Đề tài Sự phát triển của kế toán thế giới và kế toán Việt Nam. Các vấn đề đặt ra với kế toán Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế

Cuối những năm 1800, người Anh bắt đầu đầu tư tài chính ồ ạt vào những ngành công nghiệp đang phát triển ở Mỹ, do đó các kế toán Scotland và Anh bắt đầu di chuyển sang Mỹ để kiểm tra soát xét các hoạt động đầu tư này. Một số trong những người đó ở lại hành nghề ở Mỹ và lập nên một vài công ty kế toán ở đây. Số lượng các kế toán hành nghề công khai tăng lên nhanh chóng: từ 19 người năm 1850 lên 233 người năm 1886. Các nhóm kế toán ở các bang đã liên kết với nhau thành lập nên Hiệp hội Kế toán Mỹ, tiền thân của Hiệp hội Kế toán có giấy chứng nhận hành nghề Mỹ. Tuy nhiên ở thời điểm này, kế toán ở Mỹ vẫn được coi là mới bắt đầu và chỉ thực sự bước vào giai đoạn phát triển từ sau cuộc nổi dậy của dân chúng chấm dứt giai đoạn phát triển nền kinh tế nông nghiệp và chuyển sang nền kinh tế công nghiệp trong những thập niên sau đó.

doc15 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự phát triển của kế toán thế giới và kế toán Việt Nam. Các vấn đề đặt ra với kế toán Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rằng kế toán phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của thời đại nảy sinh do những sự thay đổi của môi trường và nhu cầu xã hội. Một số khác lại cho rằng chính sự phát triển của kế toán mới tạo điều kiện cho sự phát triển của thương mại vì chỉ thông qua việc sử dụng các phương pháp kế toán chính xác và đầy đủ, hoạt động sản xuất kinh doanh hiện đại mới có thể phát triển rực rỡ, đáp ứng được yêu cầu của chủ thể kinh doanh và xã hội. Tuy nhiên, dù khác nhau song hai ý kiến trên đều thống nhất ở một điểm, đó là sự gắn bó chặt chẽ giữa lịch sử phát triển của kế toán với hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. 1. Thời Cổ đại * Kế toán ở vùng Mesopotamia Cổ đại: Khoảng thế kỷ 36 trước Công nguyên, nền văn minh Át-xi-ri, Babylon và Xume phát triển rực rỡ ở thung lũng Mesopotamia - nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi mà trở thành vùng nông nghiệp trù phú. Đây cũng là nơi xuất hiện những ghi chép cổ xưa nhất về hoạt động buôn bán. Khi người nông dân đã trở nên giàu có, các hoạt động kinh doanh dịch vụ và các ngành công nghiệp nhỏ phát triển ở khu vực lân cận thung lũng Mesopotamia. Thành phố Babylon và Ninevah trở thành các trung tâm thương mại của vùng, trong đó Babylon được xem như là tiếng nói của kinh doanh và chính trị của cả vùng Cận Đông. Có hơn một ngân hàng ở Mesopotamia sử dụng thước đo tiêu chuẩn là vàng và bạc và cho phép một số giao dịch bằng tiền gửi ngân hàng. Trong suốt kỷ nguyên này, tồn tại các quy tắc pháp lý quy định về việc ghi chép tài sản và các giao dịch liên quan đến tài sản. Vì thế, gần như toàn bộ các giao dịch được ghi lại và được mô tả bởi các bên liên quan trong suốt thời kỳ này. Nhiệm vụ của người thực hiện việc ghi chép kế toán khá đơn giản, nhưng lại bao quát. Ngoài việc ghi lại trọn vẹn một giao dịch, anh ta còn cần chắc chắn rằng các giao dịch thoả thuận đó đáp ứng được yêu cầu pháp lý áp dụng cho các giao dịch thương mại. Ở Mesopotamia, các giao dịch được ghi chép lại trên mảnh gốm sứ. Mảnh gốm được nung theo hình dạng và kích thước tuỳ theo nội dung của các giao dịch. Mỗi giao dịch được ghi chép lại theo những nội dung sau: tên của các bên tham gia buôn bán, loại hàng hoá buôn bán và giá cả cùng những điều cam kết quan trọng khác. Sau đó, mỗi bên sẽ chứng nhận sự hiện diện của họ cũng như thoả thuận giữa họ lên mảnh gốm bằng cách ấn mạnh lên mảnh gốm “dấu” riêng của họ. Người ghi chép tài sản sau đó sẽ hong khô mảnh gốm để đảm bảo những điều ghi chép trên mảnh gốm không thể bị thay đổi. * Kế toán ở Ai Cập, Trung Hoa, Hy Lạp và Roma cổ đại - Kế toán ở Ai Cập cổ đại cũng phát triển theo cách tương tự như ở Mesopotamia. Tuy nhiên, người Ai Cập sử dụng giấy làm từ cói thay vì gốm, do đó việc ghi chép chi tiết trở nên dễ dàng hơn. Ở Ai Cập, người ghi sổ kế toán phải lưu trữ cẩn thận các tài liệu ghi chép của mình trong một nơi gọi là kho lưu trữ sau khi những tài liệu đó đã được kiểm tra bởi một hệ thống soát xét nội bộ chặt chẽ. Chính do hệ thống kiểm tra này mà những người ghi sổ kế toán phải luôn trung thực và cẩn thận vì họ sẽ bị xử phạt nếu vi phạm các điều luật liên quan. Mặc dù những ghi chép như vậy rất quan trọng nhưng kế toán Ai Cập cổ xưa chưa bao giờ tiến bộ xa hơn công việc liệt kê đơn giản trong suốt hàng nghìn năm tồn tại của nó. Có lẽ nguyên nhân cốt yếu là do sự mù chữ và thiếu một loại tiền kim loại thích hợp đã cản trở sự phát triển của nó. Trên thực tế, người Ai Cập sử dụng vàng và bạc với tư cách là vật trao đổi ngang giá chung. Tuy nhiên, phương pháp đo lường giá trị đơn không thể mô tả tất cả hàng hoá, do đó làm cho việc tích luỹ và tổng kết tài sản trở nên khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển của cả hệ thống kế toán. - Kế toán ở Trung Hoa trước Công Nguyên được sử dụng cho mục đích đánh giá hiệu quả của chương trình Chính phủ và những người vận hành chương trình đó. - Vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, người Hy Lạp đã áp dụng “kế toán công khai” để tạo điều kiện cho toàn thể công dân theo dõi tình hình tài chính chính phủ. Thành viên của Hiệp Hội Nhân dân Athens lập ra những quy tắc pháp lý cho vấn đề tài chính và quản lý thu chi của hệ thống công thông qua sự giám sát của 10 nhân viên kế toán Nhà nước. Có lẽ sự đóng góp quan trọng nhất của Hy Lạp là việc sáng tạo ra tiền kim loại vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Việc sử dụng rộng rãi tiền kim loại trong một thời gian dài đã có tác động đến sự phát triển của kế toán. Hoạt động ngân hàng ở Hy Lạp cổ đại đạt được sự phát triển nhiều hơn các xã hội trước. Các ngân hàng giữ sổ ghi chép, tiền cho vay, và thậm chí thực hiện các giao dịch chuyển tiền cho các cư dân ở các thành phố cách xa nhau thông qua các ngân hàng trong cùng hệ thống. - Kế toán ở Roma phát triển từ việc ghi chép truyền thống của các gia đình được thực hiện bởi người chủ gia đình. Việc ghi chép này vốn nhằm mục đích phục vụ cho việc tính thuế và xác định vị thế cũng như quyền lực của mỗi gia đình. Ở Roma duy trì một hệ thống chứng từ và cân đối chính xác đối với các hoạt động thu chi của chính phủ được dưới sự thực hiện người quản lý ngân sách quốc gia. Hệ thống kế toán công được kiểm tra thường xuyên bởi các nhân viên kiểm tra sổ sách và những người quản lý ngân sách quốc gia phải bàn giao lại toàn bộ công việc cho người kế nhiệm của mình và cho Thượng viện La Mã trước khi thôi việc. Một trong những cách tân của kế toán La Mã là việc sử dụng ngân sách thường niên nhằm phối hợp các hoạt động tài chính khác nhau của nhà nước, hạn chế chi tiêu để đạt được mức thu mong muốn và số thuế thu được trong một đơn vị quản lý sau khi xem xét khả năng chi trả của dân cư. 2. Thời Trung đại Thời kỳ kéo dài hàng nghìn năm kể từ khi đế quốc La Mã sụp đổ cho đến trước thời điểm ra đời của cuốn sách đầu tiên của Luca Pacioli mang tên “Summa” được coi là thời kỳ đình trệ của kế toán. Các hoạt động kế toán diễn ra ngoài lãnh thổ của Italy thường không được đề cập đến trong các phần tổng kết lịch sử. Tuy nhiên, như nhà lịch sử Michael Chatfield đã quan sát thấy, thông tin kế toán thời trung cổ đã trở thành một trong những nền tảng của việc quản lý và các kỹ thuật hạch toán cũng đã có cơ hội phát triển nhanh chóng. Nhiệm vụ trung tâm của kế toán thời kỳ này là nhằm giúp cho Chính phủ và chủ sở hữu tài sản quản lý tài sản theo trình độ từ thấp lên cao. * Sự ra đời của phương pháp ghi sổ kép Qua các giai đoạn phát triển của kế toán ở các quốc gia khác nhau, có thể thấy kế toán sử dụng phương pháp ghi đơn, đơn giản và mang tính liệt kê mô tả nhiều hơn. Nguyên nhân cốt yếu là thiếu chữ viết và tiền giao dịch thích hợp. Phương pháp ghi sổ kép ra đời vào thế kỷ 14 ở Italy gắn liền với đóng góp của Luca Pacioli dựa trên cơ sở thống nhất 7 nhân tố tiền đề: Tài sản riêng: quyền thay đổi sở hữu tài sản bởi vì ghi sổ được xem là việc ghi chép về tài sản và quyền tài sản thực. - Vốn: thể hiện năng lực của cải, bởi vì nếu không có nó hoạt động thương mại sẽ không thể thực hiện được. - Thương mại: sự trao đổi hàng hoá ở mức phổ biến, bởi vì hệ thống thương mại với quy mô nhỏ không thể tạo ra áp lực kinh doanh dẫn tới sự ra đời của một hệ thống có tổ chức thay thế cho việc ghi chép đơn thuần. - Tín dụng: giá trị hiện tại của hàng hoá trong tương lai. - Chữ viết: một hệ thống ghi chép thường xuyên bằng một ngôn ngữ thông dụng. - Tiền tệ: mẫu số thông dụng cho trao đổi. - Số học: làm phương tiện để tính toán lượng giá trị giao dịch. Trong số những nhân tố trên, có một số nhân tố trên thực tế đã tồn tại ở thời cổ đại. Tuy nhiên, chỉ tới thời trung cổ chúng mới xuất hiện đầy đủ và đủ mạnh để thúc đẩy con người tới sự sáng tạo ra phương pháp ghi sổ kép. Nhờ đó, thương mại và trao đổi buôn bán đã được đẩy lên tầm phát triển mới và loài người đã tìm được phương pháp xác định lợi nhuận chuẩn xác hơn. Kể từ Pacioli, phương pháp ghi sổ đã được thay đổi. Chuỗi những sự kiện trong chu kỳ kế toán và các trình tự đặc biệt được Pacioli miêu tả trong cuốn “De Computis” khá quen thuộc với kế toán viên hiện đại. Trên thực tế, sự khác nhau giữa trình tự kế toán hiện đại với phương pháp kế toán của Pacioli là sự bổ sung và trình độ tinh vi hơn xuất phát từ nhu cầu của quy mô hoạt động kinh doanh lớn hơn. Theo Luca Pacioli, một thương nhân thành công phải hội tụ được 3 thứ: đủ vốn, người ghi sổ có năng lực và hệ thống kế toán cho phép anh ta có được những thông tin về tình hình tài chính của mình một cách nhanh nhất. Pacioli đưa ra hệ thống gồm các thành phần sau: - Bản ghi: nhằm ghi chép lại các nghiệp vụ phát sinh theo thứ tự phát sinh. Các nghiệp vụ này có thể được ghi sổ theo nhiều đơn vị tiền tệ khác nhau được chấp nhận ở thời kỳ đó và sau đó được quy đổi ra đồng tiền hạch toán chung. - Nhật ký: bao gồm ghi nợ, có và phần giải thích nội dung nghiệp vụ được ghi sổ. Không tính tổng quy mô nghiệp vụ phát sinh và không ghi đối ứng. - Sổ cái: đây là bộ phận gần giống nhất với kế toán hiện đại. Cột số tiền và cột ngày tháng giống y hệt như trong sổ kế toán hiện nay, với các mục bao gồm các đoạn ngắn, ghi nợ ở bên trái và ghi có ở bên phải của trang sổ được đôi. Sau khi sổ kế toán được thiết lập, hai được chéo sẽ được kẻ xuyên suốt mỗi lần ghi sổ, một từ trái sang phải khi ghi nợ và một từ phải sang trái khi ghi có. Kết thúc chu trình kế toán là việc lên bảng cân đối thử. Các số dư bên nợ trên sổ cái được ghi vào bên trái của bảng cân đối còn các số dư bên có trên sổ cái được ghi vào bên phải của bảng cân đối. Nếu việc ghi sổ đã được thực hiện chuẩn xác thì bảng cân đối sẽ cân giữa hai bên. 3. Thời Cận đại và Đương đại * Thế kỷ 19 ở Scotland, Anh và Mỹ Scotland được coi là nơi sinh của kế toán hiện đại. Đây là nơi sản sinh các nguyên tắc kế toán và cũng là nơi có những hội kế toán công khai lâu đời nhất. Kế toán trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng với những ảnh hưởng không thể phủ nhận đến sự phát triển kinh tế. Sau Scotland, kế toán phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Vào giữa thế kỷ 19, Anh đã trở thành một nước công nghiệp dẫn đầu về sản xuất than đá, sắt và dệt may, đồng thời trở thành trung tâm tài chính của thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính đặt ra yêu cầu về kế toán phá sản ở cả những doanh nghiệp mạnh và những doanh nghiệp đang trên bờ phá sản. Năm 1880, Hiệp hội kế toán Anh và xứ Wales đã quy tụ được tất cả các tổ chức kế toán trong nước với số thành viên ban đầu là 587 người và sau đó kết nạp thêm 606 người có kinh nghiệm khác. Tiêu chuẩn về đạo đức và trình độ để được gia nhập Hiệp hội được ban hành và các thành viên Hiệp hội bắt đầu sử dụng danh hiệu kế toán viên chuyên nghiệp khi hành nghề. Cuối những năm 1800, người Anh bắt đầu đầu tư tài chính ồ ạt vào những ngành công nghiệp đang phát triển ở Mỹ, do đó các kế toán Scotland và Anh bắt đầu di chuyển sang Mỹ để kiểm tra soát xét các hoạt động đầu tư này. Một số trong những người đó ở lại hành nghề ở Mỹ và lập nên một vài công ty kế toán ở đây. Số lượng các kế toán hành nghề công khai tăng lên nhanh chóng: từ 19 người năm 1850 lên 233 người năm 1886. Các nhóm kế toán ở các bang đã liên kết với nhau thành lập nên Hiệp hội Kế toán Mỹ, tiền thân của Hiệp hội Kế toán có giấy chứng nhận hành nghề Mỹ. Tuy nhiên ở thời điểm này, kế toán ở Mỹ vẫn được coi là mới bắt đầu và chỉ thực sự bước vào giai đoạn phát triển từ sau cuộc nổi dậy của dân chúng chấm dứt giai đoạn phát triển nền kinh tế nông nghiệp và chuyển sang nền kinh tế công nghiệp trong những thập niên sau đó. à Như vậy, có thể thấy, đến cuối thế kỷ 19, kế toán đã phát triển thành một nghề mang tính xã hội hoá và chuyên nghiệp hoá. Sang đến thế kỷ 20, với những biến cố về kinh tế, kế toán đã từng bước được hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ. * Thế kỷ 20 ở Mỹ Đầu thế kỷ 20, do sự xuất hiện của các vụ xì-căng-đan tài chính liên quan tới độc quyền và tư bản hoá quá mức, Uỷ ban thương mại giữa các tiểu bang (ICC) của Mỹ đã ban hành hệ thống kế toán thống nhất - được coi là ví dụ đầu tiên về việc kế toán được sử dụng như một công cụ của luật pháp liên bang. Khác với Anh - sử dụng bảng cân đối nhằm quản lý việc sử dụng vốn góp của cổ đông của ban lãnh đạo doanh nghiệp, bảng cân đối kế toán ở Mỹ chủ yếu nhằm phục vụ cho các ngân hàng - những người quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp hơn là khả năng thu lợi nhuận. Vào đầu năm 1920, hoạt động kinh doanh ở Mỹ có sự thay đổi đáng kể do đợt sụt giá hàng tồn kho nghiêm trọng (giá bán buôn giảm đến 40%). Hậu quả là dòng tiền lưu chuyển chậm, các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và thiếu hụt tín dụng. Để đối phó, các hãng kinh doanh sử dụng các nguồn tài chính ít chặt chẽ hơn để bổ sung cho dòng tiền hiện tại, một trong số những nguồn tài chính được ưa chuộng là từ phát hành cổ phiếu. Các cổ đông, khi đó sẽ trở thành những người quan tâm đầu tiên đến tình hình tài chính, và do đó tình hình kết quả kinh doanh bắt đầu được coi trọng hơn bảng cân đối kế toán. Các nhân tố khác như thuế thu nhập và chi phí kế toán cũng góp phần thúc đẩy sự quan tâm tới doanh thu và chi phí. Theo dòng thời gian, có ít nhất là bốn loại báo cáo về luồng vốn được sử dụng tổng hợp sự thay đổi về lượng tiền, thay đổi trong tài sản lưu động, vốn lưu động và toàn bộ các hoạt động tài chính. Trong những năm 40 của thế kỷ 20, kế toán tăng cường sử dụng báo cáo vốn để đo lường dòng tiền thực thay vì chỉ đơn thuần đo lường tổng thay đổi của vốn lưu động giữa các thời điểm lập bảng cân đối khác nhau. Báo cáo vốn trở thành bộ phận chủ yếu của báo cáo tài chính và từ năm 1971 là một bộ phận của báo cáo thường niên của các cổ đông theo yêu cầu của Hiệp hội Kế toán được cấp chứng chỉ hành nghề. Bước vào kỷ nguyên của thời đại thông tin (cuối thể kỷ 20 đến nay), kế toán đã chuyển từ kế toán thủ công sang kế toán trên máy, một bước phát triển vượt bậc, có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin kế toán phục vụ cho những người quan tâm. Chi phí sản phẩm ngày nay phần lớn được cấu thành từ chi phí nghiên cứu và triển khai (R&D), chất xám và dịch vụ. Hệ thống kế toán của Pacioli thực tế không thay đổi đáng kể trong suốt 500 năm qua và sẽ còn phù hợp chừng nào của cải của loài người còn mang tính vật chất, chi phí bao gồm chủ yếu là chi phí vật liệu và nhân công. Hệ thống kế toán sử dụng phương pháp ghi sổ kép dựa trên cơ sở thông tin gốc và cho phép cung cấp các báo cáo tài chính trong vòng 2 tuần kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán. Hoạt động kinh doanh ngày nay thậm chí yêu cầu cung cấp thông tin kế toán thậm chí trong một khoảng thời gian ngắn hơn thế, gần như là tức thì. Điều đó có thể thực hiện được với sự trợ giúp của máy tính. Với các chương trình phần mềm kế toán như Oracle, PeopleSoft và SAP, thực hành kế toán giống như một hệ thống thông tin cơ sở tích hợp tất cả các sự kiện về cả mặt định lượng và định tính. Nhờ đó, các báo cáo kế toán có thể được thiết lập chỉ sau một cái “nhấn nút”. Theo thứ bậc của nhu cầu tài chính, các thông tin tài chính cần được cung cấp bao gồm: - Thông tin về ngân sách: cung cấp số liệu về lượng tiền có thể huy động cho chi tiêu cho một chương trình, dự án hay dịch vụ nào đó. Đồng thời, nó cũng cung cấp các dự tính về doanh thu và doanh thu bằng tiền để trang trải cho nhu cầu chi tiêu. - Tình trạng ngân quỹ: cung cấp thông tin tài chính trong mối liên hệ với chi tiêu/nghĩa vụ và số dư ngân quỹ. Đồng thời, cung cấp các thông tin về doanh thu thực thu trong so sánh với doanh thu dự tính. - Chi phí quản lý: cung cấp thông tin về các nguồn lực sử dụng cho chương trình, dự án hay dich vụ, không kể nguồn lực tài chính. - Chi phí hoạt động: cung cấp thông tin về chi phí cho chương trình, dự án hay dich vụ ở từng cấp độ về quy mô, từ đó cho thấy mối liên hệ giữa kết quả thực hiện chương trình, dự án và dịch vụ với chi phí bỏ ra để thu được những kết quả này. Tuy nhiên, tuỳ vào từng thời điểm trong chu kỳ kinh doanh và mục đích sử dụng thông tin, thứ tự yêu cầu thông tin cũng có thể thay đổi. Hiện nay, kế toán đã phát triển với ba nhánh là kế toán tài chính, kế toán quản trị và phân tích hoạt động kinh doanh, tạo ra khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu sử dụng thông tin kế toán. - Kế toán tài chính: sắp xếp, phân loại, đo lường và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; lập báo cáo lỗ lãi và bảng cân đối vào cuối kỳ hạch toán nhằm phản ánh tình hình hoạt động và vị trí của doanh nghiệp trong kỳ. - Kế toán quản trị: bao gồm bốn chức năng chính là lập dự toán ngân sách, quản trị chi phí, phân tích chi phí - lợi nhuận và lập báo cáo bộ phận. Các thông tin do kế toán quản trị cung cấp mang tính nội bộ, chủ yếu phục vụ cho các cấp quản trị ra quyết định phù hợp. - Phân tích hoạt động kinh doanh: cung cấp thông tin về tình hình hoạt động trong kỳ trong mối quan hệ so sánh với kỳ trước và với kỳ kế hoạch, từ đó người sử dụng thông tin có thể nắm được xu hướng phát triển của doanh nghiệp, nguyên nhân và tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động. II. Sự phát triển của kế toán Việt Nam. Các vấn đề đặt ra với kế toán Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 1. Sự phát triển của kế toán Việt Nam Nhìn chung kế toán Việt Nam phát triển khá chậm và còn yếu. Có thể chia thành các giai đoạn sau: * Từ năm 1954 trở về trước: - Trong thời kỳ phong kiến: kế toán ở Việt Nam chỉ đơn giản là việc ghi chép mang tính liệt kê tài sản, nhằm phục vụ cho người sở hữu tài sản nắm được về tình hình tài sản của mình. - Khi thực dân Pháp vào xâm chiếm Việt Nam, xây dựng các nhà máy, đồn điền phục vụ cho chính sách bóc lột, đồng thời có sử dụng kế toán. Nghề kế toán qua đó được du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên, kế toán ở Việt Nam thời kỳ đó vẫn còn chưa phát triển. * Giai đoạn 1954-1975: Sau khi đánh thắng thực dân Pháp xâm lược và bị Mỹ nhảy vào xâm chiếm miền Nam, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền: Miền Bắc với sự giúp đỡ của Liên Xô phát triển theo đường lối XHCN, miền Nam tiếp tục cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Bối cảnh lịch sử đó đã có ảnh hưởng đến sự phát triển của kế toán Việt Nam. Miền Bắc áp dụng hệ thống kế toán của Liên Xô còn miền Nam áp dụng hệ thống kế toán Mỹ. * Giai đoạn 1976-1994: Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam thống nhất đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Hệ thống kế toán áp dụng ở Việt Nam trong thời kỳ này là hệ thống kế toán của Liên Xô trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, kế toán chỉ là công cụ phản ánh thụ động tình hình hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao. * Giai đoạn 1995 đến nay: đây là thời kỳ đổi mới, mở cửa nền kinh tế đất nước. Trong giai đoạn này, kế toán đã có những bước chuyển mình lớn lao. - Trước hết về vai trò và vị trí, sự phát triển của kinh tế thị trường đặt ra những yêu cầu về việc cung cấp thông tin kế toán một cách kịp thời đã đưa kế toán lên một vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính doanh nghiệp. Kế toán ngày nay trước hết là công cụ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của chủ doanh nghiệp, thông tin kế toán là cơ sở cho các quyết định kinh tế; Nhà nước cũng dựa vào kế toán để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế của mình. - Đồng thời, cũng trong giai đoạn này, hoạt động kế toán, kiểm toán đã phát triển thành một nghề nghiệp độc lập được xã hội thừa nhận thông qua sự ra đời và phát triển của 3 hệ thống: Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán độc lập và Kiểm toán nội bộ; hình thành Hội Kế toán Việt Nam, Câu lạc bộ Kế toán trưởng. Hơn thế hệ thống khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán đã và đang được từng bước hoàn thiện và tiếp cận với thông lệ quốc tế thể hiện ở sự ban hành Lụât Kế toán năm 2003 - được đánh giá là luật cởi mở, tiến bộ, thông thoáng; ban hành các chuẩn mực kiểm toán và kế toán; chế độ kế toán doanh nghiệp; kế toán hành chính sự nghiệp và hệ thống kế toán Ngân sách Nhà nước, v.v. Gần đây, với việc ban hành mẫu báo cáo tài chính mới, thông tin kế toán đã được hướng tới mục đích phục vụ các đối tượng quan tâm khác nhau chứ không chỉ đơn thuần là phục vụ cho việc tính thuế, và do đó kế toán thuế được tách riêng ra thành một phần hành kế toán riêng biệt. Nhìn chung hoạt động kế toán, kiểm toán Việt nam đã không ngừng cải thiện về chất lượng dịch vụ và đã được xác định là ngành thương mại dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi để ngành kế toán kiểm toán nước ta hội nhập vào hệ thống kế toán- kiểm toán khu vực và thế giới. - Đội ngũ kế toán và kiểm toán có trình độ ngày càng cao. Phương pháp kế toán đang chuyển dần từ thủ công sang kế toán trên máy. Bên cạnh đó, Kế toán quản trị và Phân tích hoạt động kinh doanh đã được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học từ khoảng 10 năm trở lại đây, góp phần củng cố kiến thức và trình độ chuyên môn cho những người làm công tác kế toán, kiểm toán, góp phần phát huy vai trò của kế toán phục vụ cho sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và cho kinh tế thị trường ở Việt Nam nói chung. 2. Các vấn đề đặt ra với kế toán Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 2.1. Những hạn chế của kế toán Việt Nam Việc đổi mới hệ thống kế toán tài chính Việt Nam để được quốc tế thừa nhận là một trong những cơ sở nền tảng và tiền đề đối với sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế. Về cơ bản, hệ thống kế toán Việt Nam đã và đang được xây dựng phù hợp, thống nhất với thông lệ kế toán của các quốc gia khác trên thế giới cũng như các chuẩn mực quốc tế. Những thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới, cải cách hệ thống kế toán có ý nghĩa to lớn, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được những bước chuyển biến lớn lao, trên thực tế, kế toán Việt Nam vẫn còn một số hạn chế: - Hệ thống kế toán còn tương đối cứng nhắc: hiện nay các văn bản hướng dẫn thực hành chế độ kế toán còn quá đi sâu vào kỹ thuật hạch toán nên tạo ra sự máy móc, khó phát huy tính chủ động linh hoạt của chủ thể hạch toán. Hệ thống tài khoản kế toán và mẫu biểu kế toán còn mang tính chi tiết và cứng nhắc hoặc còn tương đối phức tạp. - Vẫn còn một số lĩnh vực mà hệ thống kế toán Việt Nam chưa đề cập đến như hợp tác đầu tư, giảm giá trị tài sản, các công cụ tài chính ghi và xác định giá trị, v.v. - Chưa có sự phân định rõ ràng giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị. Hiện nay, kế toán tài chính đang thực hiện một phần nhiệm vụ của kế toán quản trị như việc tính giá thành trong khi thực chất nhiệm vụ của kế toán tài chính là phản ánh sự vận động của tài sản và nguồn vốn. (Ở một số nước phát triển, nhiệm vụ tính giá thành thuộc kế toán quản trị). - Tính tuân thủ quy tắc trong thực hành kế toán còn thấp. Nguyên nhân là do sự hạn chế về kinh nghiệm và trình độ của cán bộ kế toán, kiểm toán; sự thiếu hiểu biết và tôn trọng luật pháp. Hơn nữa, áp lực cạnh tranh trên thị trường chưa đủ mạnh để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến việc xây dựng và phát triển hệ thống thông tin kế toán, đặc biệt là thông tin kế toán quản trị. Nhu cầu minh bạch và công khai hoá thông tin kế toán đã có nhưng còn quá ít và chưa trở thành thói quen; chưa được quan tâm và chưa thực sự được coi trọng. - Đội ngũ cán bộ kế toán và phương tiện thực hành kế toán còn thiếu và yếu: Hiện nay ở một số doanh nghiệp vẫn sử dụng kế toán thủ công hoặc mới chỉ sử dụng Excel để làm kế toán. Đội ngũ cán bộ kế toán được đào tạo để sử dụng kế toán máy chưa nhiều, nhiều người chưa nắm vững các khái niệm, quy định được đề ra trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam, các thông lệ và nguyên tắc kế toán quốc tế. 2.2. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán, kiểm toán; ban hành tiếp các chuẩn mực kế toán, kiểm toán còn thiếu. Các văn bản hướng dẫn nên mang tính hướng dẫn, định hướng nhiều hơn là quy định chi tiết về kỹ thuật hạch toán, có như thế mới phát huy tính chủ động của doanh nghiệp. Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phải được xây dựng trên cơ sở vận dụng linh hoạt vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước về hoạt động kế toán, kiểm toán. Thứ hai, tiếp tục xây dựng và tăng cường vai trò của các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán với sự tham gia của những chuyên gia kế toán, kiểm toán viên có chứng chỉ. Đây là cầu nối và những điều kiện quan trọng trong tiến trình hội nhập. Thứ ba, phát triển đội ngũ kế toán, kiểm toán được trang bị đầy đủ về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Thứ tư, tiếp tục khuyến khích nghiên cứu hoàn thiện các phần mềm kế toán, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các giải pháp phần mềm. Thứ năm, xây dựng và phát triển mạnh thị trường tài chính và các công cụ tài chính của một nền kinh tế thị trường mở. Đây là môi trường và cũng là chỗ dựa quan trọng cho dịch vụ kế toán, kiểm toán tồn tại và phát triển. Thứ sáu, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp vì lợi ích của mình quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả, hiệu suất hoạt động, từ đó chủ động xây dựng và phát triển các hệ thống thông tin kế toán. Muốn vậy, Nhà nước cần từng bước bãi bỏ các sự trợ giúp, bảo hộ đối với các doanh nghiệp trong nước, buộc các doanh nghiệp phải tự cải thiện mình để tồn t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKế toán thế giới và Kế toán Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan