Đề tài Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế toán Việt Nam

MỤC LỤC

 Nội dung Trang

Lời nói đầu

I> Vai trò của kế toán trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp .1

 1. Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán 1

 2. Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý 2

 3. Chuyên nghành kế toán, chìa khoá của sự ổn định và duy

trì kinh tế ở các nước đang phát triển 3

 4. Tầm cao kế toán Việt Nam trong thiên niên kỷ mới .4

II> Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế toán Việt Nam .5

 1. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi chế độ

kế toán Việt Nam .5

 2. Góp phần hoàn thiện pháp chế XHCN .7

 3. Kế toán Việt Nam trong tiến trình cải cách hội nhập .8

 3.1. Các việc đã làm và kết quả đạt được trong tiến trình đổi mới .8

 3.2. Những công việc đang và sẽ tiếp tục triển khai .9

 3.3. 10 năm thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê .10

 4. Chuẩn mực kế toán và khả năng soạn thảo, ban hành và

công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam 12

 4.1. Chuẩn mực kế toán và sự cần thiết phải soạn thảo,

ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam 13

 4.2. Nguyên tắc soạn thảo, ban hành và công bố

chuẩn mực kế toán Việt Nam .13

III> Phương hướng, giải pháp hoàn thiện .15

 1. So sánh giữa hệ thống kế toán Việt Nam (VAS) và các chuẩn

mực kế toán quốc tế (IAS) trường hợp Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 15

 2. Vướng mắc và kiến nghị khi áp dụng chế độ kế toán

Việt Nam tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .19

 2.1. Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán .19

 2.2. Chỉ đạo và thực hiện công tác kế toán đối với các

doanh nghiệp có vốn ĐTNN 20

 3. Cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đến năm 2010 .22

 3.1. Mục tiêu .22

 3.2. Hướng cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đến năm 2010 .23

 

 

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế toán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai là, việc tổ chức thực hiện, đảm bảo hiệu lực thực tế của các văn bản pháp luật đó. Hai mặt này là hai bộ phận hữu cơ trong một chỉnh thể, có quan hệ tương tác, thúc đẩy lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Nếu hệ thống các văn bản pháp luật (còn thường được gọi là khung pháp lý) chưa thật hoàn hảo, mà công tác tổ chức thực hiện tốt thì vẫn có thể đạt hiệu quả khá trong đời sống kinh tế xã hội, đồng thời còn góp phần sớm điều chỉnh, bổ khuyết những bất cập về cơ chế chính sách, luật pháp. Nguợc lại, với một hệ thống khung pháp lý khi hoàn chỉnh, ưu việt mà việc tổ chức thực thi không nghiêm, kém tự giác và hiệu lực, thì tình trạng vi pham pháp luật, tham nhũng, tiêu cực vẫn có đất phát triển. Những thành tích vừa đạt được trong phong trào cả nước sôi nổi hưởng ứng thư của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu kêu gọi thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, tiêu cực, cho thấy việc tăng cường pháp chế XHCN có vai trò then chốt trong công tác này. Liên hệ vào lĩnh vực của chúng ta cũng thấy rõ hai khía cạnh. Phần lớn trong những mô hình quản lý, kinh doanh tốt và trong những cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực thành công đều có vai trò công tác kế toán và kiểm toán. Những cũng đáng tiếc là, trong không ít vụ việc sai phạm cũng đều hiện diện trách nhiệm kế toán trưởng, kế toán viên. Đau buồn hơn là có những trường hợp, khi vui vẻ tiêu xài, chi phí, ăn chia, kế toán trưởng chỉ là một thành viên nho nhỏ, nhưng khi vỡ lở thì phải gánh chịu hầu hết trách nhiệm với những hình phạt nặng nề. Kiểm nghiệm lại thực tế những vụ vi phạm pháp luật, có những trường hợp kế toán chủ động thực hiện hoặc tham gia, nhưng rất nhiều trường hợp là do bị động, ép buộc, bất khả kháng. Trong nhiều nguyên nhân của hiện tượng tiêu cực đó, có phần do pháp chế nói chung và khung pháp lý nói riêng chậm được đổi mới và thiếu đầy đủ, đồng bộ. Giờ đây, cùng với cả nước, giới kế toán, kiểm toán chúng ta có thêm điều kiện tích cực tham gia tiến trình hoàn thiện pháp chế XHCN. Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường pháp chế XHCN là sự nghiệp hệ trọng và lâu dài, tích cực tham gia vào sự nghiệp này vừa là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi công dân, vừa vì sự vẻ vang và lợi ích của chính những người gắn bó cuộc đời với nghề kế toán và kiểm toán. 3) Kế toán Việt Nam trong tiến trình cải cách hội nhập: 3.1) Các việc đã làm và kết quả đạt được trong tiến trình đổi mới: Ban hành Pháp lệnh kế toán và thống kê (1988), văn bản pháp lý đầu tiên và là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam. Với Pháp lệnh này kế toán Việt Nam đã dần đi vào nề nếp, phục vụ tốt cho kiểm kê, kiểm soát các nguồn lực. Xây dựng và ban hành hệ thống kế toán thống nhất áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế (1995). Hệ thống kế toán mới đã thoả mãn và phục vụ tốt yêu cầu của giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đồng thời thoả mãn yêu cầu hội nhập, mở cửa từng bước với khu vực và quốc tế. Các nguyên tắc, thông lệ và chuẩn mực quốc tế về kế toán đã được nghiên cứu, chọn lọc, cân nhắc và vận dụng; khuôn mẫu các báo cáo tài chính, phương pháp trình bày các báo cáo tài chính về cơ bản đã phù hợp với các thông lệ quốc tế; Có thể nói, cho đến nay những khác biệt giữa kế toán Việt Nam với kế toán các nước không nhiều. Nếu có khác đó là do các khuôn khổ pháp lý và các quy định, quy chế tài chính của các quốc gia. Từ năm 1987 đến nay,Việt Nam đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được lựa chọn và áp dụng các hệ thống kế toán phổ biến của các nước, không bắt buộc phải áp dụng hệ thống kế toán Việt Nam. Và chỉ từ 1/1/2001, các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mới buộc phải tuân thủ các quy định về kế toán Việt Nam. Trường hợp đặc biệt chưa áp dụng được phải được Bộ tài chính Việt Nam chấp thuận bằng văn bản. Đã hình thành hoạt động kiểm toán độc lập (1991), kiểm toán Nhà nước (1994) và kiểm toán nội bộ (1998). Các hoạt động tư vấn và dịch vụ kế toán đã hình thành và được phép hành nghề trong các công ty Nhà nước và tư nhân.Nghề kiểm toán đã hình thành và phát triển mạnh ở Việt Nam, cả 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn đã được phép hoạt động ở Việt Nam từ năm 1991 dưới hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với công ty kiểm toán Việt Nam. Đến nay ở Việt Nam đã có 19 công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán cùng nhiều chi nhánh và văn phòng đại diện hoạt động trong cả nước, cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn thuế, quản trị kinh doanh kiểm toán cho các công ty và các dự án. Chức danh kiểm toán viên hành nghề độc lập (CA, CPA) đã được thừa nhận. Chính phủ Việt Nam đã thành lập Hội đồng thi tuyển kiểm toán viên quốc gia. Từ năm 1994, Hội đồng đã tổ chức thi tuyển cho hàng nghìn lượt người và đã cấp chứng chỉ trúng tuyển kiểm toán viên cấp Nhà nước cho gần 400 người (cả người Việt Nam và người nước ngoài). Các tổ chức nghề nghiệp kế toán đã được thành lập và hoạt động khá hiêu quả. _ Câu lạc bộ kế toán trưởng: Thành lập năm 1989, hiện có 700 hội viên là kế toán trưởng doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp trong cả nước. _ Hội kế toán Việt Nam (VAA): Được thành lập từ năm 1994 với sự tham gia của hàng nghìn hội viên là các kế toán viên, kiểm toán viên và nhà quản lý kinh tế, cán bộ giảng dạy các trường ĐH kinh tế. Nhiều Phân hội, Chi hội kế toán các nghành, lĩnh vực và địa phương đã hoạt động có hiệu quả. Hội đồng quốc gia về kế toán (National Council For Accountancy) đã được thành lập vào năm 1999, làm nhiệm vụ tư vấn cho Bộ trưởng tài chính về kế toán, kiểm toán. Đã công bố 10/33 chuẩn mực kiểm toán. Đang tích cực soạn thảo, hoàn thiện và chuẩn bị công bố tiếp các chuẩn mực kế toán quốc gia (VAS) và chuẩn mực kiểm toán quốc gia (VAS). 3.2) Những công việc đang và sẽ tiếp tục triển khai: Xây dựng và ban hành Luật kế toán Việt Nam, tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán, kiểm toán của Việt Nam. Đây cũng là đòi hỏi hội nhập và tự do hoá tài chính. Soạn thảo và công bố các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc gia. Vấn đề này đã và sẽ triển khai khẩn trương trong một lô trình chặt chẽ. Thiết lập hệ thống kế toán Nhà nước (cũng có thể là hệ thống Tổng kế toán Quốc gia). Nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực của Hội kế toán Việt Nam và Hội đồng Quốc gia về kế toán, từng bước đảm nhiệm các chức năng huấn luyện, đào tạo, kiểm tra và giám sát hành nghề đạo đức nghề nghiệp của kế toán viên và kiểm toán viên; Hướng dẫn chuẩn mực kế toán và kiểm toán. Tích cực chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập quốc tế và tự do hoá tài chính. Cho đến nay, đã có 5 công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài đang hoạt động trong thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam. Thị trường này sẽ được mở cửa hơn nữa, thể hiện qua các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký hoặc đang đàm phán: _ Không hạn chế các công ty nước ngoài tham gia góp vốn liên doanh hoặc thành lập công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ kế toán và kiểm toán. Để được hoạt động, các công ty phải có ít nhất 5 thành viên (người Việt Nam hoặc người nước ngoài) có chứng chỉ kiểm toán viên độc lập do Bộ tài chính Việt Nam cấp hoặc các tổ chức nghề nghiệp nước ngoài cấp được Bộ tài chính thừa nhận và phải có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam trên 1 năm. _ Trong vòng 3 năm đầu thực hiện cam kết, việc cấp thẻ hoạt động cho các công ty sẽ được xem xét từng trường hợp cụ thể. Bộ tài chính sẽ quyết định số lượng các nhà cung cấp dịch vụ được cấp phép căn cứ vào tình hình phát triển của Việt Nam. Nhưng từ năm thứ 4 trở đi, việc cấp phép dựa trên cơ sở đánh giá chủ quan theo nhu cầu thị trường. Sau đó sẽ được thay thế bằng hệ thống các tiêu chí cấp phép rõ ràng và minh bạch. _ Về phạm vi hoạt động, trong vòng 2 năm đầu, các công ty kế toán có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai và các dự án nước ngoài tài trợ cho Việt Nam. Nhưng từ năm thứ 3 trở đi, phạm vi hoạt động của các công ty sẽ được mở rộng. Có thể nói rằng, hệ thống kế toán Việt Nam đã và đang được tiếp tục hoàn thiện phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Việt Nam sẵn sàng mở cửa đón nhận các dịch vụ kế toán và kiểm toán từ nước ngoài. 3.3) 10 năm thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê (1989-1999) : 3.3.1) Những việc đã làm: Tổ chức quán triệt nội dung Pháp lệnh kế toán và thống kê cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp, kế toán các nghành, các cấp và đơn vị cơ sở. Giai đoạn 1 (Từ năm 1988 đến năm 1995) thực hiện đổi mới và hoàn thiện hệ thống chế độ kế toán thao cơ chế bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, đảm bảo cho Pháp lệnh sớm đi vào thực tiễn cuộc sống nền kinh tế quốc dân đang bắt đầu đổi mới theo cơ chế thị trường. Giai đoạn 2 cải cách căn bản hệ thống kế toán Việt Nam theo cơ chế hạch toán kinh doanh và chủ yếu cho doanh nghiệp Nhà nước, bước đầu chuyển sang kế toán theo cơ chế thị trường nhiều thành phần. Thực tế các nghành, các cấp và các địa phương đã tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện Pháp lệnh kế toán - thống kê và hướng dẫn thi hành. Thực hiện từng bước mở cửa, hội nhập với quốc tế và khu vực về kế toán và kiểm toán. _ Tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tập huấn, khảo sát thực tế nước ngoài về công tác và tổ chức kế toán, kiểm toán, tiếp xúc sâu rộng với chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cho phép hàng trăm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện kế toán theo chuẩn mực quốc tế. _ Đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về kế toán lần thứ nhất ở Việt Nam vào tháng 1/1997; _ Đã mở cửa cho phép 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn nhất thế giới và một số công ty khác vào hoạt động ở Việt Nam; _ Đã gia nhập tổ chức liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và hiệp hội kế toán ASEAN (AFA). 3.3.2) Kết quả bước đầu: Đã xây dựng và đưa vào vận hành trong nền kinh tế quốc dân hệ thống kế toán doanh nghiệp phù hợp từng bước phát triển của nền kinh tế thị trường và đang thực hiện có hiệu quả trong mọi doanh nghiệp, tổ chức. Bước đầu quản lý thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, Các thành phần kinh tế. Chất lượng và kỹ thuật kế toán đã đáp ứng và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và cơ chế quản lý Nhà nước. Đã tạo lập được tiền đề, điều kiện để từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong công tác kế toán, kiểm toán. Trình độ (Về chính sách, chế độ và năng lực cán bộ) đã được nâng cao rõ rệt, đã tiếp cận đuợc phần lớn chuẩn mực và thông lệ kế toán, kiểm toán quốc tế, từng bước được công nhận. Đã hình thành và đưa vào hoạt động 18 công ty kế toán, kiểm toán với trên 1300 nhân viên chuyên nghiệp, 344 kiểm toán viên đủ trình độ hành nghề. Đã hình thành và đưa vào hoạt động hội kế toán Việt Nam (VAA), CLB kế toán trưởng, tiến đến thành lập Hội đồng kế toán quốc gia. 3.3.3) Những tồn tại chủ yếu: Về mặt văn bản pháp luật: _ Việc hoà lẫn hai loại hạch toán kế toán và hạch toán thống kê trong một văn bản là không hợp lý và kém hiệu lực. _ Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh là chưa bao quát, chưa đầy đủ và không phù hợp với tình hình đã phát triển. _ Nhiều hoạt động mới phát sinh trong nền kinh tế chưa được đề cập như: Đầu tư nước ngoài, hành nghề tự do, tổ chức nghề nghiệp… _ Nhiều nguyên tắc thông lệ kế toán của nền kinh tế thị trường chưa được đề cập trong Pháp lệnh: chuẩn mực kế toán, nguyên tắc kế toán dồn tích, hoạt động liên tục, thận trọng, dự phòng…kế toán tài chính, kế toán quản trị, niên độ kế toán 12 tháng tròn, cá nhân hành nghề tự do, tổ chức nghề nghiệp về kế toán… _ Nhiều quy định về kế toán và kiểm toán không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần: kiểm tra kế toán (kiểm toán), chức năng kế toán trưởng, nguyên tắc bố trí cán bộ kế toán, quản lý Nhà nước về kế toán, các thuật ngữ (Xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh…). Tồn tại trong thực hiện pháp lệnh: _ Hầu hết các sai phạm về kế toán dẫn đến các sai phạm về kinh tế tài chính đều tập trung từ gian lận về chứng từ kế toán: chứng từ giả, sửa chữa chứng từ, lập khống, hợp thức hoá, hai loại chứng từ cho cùng một nghiệp vụ… _ Vi phạm về mở sổ, khoá sổ, ghi chép không kịp thời, sai lệch, ghi sổ không dựa trên chứng từ kế toán, để ngoài sổ sách tài sản, vốn; Sửa chữa tẩy xoá tuỳ tiện, đặc biệt là mở 2, 3 loại sổ để dấu diếm, đối phó từng người sử dụng… _ Về báo cáo tài chính tồn tại chủ yếu là chậm chạp, lập không dựa theo sổ sách kế toán, số liệu báo cáo điều chỉnh tuỳ thuộc mục đích báo cáo… _ Công việc kiểm tra kế toán bị xem nhẹ đến mức hầu như không còn cần hoạt động kiểm tra kế toán định kỳ hoặc đột xuất… Những tồn tại về kế toán trưởng: Nhờ có Pháp lệnh kế toán thống kê, kế toán trưởng doanh nghiệp đã được quan tâm hơn từ việc đào tạo cơ bản, được bổ nhiệm chính thức, được hưởng lương và các quyền lợi vật chất, tinh thần tuơng đương với phó giám đốc doanh nghiệp, được xã hội thừa nhận.Tuy nhiên càng phát triển theo cơ chế thị trường thì quy định về kế toán trưởng đang có những tồn tại sau: _ Chức năng của kế toán trưởng không còn phù hợp: + Chức năng của kế toán trưởng là giúp Giám đốc tổ chức, chỉ đạo, thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế,đồng thời làm nhiệm vụ kiểm soát về kinh tế tài chính của Nhà nước tại xí nghiệp. + Chức năng trên không còn đúng trong điều kiện giao vốn, giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp; trong doanh nghiệp còn trưởng phòng kế toán, Trưởng phòng tài chính, Trưởng phòng (ban) kiểm toán nội bộ; Ban kiểm soát của HĐQT, có Giám đốc tài chính; Cơ chế thủ trưởng không nhất thiết phải đăng ký chữ ký của kế toán trưởng khi mở tài khoản ở ngân hàng… vai trò kế toán trưởng không được coi trọng… _ Việc đào tạo, bồi dưỡng kế toán trưởng không đựơc thực hiện thường xuyên hoặc bị coi nhẹ. 4) Chuẩn mực kế toán và khả năng soạn thảo, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam : 4.1) Chuẩn mực kế toán và sự cần thiết phải soạn thảo, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam : Chuẩn mực kế toán được hiểu như những quy định về các phương pháp kế toán được áp dụng đối với tất cả các báo cáo tài chính nhằm đưa ra sự đánh giá hoàn toàn trung thực cà khách quan về tình trạng và các hoạt động tài chính của một đơn vị kinh doanh. Các chuẩn mực này đề cập đến phương pháp hạch toán, đánh giá, thuyết minh và trình bày trong lĩnh vực kế toán. Các chuẩn mực kế toán ngày càng được áp dụng một cách rộng rãi trên toàn thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tại các quốc gia trên thế giới phát triển thành các công ty "đa quốc gia" và bản thân các quốc gia đó cũng đang hướng tới một môi trường thương mại tự do hơn và mang tính cạnh tranh hơn. Một trong các kết quả tất yếu của qua trình toàn cầu hoá ngày càng tăng của các doanh nghiệp, tăng nguồn vốn đầu tư… là nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao về tính nhất quán của các chuẩn mực kế toán và được áp dụng trên phạm vi toàn cầu. Trong khi chúng ta ủng hộ việc hài hoà các chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn có nhiều lý do để nghiên cứu, soạn thảo, duy trì và phát triển các chuẩn mực kế toán của mỗi quốc gia, ít nhất thì điều đó cũng đúng và rất đúng với Việt Nam. Tất nhiên cũng đúng với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đó là vì: _ Mỗi quốc gia có hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội và cơ chế kinh tế không hoàn toàn giống nha, thậm chí có thể có sự khác biêt lớn. _ Bản thân các chuẩn mực quốc tế về kế toán mang tính chất "toàn cầu" nên khó lòng mà đúng hết và phù hợp hết với hoàn cảnh của một quốc gia cụ thể. Xây dựng, duy trì và phát triển các chuẩn mực kế toán Việt Nam, hài hoà với chuẩn mực kế toán quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam là việc làm tất yếu trong quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Việc xây dựng phát triển các chuẩn mực kế toán nhằm thoả mãn và thích hợp với hàng loạt nhu cầu của những người lập báo cáo tài chính và sử dụng thông tin tài chính là một nhiệm vụ không thể được trì hoãn hoặc được tiến hành một cách uể oải. Với những kinh nghiệm thu thập được tại các quốc gia đang phát triển, Việt Nam không những phải xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia mà còn cần thiết và có thể phải tham dự vào quá trình hoàn thiện các chuẩn mực kế toán quốc tế.Điều đó sẽ mang lại nhiều sự đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển các thông lệ kế toán quốc tế. 4.2) Nguyên tắc soạn thảo, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam: Cần phải tham khảo và vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành. Điều này sẽ giảm nhẹ gánh nặng cho Việt Nam, vừa phù hợp với xu hướng hội nhập chung vào nền kinh tế thế giới, vừa phù hợp với mục tiêu cao cả của Liên đoàn kế toán quốc tế và Uỷ ban soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế là "Tăng cường và phát triển kế toán, kiểm toán trên phạm vi toàn thế giới theo các chuẩn mực hài hoà". Những kinh nghiệm của chúng ta trong soạn thảo chuẩn mực kiểm toán cho thấy rõ, việc tham khảo và vận dụng các chuẩn mực quốc tế không chỉ ở nội dung của chuẩn mực mà còn bao gồm cả hình thức trình bày và công bố các chuẩn mực nữa. Mỗi quốc gia không cần thiết phải "sáng tác" thêm trong hình thức trình bày các chuẩn mực.Tất cả các chuẩn mực quốc tế về kế toán mới ban hành hoặc đã được sửa đổi đều là nền tảng trong quá trình xây dựng và phát triển những chuẩn mực kế toán quốc gia. Đó là kinh nghiệm và bài học tốt của nhiều nước đang phát triển ở Châu á và trên thế giới. Nội dung các chuẩn mực kế toán Việt Nam phải phù hợp các quy định Pháp luật về hệ thống kế toán, không được trái ngược với các quy định này, thực tế hiện nay rất khó chi chúng ta trong quá trình biên soạn vì Pháp lệnh kế toán thống kê ban hành đã lâu và nhiều nội dung không còn phù hợp, trong khi Luật kế toán đang trong quá trình nghiên cứu soạn thảo để trình Quốc hội phê chuẩn. Vì vậy quá trình soạn thảo các chuẩn mực kế toán phải gắn chặt với quá trình soạn thảo Luật kế toán và phải phù hợp với những định hướng lớn khi soạn thảo Luật kế toán Việt Nam. Nội dung các chuẩn mực kế toán Việt Nam phải dựa trên nền tảng của mô hình kế toán động (gần với mô hình kế toán Mỹ, Anh) và kế thừa những thành quả của hệ thống kế toán Việt Nam. Quá trình soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán Việt Nam phải nắm vững và chú ý các đặc thù của nước ta: _ Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước có vai trò to lớn trong quản lý nền kinh tế nói chung, lĩnh vực kế toán và kiểm toán nói riêng. Vì vậy Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán cũng như kiểm toán. _ Các tổ chức nghề nghiệp về kế toán như Hội kế toán Việt Nam (VAA) còn chưa đủ mạnh vì chưa thực sự là một hội nghề nghiệp của các chuyên gia kế toán.Hội đồng quốc gia về kế toán còn đang trong quá trình hình thành… Vì vậy, cần phải có sự kết hợp giữa các yếu tố pháp lý và yếu tố nghề nghiệp trong quá trình soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán. _ Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là một nền kinh tế thị trường đang trong qúa trình phát triển và hoàn thiện. Nhiều nội dung trong hoạt động kinh tế còn chưa phát sinh hoặc còn chưa trở thành phổ biến. Đặc điểm này sẽ chi phối đến thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn các chuẩn mực để soạn thảo. _ Nội dung các quy định sẽ tạo thành các chuẩn mực kế toán Việt Nam là tổng hoà các quy định về chế độ kế toán, chính sách và chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp. Đây là một khác biệt cơ bản đối với các nước. Đặc điểm này dự báo soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam là hết sức phức tạp, không giống với việc soạn thảo các chuẩn mực kiểm toán. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị liên quan cũng như cách làm thích hợp trong biên soạn, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam. Quá trình hình thành hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam cần phải tham khảo, vận dụng quy trình soạn thảo,ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế, tận dụng được trí tuệ, năng lực rộng rãi của các chuyên gia, các nhà quản lý doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp…Các quy trình và kinh nghiệm này, nếu được áp dụng một cách phù hợp sẽ đảm bảo chất lượng của các chuẩn mực đựơc công bố và đạt được hiệu quả cao trong quá trình biên soạn chuẩn mực. Việc ban hành các chuẩn mực kế toán cần phải thiết lập một khuôn mẫu "linh hoạt " và nội dung các chuẩn mực kế toán phải thích hợp với tất cả các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế và quy mô doanh nghiệp. Kinh nghiệm của Singapo, Thái Lan cũng như nhiều nuớc trong khu vực chỉ rõ vào giai đoạn đầu của quá trình xây dựng chuẩn kế toán là thiết lập và xây dựng một khuôn mẫu cho việc "lập báo cáo khác nhau", theo đó phụ thuộc vào các tiêu thức khác nhau, một doanh nghiệp cụ thể sẽ được miễn trừ trình bày một bộ phận nhất định của báo cáo tài chính, đặc biệt là các đơn vị kinh doanh có quy mô nhỏ và hoạt động kinh doanh ít phức tạp. III> Phương hướng, giải pháp hoàn thiện: 1) So sánh giữa hệ thống kế toán Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) trường hợp báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Một quan điểm hiện nay đang được chú ý một cách rộng rãi tại Việt Nam đó là hệ thống các chuẩn mực kế toán toàn diện là rất cần thiết để hoàn thành việc cải cách hệ thống kế toán Việt Nam. Những chuẩn mực kế toán Việt Nam này vừa phải thống nhất với các chuẩn mực kế toán quốc tế, vừa phải đáp ứng những yêu cầu của Việt Nam. Trong một số trường hợp, VAS bao gồm những điều khoản tương tự, hoặc ít nhất cũng rất gần với những yêu cầu của IAS. Một trường hợp được đề cập là báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trong IAS số 7, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một phần không thể tách rời trong báo cáo tài chính. Tương tự như vậy, một bộ các mẫu báo cáo tài chính quy định trong Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995, cũng bao gồm việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tuy rằng cho đến nay điều đó cũng chưa phải là bắt buộc. Một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép người sử dụng các báo cáo tài chính đánh giá khả năng của doanh nghiệp tạo ra các nguồn tiền tệ và nhu cầu của doanh nghiệp về việc sử dụng những nguồn tiền tệ này. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đo khả năng của doanh nghiệp và các kết quả hoạt động kinh doanh trên phương diện thu nhập và chi phí. Có một mức độ chủ quan đáng kể trong việc xác định các khoản thu và chi (chẳng hạn dự phòng…). Báo cáo lưu chuyển tiền tệ loại trừ mọi khả năng sử dụng những đánh giá chủ quan bằng cách thay các khoản thu và chi bằng các luồng tiền tệ. Thu và chi là những khái niệm kế toán rất dễ chịu ảnh hưởng của các cách hiểu khác nhau. Trong khi đó, tiền và các luồng tiền tệ lại là những yếu tố khách quan có thể định lượng. Qua trao đổi với các chuyên gia về kế toán tại Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp đang phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Rất nhiều chuyên gia kế toán Việt Nam đều cho rằng không thể lập một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo quy định của VAS, điều này giải thích tại sao Bộ tài chính không quy định việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một nội dung bắt buộc trong VAS. Dựa vào các kinh nghiệm để kiểm tra giả thuyết rằng không thể lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo quy định của VAS, có thể lập một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dựa trên những dữ liệu trích từ một bài tập tình huống trong cuốn sách viết về kế toán quốc tế và dựa vào hướng dẫn chi tiết trong Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT. Kết luận thu được từ việc làm này là có thể lập một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo VAS, với điều kiện là phải có một số thay đổi nhỏ trong các quy định. Những thay đổi này được trình bày chi tiết trong đoạn sau: Khó khăn đầu tiên trong quy định hiện hành của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong VAS có liên quan đến thuế thu nhập. _ Trong phương pháp trực tiếp, thuế và các khoản phải trả cho ngân sách Nhà nước được ghi trong mã số 06 thuộc phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD. Điều này là chính xác. _ Trong phương pháp gián tiếp thu nhập thuần trước thuế thu nhập được chuyển thành lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động SXKD qua một quy trình cân đối phức tạp. Do quy trình cân đối bắt đầu với thu nhập thuần trước thuế thu nhập, thuế phải trả được hạch toán ở đâu đó trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên mẫu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại không quy định chỗ nào để hạch toán việc nộp thuế. Có hai cách để giải quyết vấn đề này: + Một số người đề nghị rằng thuế đã trả được hạch toán theo như cách hạch toán tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp, trong phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính (mã số 36). Họ lập luận rằng trong các doanh nghiệp Nhà nước, không có sự khác biệt về khái niệm giữa thuế và tiền lãi trả cho nhà đầu tư, và trong cả hai trường hợp này, tiền đều được trả cho Nhà nước. Lập luận này là thiếu sót vì 3 lý do sau: . Thứ nhất, nó không đề cập đến trường hợp của các liên doanh và các công ty tư nhân, khi thuế được trả cho Nhà nước và cổ tức trả cho các cổ đông tư nhân. . Thứ hai, ngay cả trong các doanh nghiệp Nhà nước, thuế và lợi tức trả cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp không có cùng một bản chất. Nhà nước, với tư cách là cơ quan cầm quyền của một quố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35150.doc
Tài liệu liên quan