99 bài được làm chủ yếu lúc Nguyễn Trãi ở ẩn tại Côn Sơn.
Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi bình dị mà tài hoa, thiết tha, đằm thắm, với một đặc điểm nghệ thuật độc đáo, đó là lấy thất ngôn xen lục ngôn là một dấu ấn kỳ lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc. Ông đã gắn liền Văn chương với sự nghiệp,gắn việc làm văn với nhiệm vụ làm người tư tưởng này được thể hiện trong các bài thơ Bảo kính cảnh giới. Nguyễn Trãi đã mở đầu cho việc sáng tác văn chương bằng chữ Quốc ngữ trong lịch sử văn học dân tộc.
Tập thơ Quốc âm thi tập đã đưa Nguyễn Trãi trở thành một trong ba đại gia Thơ Nôm trong nền văn học Việt Nam (Cùng với Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương).
Đao bút phải dùng tài đã vẹn.
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra lay thước.
Điện Bắc đà đà yên phận tiên.
( Bảo Kính Cảnh Giới : Bài số 56)
Những bài thơ của Nguyễn Trãi đã đóng góp vào nền Văn học Việt Nam. Những tư tưởng uyên thâm và nghệ thuật làm cho thơ Nguyễn Trãi độc đáo,và vô cùng đặc sắc.
Văn Chính Luận
Nguyễn Trãi trong các tác phẩm của mình, đặc biệt trong các tác phẩm chính luận, luôn có cái nhìn sâu rộng, cái nhìn thấu đáo và sâu sắc đối với thiên nhiên, xã hội đối với cuộc sống của đất nước,của nhân dân. Nguyễn Trãi đã làm nhiều bài văn chính luận trong các bài đó không thể không nhắc tới Quân Trung từ mệnh tập. Đó là tập văn xuôi do Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết trong màn trướng từ năm 1423-1427. Phần lớn là những thư từ gửi cho các tướng lính nhà Minh trong thời gian chiến tranh và các biểu dụ. Quân trung từ mệnh tập nêu rõ tư tưởng,lãnh đạo của Nguyễn Trãi đó là “Công tâm”.
“Công tâm” là thu phục lòng người chiến đấu trên cả lĩnh vực ngoại giao. Nguyễn Trãi đã có ý thức về tính chiến đấu của văn chương, và đã tự hào rằng mình biết dùng ngòi bút như một vũ khí. Với những lời lẽ đanh thép,lý luận sắc bén, lúc mềm mại, lúc cứng cỏi, kiên quyết. Nguyễn Trãi đã giáng cho địch những đòn tới tấp trên mặt trận tư tưởng. Quân Trung từ mệnh tập xứng đáng tiêu biểu cho các loại văn chiến đấu của ta ngày trước. Ngoài Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi còn có các bài văn khác như: Chí linh sơn phú, Bằng Hồ di thực lục, Truyện Nguyễn Phi Khanh, Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục - đây là một tập sử ký về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Dư địa chí là một tác phẩm có giá trị về mặt địa lý, lịch sử và dân tộc học.
Cáo
Cáo là một thể loại tác phẩm Văn Học ở thời kì Trung Đại.Trên danh nghĩa của Lê Lợi sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh của toàn dân tộc ta vừa kết thúc.Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại cáo.Đây là tiếng ca khải hoàn đồng thời cũng là bản tuyên ngôn đôc lập thứ hai thể hiện khí thế quân dân ta ở tầm vóc vũ trụ.
Cáo có nghĩa là thông báo,tuyên bố một việc gì đó,đây là một thể loại hành chính dùng nhiều trong thượng thư,đó là các bài công bố của nhà vua trước công chúng.Đại cáo là thông báo rộng khắp cho toàn dân nghe.
Bài “Bình Ngô đại cáo”được Nguyễn Trãi viết vào tháng 4/1428 thuật lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quá trình đánh đuổi giặc Minh giành lại độc lập cho đất nước Đại Việt. Bài cáo được coi là áng thiên cổ hùng văn. Có ý nghĩa nhằm công bố cho mọi người biết những chủ trương chính trọng đại của toàn dân tộc.Như việc xây dựng hòa bình,đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng triều mới. Cáo viết bằng thể văn biền ngẫu số câu chữ không hạn chế,văn phong mang tính chính luận nên trang trọng sắc bén,lập luận chặt chẽ giàu sức thuyết phục.
Bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được viết chủ yếu dựa vào kiểu văn tứ lục dùng các câu cắt quãng 4,6 chư để nối nhau. Mở đầu bài cáo là tuyên bố chủ quyền của nước ta “Từ Triệu ,Đinh ,Lý ,Trần bao đời gây nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”.Tiếp theo là những tội ác của giặc và những chiến công rực rỡ của quân ta “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,miền Trà Lân trúc chẻ tro bay” với những lời văn sinh động với những hình tượng sắc và mạnh, Nguyễn Trãi đã kể lại một cách xúc tích tất cả những sự kiện chính của cuộc kháng chiến đã miêu tả một cách tinh tế khí thế hào hùng của quân dân ta,cũng như bộ mặt man rợ cùa sự thất bại thảm hại của giặc Minh.Âm điệu hào hùng của Bình Ngô đại cáo là âm điệu của thời đại. Giá trị chủ yếu của Bình Ngô đại cáo là phát biểu chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo Bình Ngô Đại Cáo mang tính chính luận rất cao vì đó là lời thông báo với toàn thể dân tộc rằng khởi nghĩa Lam Sơn đã thắng lợi, nước Đại Việt ta giành được độc lập, Lê Lợi là người xứng đáng làm Vua người đứng đầu đất nước Đại Việt bấy giờ.
Với tư cách sử dụng từ ngữ và lời văn sắc bén,lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử văn học Việt Nam một tác phẩm văn học bất hủ. Đây là một áng thiên cổ hung văn - là bản tuyên bố đôc lập thứ hai của lịch sử Việt Nam ta.
Đóng góp về nội dung
Nguyễn Trãi không những là nhân chứng cho những biến động bão táp của lịch sử thế kỷ XV mà còn là người trực tiếp tham gia vào chính những biến động đó. Ngay cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng trầm. Vì vậy, thơ ông thể hiện rõ một vốn sống đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp và một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con người.
Qua thơ Nguyễn Trãi, ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về con người Nguyễn Trãi với những khát vọng lớn lao và những tâm tư u uất.
Trong thơ nguyễn Trãi ta thấy được những nội dung chính sau :
Tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu quê hương đất nước , tấm lòng ưu quốc ái dân sâu nặng.
Một tấm hồn nhạy cảm rộng mở, một chí khí hào hùng, một nhân cách cao thượng, một trí tuệ uyên bác, luôn tìm hiểu để nắm bắt nhưng quy luật của đời sống - nói cách khác là con người cá nhân trong văn chương Nguyễn Trãi.
Tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu quê hương đất nước, tấm lòng ưu quốc ái dân sâu nặng
Tư tưởng nhân nghĩa với nhân dân
Nhân và nghĩa vốn là khái niệm cũ của Nho gia.Chữ Nhân của Khổng Tử với chữ Nghĩa của Mạnh Tử từ lâu đã trở thành những nguyên lý đạo đức và chính trị của giai cấp phong kiến nhằm củng cố nội bộ và xác định địa vị thống trị của nó đối với nhân dân. Vì vậy, chữ Nhân và Nghĩa lại được những nhà văn hóa dân tộc Việt Nam ta từ Trương Hán Siêu , Nguyễn Văn Ngạn cho đến Chu An , Phạm Sư Mạnh hiểu theo ý nghĩa rộng rãi và tích cực , vượt ra khỏi nhận thức và nhãn quan của Nho gia .
Nhân và Nghĩa bao hàm những quan hệ tốt giữa người với người , Nhân và Nghĩa không phải là những tiêu chuẩn đạo đức chỉ dành cho riêng một thiểu số ưu Việt và cao quý nào . Từ ý nghĩa rộng rãi và tích cực như vậy , Nguyễn Trãi lại đi xa hơn nữa là gắn nhân nghĩa với lòng yêu thương nhân dân.
Nhân và Nghĩa là sức mạnh để chiến thắng hung tàn và cường bạo nhưng cũng lại chính vì thế mà chí nhân, đại nghĩa lại là nền tảng của tư tưởng bao dung độ lượng đối với kẻ thù đã đầu hàng. Nhân nghĩa vê thực chất chính là chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc ta mà nội dung là coi trọng con người,coi trọng nhân dân,coi trọng sự nhân ái giữa con người với con người,coi trọng sự hòa hiếu giữa các dân tộc.
Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử văn học nước nhà một giá trị về tư tưởng thật quý báu: Việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu,làm đại tướng phải lấy nhân nghĩa làm nghĩa làm gốc. Đó là một nguyên lý mà Nguyễn Trãi coi như bất di bất dịch, là một tư tưởng xuyên suốt trong văn chương của ông .
Ngay mở đầu Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nguyễn Trãi đã gắn chặt nhân nghĩa với yên dân. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là làm sao cho nhân dân được sống trong hòa bình- ấm no-hạnh phúc. Yên dân là một điều suốt đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã vạch tội giặc một cách sắc sảo và nghiêm khắc:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa ,nát cả đất trời
Nặng thuế khóa , sạch không đầm núi…
Nguyễn Trãi đã nhìn rõ những mối tai vạ mà giặc Minh đem lại cho nhân dân . Đối với Nguyễn Trãi cứu nước trước hết là cứu dân. Mặt khác Nguyễn Trãi đã nhận thức được vai trò của nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Ông đã miêu tả nghĩa quân như một đạo quân có nguồn gốc từ nhân dân :
“ Chúng dân bốn cõi một nhà ,dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử ,hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Nguyễn Trãi đã nêu lên được tính chất nhân dân của cuộc kháng chiến chống Minh. Chúng dân ở đây tức là người làm ruộng và người đi ở. Phong trào do Lê Lợi lãnh đạo xét cho kỹ chính là phong trào nông dân khởi nghĩa chông xâm lược. Trong số thủ lĩnh của nghĩa quân, có thể có địa chủ, hào trưởng, nho sĩ, thương nhân trên lá cờ của nghĩa quân, có thể ghi chữ “đế”, chữ “vương” nhưng tất cả những cái đó không che lấp được tính nhân dân rất rộng rãi của phong trào. Nguyễn Trãi – người tham gia lãnh đạo phong trào đã hiểu rất rõ thế nào là sức mạnh của dân. Với Nguyễn Trãi dân là gốc của dân tộc – giữ được gốc ấy thì giữ được nước, trị được nước – mất gốc thì nước mất nhà tan – và giữ dân trước hết là giữ được lòng dân.
Trong Quân trung từ mệnh tập ông thường nói đến những đau khổ của dân với tất cả tấm lòng xót xa, phẫn nộ và nói đến sức mạnh của dân với tất cả lòng quý mến và tin tưởng.
Trong bài thơ Nôm Bảo kính cảnh giới (bài thứ 57) ông viết:
Đọc sách thời thông đòi nghĩa sách,
Đem dân mựa nữa mất lòng dân.
Trong bài thơ chữ Hán Mạn hứng ông viết:
Nụy ốc thê thân kham độ lão
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu
Trong bài thơ chữ Nôm Trần tình (bài thứ 1) ông viết:
Quốc phú binh cường, chăng có chước,
Bằng tôi nào thủa ích chưng dân.
Thật rõ ràng : tư tưởng trọng dân, tình cảm thương dân, ý chí vì dân là nội dung quán xuyến trong thơ văn Nguyễn Trãi. Có điều là với “Bình Ngô đại cáo” thì tư tưởng ấy, tình cảm ấy, ý chí ấy đã được ông nêu cao như một tiêu đề trong một văn bản chỉnh thể của Nhà nước, trong bản đại cáo thiên hạ của triều đại mới. Qua cuộc sống chiến đấu của mình Nguyễn Trãi đã hiểu được rằng muốn thành công thì phải dựa vào sức mạnh của dân. Nhận thức về dân của ông không phải là một nhận thức mơ hồ mà là một nhận thức sâu sắc náy sinh thực tiễn nêu cao vai trò, vị trí của dân, Nguyễn Trãi đã phản ánh thực tế của lịch sử cũng như yêu cầu của lịch sử. Là tiếng vang của cao trào nhân dân, cao trào dân tộc hồi đầu thế kỉ XV. Nói đến nước trước hết là nói đến dân,thơ văn Nguyễn Trãi đã phát biểu tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại. Nói đến nước là nói đến dân.nhưng dân cần phải có nước.Và để bảo vệ dân thì phải bảo vệ cương giới của tổ quốc.Khẳng định quyền làm chủ của dân tộc đối với đất nước Việt vốn là nh.ững điều kiện thấm sâu vào ý thức của nhân dân ta hàng nghìn năm trước. Ba thế kỷ trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt đã làm vẻ vang cho dòng văn học viết với bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” trong đó ông khẳng định rằng.
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên dịnh phận tại thiên thư
Cương quốc của tổ quốc là thiêng liêng. Ý thức này lại được nâng cao thêm qua nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm các thời kỳ Lý, Trần qua mấy thế kỷ xây dựng kinh tế,phát triển văn hóa.
Trong phần đầu bài “Bình Ngô Đại Cáo” Nguyễn Trãi đã có ý kiến giống như Lý Thường Kiệt xưa kia về một đát nước “Cương giới rõ ràng” .
Ông viết
Như nước Việt ta từ trước
Vốn đã xưng nền văn hiến đã lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục bắc năm cũng khác
Nhưng với Nguyễn Trãi thì vấn đề vấn đề không phải chỉ là ở chỗ “Phong tục Bắc Nam cũng khác”.và nước ta xứng đáng là một nước độc lập là vì nước ta là một nước văn hiến đã lâu đời
Từ thời Lý – Trần khi mà nhà nước Lý Trần khi mà nhà nước phong kiến có vai trò lịch sử trong việc tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp và xây dưng và bảo vệ đất nước Đại Việt đã có chính sách thân dân,khoan dân ,huệ dân. Đến Nguyễn Trãi ông đã nâng cao quan điểm đó cao hơn,đưa vào nội dung chủ nghiã yêu nước của Nguyễn Trãi không trừu tượng,nó gắn với những nhiễm vụ lịch sử cụ thể.Chủ nghĩa yêu nước ấy gắn với quan niệm nhân nghĩa nhưng quan niệm nhân nghĩa này không mơ hồ chung chung. Yêu nước và nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi là căm ghét đến xương tủy kẻ thù của Tổ quốc, kẻ thù của nhân dân.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Cái yêu,cái ghét của Nguyễn Trãi phân minh ranh giới giữa địch và ta rạch ròi. Trong tư tưởng của ông và chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trái có tính chiến đấu mạnh mẽ.Yêu nước là đấu tranh không mệt mỏi không khoan nhượng với kẻ thù và quyết
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo…
Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi đề cao, ông cũng đề ra cho kẻ thù làm quan phải lấy nhân nghĩa làm đầu.Đó là chính sách thân dân.Bên cạnh điều trung với Vua. Nguyễn Trãi nhấn mạnh và trách nhiệm đối với dân. Chủ trương của Nguyễn Trãi là giản chính, khoan hình thỉnh thoảng cũng có khi dùng đến uy pháp,nhưng không nên lâu la,phải trở về với nhân nghĩa .Theo ông quyền mưu chỉ dùng để trị gian tà. Cốt lấy nhân nghĩa gìn giữ thì thế nước mới yên.
Nguyễn Trãi bao giờ cũng gắn bó với đất nước,với nhân dân với cuộc đời .Và cũng vì thế mà lúc còn trẻ tuổi, lúc ra giúp nước cũng như lúc phải đi ở ẩn Nguyễn Trãi cũng chưa từng bao giờ quên nỗi tiên ưu , lo trước thiên hạ. Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thường bắt gặp những từ “tiên ưu”, “ưu ái”. Ðây là nét ngời sáng trong tâm hồn Nguyễn Trãi:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuộn nước chiều Đông
( Thuật hứng)
Oải ốc thê thân kham độ lão
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu
Bình sinh độc bão tiên ưu chí
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên
Gia sơn đường cách nghìn dặm
Ưu ái lòng phiền nửa đêm
Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái,..
Xuất phát từ một câu nói nổi tiếng của Phạm Trọng Yêm đời Tống, từ tiên ưu thể hiện rõ quan niệm sống cao cả: yêu nước thương dân, chiến đấu suốt đời vì nước vì dân. Quan niệm sống bao giờ cũng mãnh liệt tràn trề như nước ngày đêm không ngừng chảy ra biển Đông. Và tấm lòng ấy bao giờ cũng nặng nỗi ưu tư vì cuộc đời, vì con người . Nguyễn Trãi cho đến bạc đầu vẫn không nguôi nỗi niềm lo nước thương dân:
Vãng sự nan tầm , thời dị quá
Quốc ân vị báo,lão kham niên
Bình sinh độc bão tiên ưu chí
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.
(“Hải khẩu dạ bạc hữu cảm”)
Suốt đời mình, Nguyễn Trãi xem công danh chỉ là điều kiện giúp đời:
Một thân lẩn quất đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia
Vì nợ quân thân chưa báo được
Hài hoa còn bận dặm thanh vân
(Ngôn chí 11)
Nhà thơ luôn ý thức rõ ràng về trách nhiệm của một kẻ sĩ chân chính:
Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ
Tài còn lọ hái cúc Uyên Minh
(Mạn thuật 9)
Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân
Những khát khao, mơ ước của Nguyễn Trãi luôn đi trước, chỉ đạo mọi hành động:
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(BKCG 43)
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
(Tự thán 4)
Từ mơ ước, tác giả thể hiện rõ một quyết tâm hành động:
Khó ngặt qua ngày xin sống
Xin làm đời trị mỗ thái bình
(Tự thán 28)
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng
(BKCG 5)
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đi xuyên suốt trong lịch sử văn học nước ta. Đó là một tư tưởng mà theo đồng chí Phạm Văn Đồng nói : “ Suốt đời mang một hoài bão lớn làm gì cho dân để dân đỡ lầm than cự khổ.” Ông thật xứng đáng là nhân vật lịch sử đầu tiên nêu cao tư tưởng vì dân , tình cảm thương dân , tư tưởng quý trọng dân, tin theo dân. Nhận thức ấy góp phần hoàn diện quan niệm của Nguyễn Trãi về lực lượng chính trị , xã hội trong cộng đồng dân tộc.
Tư tưởng nhân nghĩa với kẻ thù
Chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi không trừu tượng , nó gắn với những nhiệm vụ lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa yêu nước ấy gắn liền với tưởng nhân nghĩa. Nhưng tư tưởng này cũng không mơ hồ, chung chung. Đề cao nhân nghĩa, Nguyễn Trãi căm ghét đến xương tủy kẻ thù của nhân nghĩa, tức cũng là kẻ thù của Tổ quốc.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Cái yêu, cái ghét của Nguyễn Trãi phân minh rạch ròi, ranh giới địch, ta trong tư tưởng ông không lẫn lộn. Chủ nghĩa yêu nước của ông có tính chiến đấu mạnh mẽ. Yêu nước là đấu tranh không mệt mỏi, không khoan nhượng với kẻ thù và quyết:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Và cũng vì”chí nhân” mà quân ta đối xử khoan hồng với giặc đã đầu hàng. Nguyễn Trãi lấy làm tự hào mà viêt rằng khi tướng giặc đã chịu khuất phục thì thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
Trong khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt địch, trong khi vạch tội giặc và đánh vào tinh thần chúng, Nguyễn Trãi đã luôn thể hiện ý chí hòa bình của nhân dân ta.Có một điều đáng quý là Nguyên Trãi yêu nước, yêu nhân dân, căm thù bọn giặc nhưng cũng lại thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại vì cuộc chiến tranh do bọn phong kiến nhà Minh gây ra.
Ông đã vạch tội tướng giặc đối với nhân dân Trung Quốc như sau:”…lại muốn cùng binh độc vũ, khiến những dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li luôn năm phải nát gan ở nơi đồng cỏ…”(Thư gửi Vương Thông- bài số 28), và ông khuyên chúng nên hối cải”để tránh khỏi sự giết hại trong thành, hàn gắn được vết thương trong nước, hòa hiếu lại thong, can qua nghỉ mãi” (Thư gửi Vương Thông bài số 35).
Mặt khác tư tưởng nhân nghĩa đối với quân địch cồn thể hiện bao dung, đọ lượng đối với kẻ thù. Điều đó được thể hiên bằng cách đàm phán, đối xử của Nguyễn Trãi đối với quân thù. Thể hiện rõ ở Quân trung từ mệnh tập và tiêu biểu là Bình Ngô đại cáo.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ở tư tưởng cầu hòa , vì vậy mà Nguyễn Trãi đã dung những lời văn hết sức bình dị để thuyết phục kẻ thù chấm dứt chiến tranh để nhân dân hai nước được hòa bình.
Kinh Dịch có câu : Cùng tắc biến, biến tắc thông. Nguyễn Trãi mang tư tưởng đó bằng các bức thư gửi cho tướng địch. Từ lí lẽ cho đến thái dộ nhưng bức thư của Nguyễn Trãi đều có ý nghĩa thuyết phục mạnh mẽ. Nguyễn Trãi rất chú ý đến đối tượng là kẻ đọc thư của mình. Đối với nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi.doc