Đề tài Sự sụp đổ của A&A và Enron

Nguyên nhân sự sụp đổ của Enron, xuất phát chủ yếu từ ban giám đốc(BGĐ). Thứ nhất, do những mục tiêu đặt ra cho BGĐ là quá cao trong khi năng lực BGĐ có hạn. Thứ hai, BGĐ phải chịu một áp lực rất lớn trong việc báo cáo có lãi và gia tăng lãi trong khi công ty gặp bất lợi trong kinh doanh. Thứ ba, việc xác định tài sản, công nợ, doanh thu và cho phí thường dựa trên ước tính chủ quan của BGĐ (chẳng hạn đánh giá giá trị của các công cụ tài chính). Thứ tư, BGĐ không tuân thủ chính sách quản trị công ty đã đề ra. Việc BGĐ cấp cao gây áp lực lớn lên các nhà quản lý cấp trung và kiểm toán viên đã góp phần kéo Enron, công ty lớn thứ 7 ở Mỹ, xuống vực thẳm như: Với chiến lược tăng trưởng nhanh,BGĐ Enron tích cực mua thêm các công ty và tài sản khác. Một phần lớn vốn vay từ ngân hàng. Một phần vốn do công ty phát hành quyền chọn mua cổ phiếu của công ty (Mang lại quyền mua cổ phiếu cơ sở vào một thời điểm nhất định với mức giá định sẵn ( giá thực hiện)v ới dối tác enron. Người mua quyền chọn sẽ phải trả một khoản phí cho người bán quyền chọn); Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn; Sự độc quyền trong việc quản lý kiểm soát, điều hành công ty; lãnh đạo công ty quyết định sản xuất với mức cao hơn công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản phẩm (nhờ tận dụng chi phí cố định), qua đó tăng lợi nhuận trong năm hiện tại. Tuy nhiên, mặt trái của việc làm này là máy móc thiết bị phải làm việc với công suất cao hơn mức tối ưu, ảnh hưởng tiêu cực tới năng suất và độ bền của thiết bị. Đồng thời, sản phẩm làm ra nhiều không bán được sẽ làm phát sinh chi phí bảo quản. Hàng tồn kho lâu ngày dẫn tới giảm giá trị. Các chi phí này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của công ty trong các năm tiếp theo. Hay là cắt giảm các khoản chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu phát triển (R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu bảo dưỡng thiết bị. Các chi phí này có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của công ty trong dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn ban lãnh đạo công ty có thể sẽ chọn giải pháp cắt giảm các chí phí này, đồng nghĩa với việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng lớn trong tương lai.

Doanh thu: Giá cả trong ngành năng lượng dao động rất mạnh, trong khi khách hàngcó nhu cầu ổn định giá. Với tư cách là một nhà cung cấp, Enron đã ký những hợpđồng cố định giá với khách hàng trong tương lai và thu phí từ những hợp đồng này.Những phí này được tính vào doanh thu hiện tại, trong khi rủi ro trong tương laiEnron sẽ phải gánh chịu

 

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 9904 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự sụp đổ của A&A và Enron, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã gây ra. III/ SỰ SỤP ĐỔ CỦA TẬP ĐOÀN NĂNG LƯỢNG ENRON KÉO THEO SỰ SỤP ĐỔ CỦA A&A Diễn biến sự việc 1.1. Bắt đầu từ sự kiện sụp đổ của tập đoàn năng lượng số một của Mỹ - Tập đoàn Enron Được thành lập từ năm 1985 trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas và Internorth of Omaha, cái tên Enteron (ruột) xuất phát từ ý tưởng cho rằng đó là bộ phận không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập niên 90, họ đã gây dựng từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên thị trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp hợp đồng giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng lượng ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà máy trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng lượng lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương tiện viễn thông. Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD, lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí Fortune, luôn công bố những thông tin thiếu thực tế điều mà Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với số vốn kinh doanh 63 tỷ USD. Sai lầm của công ty này chính là phụ thuộc quá nhiều vào các giao dịch tài chính. Vào tháng 8/2001, Giám đốc Điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý do cá nhân. Enron công bố lỗ 618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2 tỷ USD. Khi công ty khó khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng bằng cổ phiếu. Làm cách đó, giá trị của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng. Khi Ủy ban Chứng khoán Mỹ điều tra, Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi, cổ phiếu của Enron tụt giá thảm hại, lòng tin của khách hàng đã mất khiến họ không đầu tư nữa và công ty khánh kiệt. Theo các chuyên gia kinh tế, một công ty hoạt động lành mạnh phải công khai tài chính với các đối tác và ngược lại. Thế nhưng, nhiều đối tác của Enron đã không tuân theo các nguyên tắc kế toán khiến họ bất lực trong việc kiểm soát tình hình tài chính. Một công ty được đánh gí là có doanh thu trên 100 tỷ USD mà lợi nhân đạt ở mức khó tưởng 10tỷ USD. Đây chính là cơ sở nghi nhờ khiến vụ việc này bị phanh phui. Số nợ 1,2 tỷ USD bị che giấu đã gây hoảng loạn trên thị trường chứng khoán khi nó bị tiết lộ. Chính những thông tin sai lệch về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo rất hiệu quả qua công ty kiểm toán Arthur Andersen và các nhà phân tích phố Wall, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục. Chi nhánh Houston của Arthur Andersen đã đưa ra những Báo cáo Kiểm toán sai lệch nhằm có lợi cho Enron nên đã nhận được 1 triệu USD/tuần còn tham gia cả việc tìm kiếm đối tác cho Enron. Số tiền kếch xù trên đã làm mờ mắt các nhân viên kiểm toán và họ dễ dàng bỏ qua nguyên tắc. Điều trần trước Quốc hội Mỹ trong tháng trước, Tổng giám đốc điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa nhận họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã làm tất cả để hạn chế thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy hầu hết tài liệu có liên quan đến vụ việc, ngay cả khi Ủy ban Chứng khoán đã mở cuộc điều tra. Nhiều nhà phân tích chứng khoán hồi tháng 11/2001 còn tư vấn cho khách hàng mua cổ phiếu Enron. Nhiều người thừa nhận không hiểu sâu về công việc làm ăn của Enron nhưng tin rằng đây là công ty có triển vọng bởi cổ phiếu của họ liên tục tăng giá trong thời gian dài. Trong khi các chuyên gia phân tích phải đánh giá tình hình tài chính của Enron một cách độc lập thì họ lại phụ thuộc chủ yếu vào báo cáo tài chính do Arthur Andersen cung cấp. Đến khi công ty tuyên bố phá sản với số nợ 31,2 tỷ USD, không ít nhà đầu tư bị mất trắng. Mọi người cho rằng Enron là một công ty lâu đời với rất nhiều nhà máy thì họ có thể bán bớt tài sản. Tuy nhiên, điều này là vô vọng. Thực tế cả ông Bill Clinton, Tổng thống Bush và nội các đều có mối quan hệ chặt chẽ với giới chóp bu của tập đoàn Enron, nhưng tất cả đều phủ nhận có liên quan đến sự sụp đổ này. Hai năm trước, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Mỹ Arthur Levitt yêu cầu các công ty không nhận phí kiểm toán do lo ngại tiêu cực dễ nảy sinh, nhưng ông đã vấp phải sự phản đối quyết liệt. Sự cố đang xảy đến với Andersen có khả năng biến đề xuất của Levitt thành sự thật. Các chuyên gia cho rằng tình hình của Enron có thể khả quan hơn và rất có thể không dẫn tới sụp đổ nếu như những báo cáo tài chính của Enron không được bảo kê bởi một thương hiệu lớn: Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen. Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn. Để che giấu việc công ty đã vay quá khả năng chi trả, lãnh đạo Enron đã lợi dụng kẽ hở luật pháp để lập ra các công ty con mà không khai báo tài chính. Bằng cách này, Enron vừa không phải công khai các khoản nợ, vừa che giấu được những khoản lỗ. Kết quả là Enron đã thổi phồng lợi nhuận của mình và giá cổ phiếu của công ty cũng theo đó tăng lên vun vút. Khi mà Enron phải thông báo chính thức rằng từ năm 1997 công ty đã thua lỗ trên 500 triệu USD, những người "trong cuộc" đã kịp thời thu những món lợi khổng lồ từ cổ phiếu của công ty. Cụ thể, ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty. Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố. Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD. Những hoạt động tài chính của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận hành của điều mà nhiều nhà phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một mạng lưới chằng chịt quan hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc biệt là Công ty kiểm toán Arthur Andersen đã giúp cho Enron. Kế toán trưởng của Enron là Richard Causey - Kiến trúc sư thiết kế ra hệ thống lừa dối cổ đông - nguyên là kiểm toán viên của Andersen chuyển sang. Điểm lý thú là Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó chính mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của Enron. Phí tư vấn và kiểm toán đều là những con số khổng lồ. Ví dụ, năm 2000, phí tư vấn là 27 triệu USD và phí tư vấn là 25 triệu USD. Tin vào danh tiếng của Arthur Andersen (hoặc cố tin), đến lượt các công ty phân tích chứng khoán và ngân hàng đầu tư ở phố Wall cho đến trước cuộc khủng hoảng vẫn khuyên các nhà đầu tư mua cổ phiếu của Enron. 1.2. Diễn biến sự sụp đổ của Enron Trước năm 2002, thị trường tư vấn tài chính và kiểm toán thế giới chịu sự thống trị tuyệt đối của ngũ đại gia: KPMG, Deloitte & Touche, Ernst & Young, PriceWaterhouseCooper, và Arthur Andersen. Họ chiếm ba phần tư doanh số của thị trường tư vấn - kiểm toán trị giá hàng trăm tỉ đô la mỗi năm. Trong 100 công ty lớn nhất thế giới, 99 công ty sử dụng dịch vụ của ngũ đại gia.( Số liệu từ tạp chí Casablanca) Bắt đầu từ vụ vỡ lở vào cuối năm 2001 và đầu năm 2002, mọi người mới nhìn kỹ hơn đến nhà kiểm toán Arthur Andersen. Đây không phải lần đầu đại gia này bị lâm vào rắc rối. Nhưng tất cả các lần rắc rối trước, Andersen đều thoát ra bằng cách chi tiền "dàn xếp" với bên nguyên đơn. Luật pháp Mỹ cho phép bên bị đơn chi tiền để dàn xếp các vụ kiện dân sự trong khi vẫn không nhận lỗi. Nhưng đến vụ Enron thì Andersen không còn có thể dàn xếp, vì đây là vụ án hình sự. Ngoài các lỗi như không phát hiện được những bất thường trong hồ sơ kế toán của Enron, giúp Enron nổi danh trên thị trường trong khi thực chất đang thua lỗ nặng.. thì Andersen đã bị buộc một tội hình sự nghiêm trọng là cố ý cản trở công việc điều tra thông qua việc tiêu hủy hàng ngàn tài liệu có liên quan đến Enron. Enron - tập đoạn lớn thứ 7 nước Mỹ - bắt đầu sa lầy vào khủng hoảng từ cuối năm ngoái. Ngày 26-10-2001, công ty sụp đổ với khoảng nợ quyết đoán với 13 tỷ dollars và hàng tỷ dollars nợ vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải tuyên bố phá sản đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ khiến hàng ngàn nhân viên đã đầu tư vào quỹ lương hưu của Enron giờ đã tay trắng hoàn toàn. Tuần qua Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ quyết định điều tra xem có phải các giới chức Enron đã phạm tội lừa đảo trước khi công ty phá sản hay không? Cổ phiếu của Enron bị ngừng giao dịch trên thị trường hôm 11-1. Tập đoàn Arthur Anderson chịu trách nhiệm kiểm toán của Enron vừa thú nhận rằng họ đã hủy bỏ khá nhiều tài liệu nói về sai phạm tài chánh ở Enron. Cuối năm ngoái, Enron đã cầu cứu các giới chức cao cấp của chính quyền Bush, trong đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và Bộ Trưởng Thương Mại Don Evans để tìm kiếm sự giúp đỡ. Lúc đó, ông O'neil đã không thông báo cho TT Bush về cuộc khủng hoảng của Enron và chính quyền cũng không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũng như cổ đông của Enron khiến họ giờ đây bị mất tất cả. (Source:AP và AFP). Lời bào chữa duy nhất của Andersen là việc tiêu hủy tài liệu chỉ là "quy trình bình thường" và công ty vẫn lưu giữ những tài liệu ở mức tối thiểu theo luật định. Ngay sau khi bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ kiện khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD. Ngay sau khi vỡ lở vụ việc, Arthur Andersen bắt đầu thương lượng để sáp nhập vào Deloitte & Touche, công ty xếp thứ 5 thế giới trong lĩnh vực kiểm toán và từng là đối thủ cạnh tranh của Arthur. Cuộc đàm phán đầu tiên giữa hai hãng được bắt đầu với nội dung Deloitte sẽ đảm bảo thanh toán các khoản nợ của Arthur có nguồn gốc từ vụ phá sản Enron, và thương hiệu Arthur Andersen phải biến mất. Nhưng khi Deloitte nhận thức được qui mô của vấn đề, cuộc đàm phán đã không đi đến kết quả nào. Cuộc đàm phán thứ hai là với KPMG, đối thủ cạnh tranh truyền kiếp của Andersen. Cũng như Deloitte, công ty KPMG không sẵn lòng tiếp nhận cái thương hiệu quá tệ hại, trong khi rất muốn tiếp nhận một phần trong số 85,000 chuyên gia của Andersen, những người không chỉ mang theo chuyên môn mà còn mang theo mối quan hệ với khách hàng. Cuối cùng thì PKMG cũng đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ" của Andersen với cái giá rẻ mạt là 284 triệu USD. Một trong ngũ đại gia là Ernst & Young đã chiếm được phần lớn những khách hàng và chuyên gia của Andersen ở Mỹ. Các công ty nhỏ hơn cũng kiếm được phần chia. Công ty tư vấn Hitachi Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong số đó đến nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting. Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế giới, với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ còn không đầy 200 người, chủ yếu để hầu kiện trong các vụ kiện của cổ đông trong các công ty khách hàng trước đây. Nếu vụ tai tiếng Enron có thể minh chứng cho một điều gì đó thì đó là bản chất dính líu lẫn nhau của thế giới kinh doanh hiện đại. Sự kiện sụp đổ của Enron có liên quan tới rất nhiều người, đặc biệt là ở tiểu bang Texas. “Ở một mức độ nào đó thì rõ ràng là mọi người đều có dính líu với Enron”, Richard Murray, giám đốc trung tâm Chính sách Công cộng của viện đại học Houston, khẳng định. Dù sao, trong lúc tổ chức Enron có một tác động tiêu cực với cộng đồng kinh doanh Texas thì với những công ty trực tiếp dính líu đến Enron trong việc kinh doanh, hậu quả thật sự là thảm họa. Với công ty kiểm toán cho Enron, Arthur Andersen, việc dính líu này có một tác động chết người. Hơn nữa, vụ tai tiếng Enron có liên quan đến việc kiểm toán. Đặc biệt là việc che giấu hồ sơ liên quan đến tài khoản và những món nợ khổng lồ của Enron, một thực tế về sự đồng loã của công ty kiểm toán. Sự đồng loã này càng rõ ràng hơn khi David Duncan, kế toán trưởng của Enron ở Andersen, bị buộc phải có mặt trong cuộc điều tra đầu tiên đã từ chối nói chuyện để cố chạy tội cho bản thân. Ngay cả khi Joseph Beradino, trưởng ban điều hành của Andersen, ngang ngạnh bảo vệ cho vai trò của công ty ông trong việc này cũng không thể tránh được những tổn thương bắt buộc. Một khi họ đã bị cáo buộc là có tội trong việc huỷ hoại chứng cớ, công ty gánh chịu sự tổn thương thương hiệu nghiêm trọng và những chấn động vẫn còn cảm nhận được trong toàn ngành công nghiệp kiểm toán. Phân tích nguyên nhân Nguyên nhân sự sụp đổ của Enron, xuất phát chủ yếu từ ban giám đốc(BGĐ). Thứ nhất, do những mục tiêu đặt ra cho BGĐ là quá cao trong khi năng lực BGĐ có hạn. Thứ hai, BGĐ phải chịu một áp lực rất lớn trong việc báo cáo có lãi và gia tăng lãi trong khi công ty gặp bất lợi trong kinh doanh. Thứ ba, việc xác định tài sản, công nợ, doanh thu và cho phí thường dựa trên ước tính chủ quan của BGĐ (chẳng hạn đánh giá giá trị của các công cụ tài chính). Thứ tư, BGĐ không tuân thủ chính sách quản trị công ty đã đề ra. Việc BGĐ cấp cao gây áp lực lớn lên các nhà quản lý cấp trung và kiểm toán viên đã góp phần kéo Enron, công ty lớn thứ 7 ở Mỹ, xuống vực thẳm như: Với chiến lược tăng trưởng nhanh,BGĐ Enron tích cực mua thêm các công ty và tài sản khác. Một phần lớn vốn vay từ ngân hàng. Một phần vốn do công ty phát hành quyền chọn mua cổ phiếu của công ty (Mang lại quyền mua cổ phiếu cơ sở vào một thời điểm nhất định với mức giá định sẵn ( giá thực hiện)v ới dối tác enron. Người mua quyền chọn sẽ phải trả một khoản phí cho người bán quyền chọn); Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn; Sự độc quyền trong việc quản lý kiểm soát, điều hành công ty; lãnh đạo công ty quyết định sản xuất với mức cao hơn công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản phẩm (nhờ tận dụng chi phí cố định), qua đó tăng lợi nhuận trong năm hiện tại. Tuy nhiên, mặt trái của việc làm này là máy móc thiết bị phải làm việc với công suất cao hơn mức tối ưu, ảnh hưởng tiêu cực tới năng suất và độ bền của thiết bị. Đồng thời, sản phẩm làm ra nhiều không bán được sẽ làm phát sinh chi phí bảo quản. Hàng tồn kho lâu ngày dẫn tới giảm giá trị. Các chi phí này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của công ty trong các năm tiếp theo. Hay là cắt giảm các khoản chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu phát triển (R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu bảo dưỡng thiết bị. Các chi phí này có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của công ty trong dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn ban lãnh đạo công ty có thể sẽ chọn giải pháp cắt giảm các chí phí này, đồng nghĩa với việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng lớn trong tương lai. Doanh thu: Giá cả trong ngành năng lượng dao động rất mạnh, trong khi khách hàngcó nhu cầu ổn định giá. Với tư cách là một nhà cung cấp, Enron đã ký những hợpđồng cố định giá với khách hàng trong tương lai và thu phí từ những hợp đồng này.Những phí này được tính vào doanh thu hiện tại, trong khi rủi ro trong tương laiEnron sẽ phải gánh chịu Các công ty con: còn gọi tắt là SPE (Special Purpose Entity) được Enron thành lập ra để đứng tên tài sản, đồng thời gánh chịu và cô lập các rủi ro tài chính. Ví dụ, khi Enron phát triển thêm đường ống, công ty có thể lập ra một SPE. Đơn vị SPE này sẽ làm chủ đường ống và thế chấp ngay ống này để vay tiền xây dựng. Enron vẫn đượcsử dụng đường ống này và lấy doanh thu từ đường ống để thanh toán cho chủ nợ.Theo cách này, bảng cân đối kế toán của công ty không thể hiện cả tài sản (đườngống) lẫn trách nhiệm nợ tương ứng. Luật kế toán liên quan đến SPE: Theo các qui định kế toán, trong tổng vốn củacông ty con phải có ít nhất 3% cổ phần của Enron. Nhưng nếu cổ phần của Enron chỉ ở dưới 50% tổng cổ phần của SPE, sổ sách của Enron không phải thể hiện tài sản vàtrách nhiệm nợ của SPE. Sự lạm dụng các SPE: Tuy số lượng các SPE đã tăng lên trong nhiều năm qua, một công ty có đến bốn hay năm đối tác như vậy đã là quá nhiều.Vào thời điểm sụp đổ, Enron có đến 900 SPE, hầu hết đặt ở các nước ưu đãi thuế haydễ dãi về luật kế toán. Enron sử dụng những SPE này để thao túng các báo cáo tàichính, che giấu các nhà đầu tư những thông tin lẽ ra phải công bố, và khai thác cáckhác biệt về luật kế toán tài chính cũng như luật kế toán thuế. Nợ của công ty con: Dù cho chỉ có rất ít vốn chủ sở hữu, các SPE có thể vay ngân hàng do hai lý do. Thứ nhất, các chủ nợ tin tưởng là Enron đã ký hợp đồng sử dụng tàisản của SPE nên hoạt động của SPE được bảo đảm. Thứ hai, họ tin là Enron đã bảolãnh rủi ro cho các khoản vay của SPE. Nợ của Enron: Bản thân Enron cũng đi vay để phát triển mở rộng, nhưng một côngty không thể vay quá nhiều do các điều khoản hạn chế của chủ nợ. Enron đã sáng tạora một xảo thuật hợp pháp trong đó Enron, SPE, và công ty JP-Morgan đã dùng cáchợp đồng hoán chuyển làm cho nợ dài hạn được thể hiện trên bảng cân đối như “tráchnhiệm chứng khoán”. Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận: Enron bán tài sản cho các SPE với giá đã đượcthổi phồng lên để tạo ra lợi nhuận giả tạo. Công ty cũng mua qua bán lại với SPE đểtăng doanh số và giảm bớt mức độ dao động của lợi nhuận. Che dấu thua lỗ: Tuy đến quý 3/2001 công ty mới báo cáo lỗ, nhưng thực chất lỗ đãphát sinh từ các năm trước. Đặc biệt là vào cuộc khủng hoảng nhiên liệu năm 2000,khi giá nhiên liệu thế giới lên cao nhưng Enron vẫn phải bán ra với giá cố định theocác hợp đồng đã ký trước. Công ty đã dùng các thủ thuật hợp đồng để chuyển nhữngkhoản lỗ này sang các SPE.Tuy nhiên khi các SPE thua lỗ thì trị giá cổ phần của Enron trong SPE giảm xuốngdưới mức tối thiểu 3% theo yêu cầu. Việc Enron phải hợp nhất tình hình tài chính củaSPE vào báo cáo tài chính của công ty mẹ gây ra hai tác động: nợ của công ty mẹ tănglên và lợi nhuận của công ty mẹ giảm xuống. Phản ứng dây chuyền: Enron cũng cho các SPE “vay” các cổ phiếu của mình, khigiá cổ phiếu của Enron giảm xuống, tài sản của các SPE tiếp tục giảm xuống và tiếp tục vi phạm quy định về 3% đến mức phải hợp nhất vào báo cáo của Enron. Gian lận của các quản lý cao cấp diễn ra trong toàn công ty. Nhiều cán bộ điều hành hưởng lợi. Hàng loạt cán bộ quản lý của Tập đoàn năng lượng Enron dính líu đến gian lận kế toán, giao dịch nội bộ bất hợp pháp. Việc đặt ra các nguyên tắc kế toán chặt chẽ, chế độ báo cáo hàng quý, quy định trả phí quyền mua cổ phiếu trước tỏ ra vô hiệu. Nguyên nhân bắt nguồn từ một số vấn đề - các quy định, quy chế ban hành đã cản trở nhà đầu tư khi "thôn tính" một công ty được đưa ra các quyết định của mình, luật thuế bị lách theo hướng tiêu cực… các vị lãnh đạo chóp bu trong đó phải kể đến Giám đốc điều hành Andrew Fastow của Enron đã hưởng lợi trái phép trên 33 triệu USD từ các giao dịch Kẽ hở giúp các vị giám đốc kiếm lời ở đây chính là mức phí quyền mua cổ phiếu của nhân viên ở mức rất cao và tính độc quyền trong ban quản lý công ty. Chi phí trả cho quyền mua cổ phiếu là điều đương nhiên nhưng chi phí này chiếm tỷ lệ quá cao là điều vô lý, hay ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty. Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố. Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD. Thủ tục kế toán không minh bạch đã che đậy tình trạng thua lỗ của tập đoàn bằng cách thành lập các công ty vỏ bọc bên ngoài.các bản báo cáo tài chính không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện doanh nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. chính kỳ vọng quá lớn của thị trường đã đẩy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi gian lận tài chính. Sau khi bị phanh phui, giá trị của Enron(giá trị của các cổ phiếu tr ên thị trường chứng khoán =P x Q(tổng số cổ phiếu) nhanh chóng bị tụt xuống dưới mức 1 tỷ USD so với giá trị thực (Giá trị của các tài sản thuộc sở hữu công ty) 30 tỷ và kết cục sau cùng là phá sản. Trong quá trình lập báo cáo tài chính, công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Vì không có một tiêu chuẩn chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để phù phép lợi nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho (đánh giá lại tài sản), giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuấng dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện ( v í d ụ Chi phí đi vay không đủ điều kiện vốn hoá là chi phí không liên quan trực tiếp đến việc đầu tư xây dựng cơ bản hoặc sản xuất tài sản dở dang được tính vào giá trị của tài sản đó. Các chi phí đi vay chỉ được vốn hoá khi doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do sử dụng tài sản đó và chi phí đi vay có thể xác định một cách đáng tin cậy. Chi phí đi vay được vốn hoá tính cho 2 trường hợp sau: Chi phí đi vay được vốn hoá liên quan đến từng khoản vốn vay riêng biệt được xác định là chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản vay trừ (-) đi các khoản thu nhập phát sinh từ hoạt động đầu tư tạm thời của các khoản vay này. Chi phí đi vay được vốn hoá liên quan đến các khoản vốn vay chung được tính toàn bộ chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản vốn vay chung vào giá trị tài sản dở dang. Khoản thu nhập phát sinh do đầu tư tạm thời từ khoản vốn vay chung được tính vào doanh thu hoạt động tài chính....) Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh khỏi. Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực (Real earnings management) nhằm tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi cho công ty về lâu dài. Mối quan hệ giữa Andersen với enron không chỉ là tư vấn và kiểm toán mà còn là nguồn cung cấp lãnh đạo tài chính. Kế toán trưởng Richard Causay của Enron nguyên làngười của Andersen. Giám đốc Tài chính của Enron trước Andrew Fastow là Jeffrey McMahon nguyên cũng từ Andersen chuyển sang. Ngoài ra công ty Andersen đã cản trở công việc điều tra, hủy những tài liệu lưu trữ của mình có liên quan đến Enron, chỉ giữ lại những tài liệu tối thiểu theo quy định của luật, Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen cố tình làm sai lệch thông tin che mắt giới chức và lừa dối các nhà đầu tư Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm toán của Andersen đã cực lực phản đối phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần sau, nhân viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của Enron. Một nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng khoán) đã xếp hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng”. Nhân viên này bị sa thải ngay sau đó. Trách nhiệm pháp lý - Đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên Chuẩn mực đạo đức là một khái niệm nhạy cảm của bất cứ ngành nghề nào trong xã hội, nhất là đối với nghề nghiệp có liên quan mật thiết với hoạt động kinh tế như kế toán, kiểm toán. "Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán đã được xây dựng trên nền tảng: "độc lập; khách quan và chính trực; bảo mật; năng lực chuyên môn và tính thận trọng; tư cách nghề nghiệp; tuân thủ chuẩn mực chuyên môn".Đạo đức nghề nghiệp – Tài sản "vô hình" quí giá của người hành nghề" Đạo đức kinh doanh kiểm toán với công ty A&A Đây không phải là trường hợp đầu tiên xảy ra việc làm sai lệch thông tin che mắt giới chức và lừa dối các nhà đầu tư. Các công ty kiểm toán khác cũng đã từng phải bồi thường những con số khổng lồ hàng trăm triệu đô la. Nhưng một khi chưa bị rút giấy phép kiểm toán, chưa ai phải đi đến kết thúc bi thảm như A&A Khi một bản báo cáo tài chính bị thể hiện sai sự thật, người thiệt hại là cổ đông khi họ mua bán cổ phiếu dựa theo những thông tin đó. Người được lợi là những kẻ "bên trong" biết rõ nội tình, biết rõ khi nào phải mua và khi nào nên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự sụp đổ của A&A và Enron.doc
Tài liệu liên quan