Đề tài Sự tác động của các chính sách vĩ mô đến giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay

Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước coi giải quyết việc làm là hướng ưu tiên trong mọi chính sách xã hội. Quan điểm, chủ trương nhất quán về việc làm của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa trong “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm” (thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định 126/1998/QĐ-TTg

Với chính sách việc làm hợp lý, Việt Nam đã đạt được thành tựu quan trọng về tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 5,96% năm 1996 xuống 4,4% năm 2006 và tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn từ 72,1% năm 1996 lên 81,7% năm 2006 [25].

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình thực hiện chính sách việc làm còn những tồn tại sau:

- Chương trình việc làm mới chỉ tập trung vào việc thực hiện mục tiêu hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề, vì vậy tính bền vững không cao.

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự tác động của các chính sách vĩ mô đến giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu người của 20% người nghèo nhất. Đại lượng này được sử dụng rất phổ biến ở cả các nước phát triển và đang phát triển. - Tỷ trọng thu nhập/tiêu dùng của x% người nghèo nhất: chỉ tiêu đo lường tỷ trọng thu nhập/tiêu dùng của x%, ví dụ 20%, người nghèo nhất là một thước đo tốt hơn theo nghĩa nó sẽ không thay đổi khi sự thay đổi của một chính sách nào đó, ví dụ thuế, dẫn tới giảm thu nhập khả dụng của những người nghèo nhất. 1.1.2.4. Các chuẩn mực đánh giá nghèo ở Việt Nam Chuẩn nghèo của Việt Nam được xây dựng từ năm 1992 và đã có sự điều chỉnh qua các thời kỳ 1992-1995; 1996-2000; 2001-2005 và 2006-2010. Thời kỳ 1992-1995: Hộ đói: là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người dưới 8kg/tháng ở nông thôn, dưới 13kg/tháng ở thành thị. Hộ nghèo: là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người dưới 13kg/tháng ở nông thôn, dưới 20kg/tháng ở thành thị. Thời kỳ 1996-2000: Hộ đói: là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người dưới 13kg/tháng (tương đương dưới 45.000đ). Hộ nghèo ở miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân đầu người dưới 15kg/tháng (tương đương dưới 55.000đ). Hộ nghèo ở nông thôn: thu nhập bình quân đầu người dưới 20kg/tháng (tương đương dưới 70.000đ). Hộ nghèo ở thành thị: thu nhập bình quân đầu người dưới 25kg/tháng (tương đương dưới 90.000đ). Thời kỳ 2001-2005: - Hộ nghèo ở nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân đầu người dưới 80.000đ/tháng hay dưới 960.000đ/năm. - Hộ nghèo ở nông thôn đồng bằng: thu nhập bình quân đầu người dưới 100.000đ/tháng hay dưới 1.200.000đ/năm. - Hộ nghèo ở thành thị: thu nhập bình quân đầu người dưới 150.000đ/tháng hay dưới 1.800.000đ/năm. Thời kỳ 2006-2010: - Hộ nghèo ở nông thôn: thu nhập bình quân dưới 200.000đ/người/tháng. - Hộ nghèo ở thành thị: thu nhập bình quân dưới 260.000đ/người/tháng. 1.2. Vai trò của các chính sách vĩ mô trong giảm nghèo Chính sách tín dụng cho người nghèo: Hỗ trợ vốn dưới các hình thức khác nhau thông qua tín dụng, cho vay vốn với lãi suất thấp và những điều khoản ưu đãi chính là giúp cho người nghèo thoát khỏi nghèo đói. Chính sách y tế, dân số: Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo. Việc cải thiện điều kiện sức khỏe cho người nghèo là một trong những yếu tố rất cơ bản để họ tự thoát nghèo. Thông qua chính sách y tế có thể đảm bảo cho người nghèo có khả tiếp cận thuận lợi các dịch vụ y tế cơ bản; đảm bảo công bằng trong tiếp cận các dịch y tế. Chính sách giáo dục dạy nghề: Đầu tư cho giáo dục đào tạo có tác dụng nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động nhờ trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật được nâng lên. Giáo dục đào tạo còn có góp phần tăng cường năng lực quản lý của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, từ đó nâng mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Chính sách an sinh xã hội: Chính sách an sinh xã hội của Nhà nước góp phần trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và người nghèo. Cải thiện tình trạng thu nhập cho người nghèo; nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ sản xuất cũng như các nguồn lực khác của người nghèo. Mặt khác, chính sách an sinh xã hội còn góp phần bảo vệ những người có hoàn cảnh đặc biệt (người tàn tật, người già cô đơn, đối tượng chính sách và các đối tượng khác). Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có quan hệ tương tác hỗ trợ bổ sung lẫn nhau, cùng tác động đến các đối tượng khó khăn, nghèo đói giúp đỡ họ vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực giảm nghèo không chỉ là biểu hiện của các chính sách xã hội mà còn là các chính sách kinh tế kinh tế của nhà nước tác động đến các đối tượng dân cư nghèo đói, yếu thế nhằm điều tiết, phân phối lại nguồn lực thu nhập hạn chế phân hóa giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội và giảm nghèo. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước 1.3.1. Trung Quốc Trung Quốc bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường vào năm 1978. Cho đến nay, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội. Song song với những thành tựu về phát triển kinh tế, Trung Quốc đã đạt kết quả khả quan trong lĩnh vực phát triển xã hội, đặc biệt là giải quyết vấn đề nghèo đói. Từ năm 1987 đến năm 1995 có khoảng 200 triệu người đã vượt lên khỏi tình trạng nghèo tuyệt đối ở Trung Quốc. Đến cuối năm 1999, ở Trung Quốc chỉ còn 35 triệu người nghèo. 1.3.2. Malaysia Malaysia đã xây dựng nền kinh tế hỗn hợp có độ mở cao, trong đó Chính phủ có vai trò định hướng cho toàn bộ nền kinh tế. Kết quả là, tăng trưởng kinh tế của Malaysia luôn giữ được nhịp độ cao và ổn định, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh. Từ một đất nước có trên 50% dân số sống dưới mức nghèo khổ ở đầu thập kỷ 1970, đến năm 1990 giảm xuống còn 17,1%, năm 2002 chỉ còn dưới 1%. 1.3.3. Thụy Điển Để vượt qua cuộc khủng hoảng vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Thụy Điển đã tiến hành đổi mới. Trong quá trình đổi mới để vượt ra khỏi khủng hoảng, Thụy Điển vẫn luôn tôn trọng mục tiêu phát triển vì con người. Tổng chi tiêu cho phúc lợi xã hội của Thụy Điển hiện nay vẫn chiếm tới 38% GDP, đứng hàng đầu thế giới. Hệ thống phúc lợi xã hội Thụy Điển rất rộng và bao hàm nhiều chương trình và nhiều dạng khác nhau. Thụy Điển đã rất thành công trong việc nâng cao đời sống con người. Kinh nghiệm từ các nước cho thấy, hầu hết các nước vượt ra khỏi ngưỡng cửa đói nghèo bằng con đường tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là nền tảng giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội. Để thực hiện giảm nghèo, mọi chính sách vĩ mô của nhà nước đều phải hướng vào thực hiện tăng trưởng kinh tế, phân phối công bằng và phát triển các hoạt động phúc lợi. Chương 2 Thực trạng đói nghèo và giảm nghèo ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay 2.1. Những thành tựu về giảm nghèo ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay Từ năm 1988 trở lại đây, Việt Nam đã đạt mức tăng GDP trung bình hàng năm khoảng 7,5%. Cùng với tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ: - Chất lượng cuộc sống của dân cư nói chung và dân nghèo nói riêng được nâng cao Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng từ khoảng 289 USD năm 1995 lên 835 USD năm 2007 và ước đạt 1.024 USD năm 2008. Tính từ năm 1993 đến năm 2002, GDP bình quân đầu người tăng 5,9%/năm và từ năm 2002 đến năm 2007 tăng 9,2%/năm [27]. Mức sống của dân nghèo trong thời gian qua cũng từng bước được nâng lên đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của 20% nhóm nghèo nhất năm 1995 là 74.300 đồng; năm 2002 là 107.700 đồng; năm 2004 tăng lên là 141.800 đồng và năm 2006 đạt 184.300 đồng, tăng 29,8% so với năm 2004 [25]. Chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện còn được thể hiện rõ qua chỉ số phát triển con người (HDI). HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,59 năm 1985 lên 0,62 năm 1990; 0,672 năm 1995; 0,686 năm 2000; 0,704 năm 2003; 0,733 năm 2005 và 0,75 năm 2007 [1]. - Tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh Tỷ lệ nghèo đói giảm liên tục ở mức cao, tính theo chuẩn quốc tế, tỷ lệ nghèo đói chung đã giảm từ trên 70% vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX xuống khoảng 37,4% năm 1993; 29,4 % năm 2002 và 24,1% năm 2004. Tính theo chuẩn mới của Việt Nam, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,7% năm 2007 và 13,5% năm 2008 [27]. - Cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển sản xuất và dân sinh của các xã nghèo đã có sự thay đổi Trong thập niên qua, Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, nhất là cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển sản xuất và dân sinh. Khoảng 9-10% GDP hàng năm được đầu tư vào ngành giao thông, năng lượng, viễn thông, nước và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tư cơ sở hạ tầng cao so với chuẩn quốc tế. Đến nay, mạng lưới quốc gia đã cấp điện cho 525/536 huyện, đạt 97,95%; 10522 xã, phường đạt 96,8% và 93,34% số hộ. Điện thoại cố định và điện thoại di động trên 100 dân tăng gấp 9 lần từ năm 1995. Tính đến năm 2007, cả nước có 8.792 xã có đường ô tô đến trụ sở ủy ban nhân dân xã, chiếm 96,9% số xã. 2.2. Những thách thức về giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, giảm nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo cao Những thành tựu của xóa đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững, chủ yếu mới xóa tình trạng đói (nghèo về lương thực, thực phẩm), đa số hộ mới thoát nghèo còn nằm sát chuẩn nghèo, nên nguy cơ tái nghèo cao tỷ lệ tái nghèo lớn (7-10%) trong tổng số hộ mới thoát nghèo. Mặt khác, có không ít hộ có mức thu nhập thấp không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo (chiếm 70-80%). Thứ hai, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại Theo đánh giá của Liên hợp quốc, đến đầu năm 2003 Việt Nam đã đạt được mục tiêu của Thiên niên kỷ đề ra cho năm 2015, đó là giảm 50% số người nghèo so với những năm đầu của thập kỷ 90. Tuy nhiên, nghèo đói vẫn còn đang phổ biến và tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, theo chuẩn nghèo mới của quốc gia đến cuối năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước vẫn còn khoảng 13,5%. Thứ ba, sự chênh lệch về thu nhập có xu hướng gia tăng Mức độ chênh lệch giàu nghèo theo thu nhập có xu hướng tăng lên. Chênh lệch về thu nhập của nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất tính chung trên phạm vi cả nước đều tăng qua các năm. Năm 1995 là 6,99 lần; năm 1996 là 7,31 lần; năm 1999 là 7,65 lần; năm 2002 là 8,1 lần đến 2004 tăng lên là 8,34 lần và năm 2006 là 8,4 lần. ở nước ta, sự tăng lên của hệ số GINI qua các năm: năm 1993 là 0,350; năm 1995 là 0,357; năm 1996 là 0,37; năm 1999 là 0,390 và giai đoạn 2002- 2006 là 0,42 cũng cho thấy xã hội ngày càng thiếu công bằng [26]. 2.3. Nguyên nhân đói nghèo 2.3.1. Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân cơ bản của sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa giàu nghèo bắt nguồn từ bản thân nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua quỹ phúc lợi xã hội. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vẫn phải thừa nhận sự tồn tại như là một tất yếu kinh tế của sự bất bình đẳng trong thu nhập và mức sống, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao động, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong giới hạn cho phép. Chênh lệch về phát triển, phân hóa giàu nghèo còn bắt nguồn từ quy luật phát triển không đều giữa các vùng do phương thức sản xuất, nền văn hóa, phong tục tập quán lối sống, điều kiện địa lý khác nhau. 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan Trước hết là do sự tác động của các chính sách vĩ mô của nhà nước: chính sách đầu tư chưa đảm bảo tăng trưởng trên diện rộng; chính sách phân phối vĩ mô còn nhiều hạn chế, điều tiết thu nhập cá nhân chưa có kết quả; chi tiêu công cho phát triển phúc lợi xã hội còn nghiêng về có lợi cho người giàu, nhóm người có thu nhập thấp ở miền núi, vùng sâu vùng xa khó có cơ hội tiếp cận, đặc biệt là dịch vụ xã hội và phúc lợi xã hội chất lượng cao. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển mạnh nhằm bảo vệ, hỗ trợ người nghèo khắc phục các rủi ro trong xã hội. Thứ hai là, do bản thân người nghèo nguồn lực hạn chế, trình độ văn hóa thấp, gia đình đông con và nhiều tập tục lạc hậu: người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực; đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như: khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động thực vật; nhiều dịch vụ đầu vào sản xuất như: điện nước, giống, cây trồng, vật nuôi, phân bón...; người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Mặt khác, bản thân người nghèo có trình độ văn hóa thấp, gia đình đông con và nhiều tập tục lạc hậu cũng là những nguyên nhân làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.. 2.4. Sự tác động của các chính sách vĩ mô của Nhà nước trong giảm nghèo 2.4.1. Chính sách tín dụng cho người nghèo Trong những năm qua, vốn tín dụng đã trở thành một công cụ góp phần đắc lực vào việc giảm nghèo ở Việt Nam. Các hộ nghèo ở Việt Nam được tiếp cận nguồn vốn tín dụng cả chính thức và không chính thức (nguồn vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo; nguồn tín dụng từ Ngân hàng chính sách xã hội cho người nghèo và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho nông dân; từ các mô hình tiết kiệm và vay vốn…). Nhờ các nguồn vốn tín dụng nên đa phần người nghèo có thêm công ăn việc làm, nhiều làng nghề được khôi phục, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 37,9% năm 1998 xuống còn 14,7% năm 2007 và 13,5% năm 2008. Tuy nhiên khả năng tiếp cận và hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của người nghèo còn nhiều hạn chế. Điều này là do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, những trở ngại của chính sách tín dụng và hệ thống tín dụng. Ngân hàng đã có nhiều đổi mới về thủ tục cho vay, những hình thức, thủ tục, hồ sơ xét duyệt cho vay vốn đơn giản hơn, hưng trên thực tế việc thực thi điều này vẫn còn cứng nhắc, chưa linh hoạt, làm cho người nghèo băn khoăn và thường gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp xúc với thủ tục vay vốn ngân hàng. Thứ hai, những hạn chế, trở ngại từ bản thân người nghèo. Năng lực yếu kém, trình học vấn thấp đã hạn chế rất nhiều khả năng tiếp cận cũng như sử dụng vốn tín dụng của người nghèo. Ngoài ra, trình độ học vấn cũng như sự hiểu biết của các cán bộ xã yếu kém cũng là một cản trở đối với việc rải ngân của các tổ chức tín dụng và còn làm cho thông tin về tín dụng đến với người nghèo thiếu chính xác... 2.4.2. Chính sách giáo dục dạy nghề Chính phủ Việt Nam đã dành ưu tiên về chi tiêu cho giáo dục trong cả chính sách và trên thực tế. Năm 1994 chi từ NSNN cho giáo dục trong GDP chiếm 3,5%, đến năm 2002 tăng lên 4,2%, năm 2004 là 4,6% và năm 2005 là 5%. Chi tiêu cho giáo dục trong chi tiêu công tăng từ 14% năm 1994 lên 18% năm 2005 và sẽ được tăng lên 20% năm 2008. Bên cạnh đó, đầu tư của xã hội (phần đóng góp của phụ huynh học sinh và từ nguồn khác) cũng tăng đáng kể. Những tiến bộ nhanh chóng đã được ghi nhận trong việc đạt được mục tiêu của Chính phủ về tăng số học sinh đến trường. Trong khoảng thời gian từ 1993-2006 tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp tiểu học của cả nước đã tăng từ 86,7% lên trên 93,1%. Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đến trường tăng từ 30,1% năm 1993 lên 72,1% năm 2002. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông đến trường cũng tăng từ 7,2% năm 1993 lên 41,8% năm 2002. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề cũng được mở rộng nhanh chóng. Hiện nay, cả nước có 345 trường đại học cao đẳng và có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề. Những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương và chính sách ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo đối với những vùng khó khăn, miền núi vùng sâu, vùng xa và người nghèo, nhưng sự bất bình đẳng trong tiếp cận với dịch vụ giáo dục đang ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam. Hiện nay hầu hết trẻ em trong nhóm dân số giàu nhất đều đi học trung học cơ sở, trong khi đó chỉ có hơn một nửa số trẻ em trong nhóm nghèo nhất được học trung học cơ sở. Một trong những lý do của sự chênh lệch này là chi phí cơ hội của việc đưa trẻ đến trường. Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác cũng gây cản trở việc hoàn thành bậc học như: việc đi học xa, khó khăn về phương tiện đi lại, vấn đề ngôn ngữ, rào cản về văn hóa của các vùng dân tộc, không có hộ khẩu... 2.4.3. Chính sách việc làm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước coi giải quyết việc làm là hướng ưu tiên trong mọi chính sách xã hội. Quan điểm, chủ trương nhất quán về việc làm của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa trong “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm” (thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định 126/1998/QĐ-TTg Với chính sách việc làm hợp lý, Việt Nam đã đạt được thành tựu quan trọng về tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 5,96% năm 1996 xuống 4,4% năm 2006 và tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn từ 72,1% năm 1996 lên 81,7% năm 2006 [25]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình thực hiện chính sách việc làm còn những tồn tại sau: - Chương trình việc làm mới chỉ tập trung vào việc thực hiện mục tiêu hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề, vì vậy tính bền vững không cao. - Hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm chưa hiệu quả: còn nặng về dạy nghề, khả năng tư vấn, giới thiệu việc làm rất hạn chế, giới thiệu việc làm chưa mang tính chất thường xuyên, rộng khắp. - Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam đang gặp nhiều thách thức: chất lượng lao động của Việt Nam chưa cao (sức khỏe yếu, ngoại ngữ kém, tác phong lao động nông nghiệp...); kinh nghiệm trong cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động và giữa các thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam chưa nhiều. - Quản lý nhà nước đối với thị trường sức lao động còn nhiều yếu kém: hệ thống thông tin thống kê về thị trường sức lao động rất thiếu, không cập nhật, thiếu chính xác…; việc phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực chưa hợp lý và hiệu quả chưa cao, chưa khai thác được đầy đủ tiềm năng của lực lượng lao động; qui định về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, vệ sinh lao động... còn nhiều bất cập 2.4.4. Chính sách y tế Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Chuyển đổi kinh tế đã đem lại sự thay đổi đáng kể trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm từ 42,0 xuống còn 27,5. Kết quả là tuổi thọ tính từ lúc sinh đã tăng từ 67,8 năm lên 71,3 năm. Thành tựu lớn nhất và nổi bật nhất là đã khôi phục, củng cố và phát triển được mạng lưới y tế rộng khắp trong cả nước. Chất lượng của dịch vụ y tế ở tuyến cơ sở ngày càng được nâng lên. Các bệnh viện của Việt Nam nhiều về số lượng, đa dạng về hình thức. Tính đến năm 2007 có 1030 bệnh viện công các cấp, ngoài ra còn có 49 bệnh viện thuộc quyền sở hữu và điều hành của tư nhân. Việc xã hội hóa y tế có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần đổi mới cơ chế hoạt động và tăng cường nguồn lực cho công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Hình thành hệ thống y tế ngày càng đa dạng cả công và tư. Các tổ chức phi Chính phủ dần có vai trò ngày càng cao. Trong số này có các tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước, các viện nghiên cứu và hiệp hội y học chuyên ngành. Tuy nhiên, sự phân phối lợi ích từ những kết quả trên về y tế có sự chênh lệch nhau giữa các vùng, các nhóm thu nhập, đặc biệt là giữa người giàu và người nghèo... Một trong những yếu tố gây nên sự chênh lệch về tình trạng sức khỏe là việc sử dụng những cơ sở khám chữa bệnh khác nhau. Người nghèo thường ít sử dụng những dịch vụ y tế hơn và sử dụng những dịch vụ y tế ở mức độ thấp hơn... 2.4.5. Chính sách an sinh xã hội Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam khá rộng và bao gồm bốn thành phần chính: Hệ thống bảo hiểm xã hội; Quỹ bảo đảm xã hội; Quỹ hỗ trợ đột xuất; Một số các chương trình quốc gia hướng tới người nghèo và các xã vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, mạng lưới an sinh xã hội Việt Nam chưa hỗ trợ được phần lớn những người yếu thế. Do kinh phí eo hẹp, phạm vi bao quát của các quỹ trong mạng lưới an sinh xã hội còn khiêm tốn. Hơn hai mươi năm đổi mới, với cơ chế, chính sách thông thoáng, công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tỷ lệ nghèo giảm với tốc độ nhanh. Tuy nhiên, thành tựu xóa đói giảm nghèo còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, mức độ chênh lệch giàu nghèo theo thu nhập có xu hướng tăng. Tác động của các chính sách vĩ mô đến xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua đã đạt được những thành công nhất định, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập. Để công tác xóa đói giảm nghèo thực sự bền vững, cần phải hoàn thiện và sử dụng có hiệu quả hơn các chính sách vĩ mô của Nhà nước, tạo điều kiện cho người dân vươn lên thoát nghèo, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chương 3 Giải pháp để hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo 3.1. Quan điểm về xóa đói giảm nghèo Xóa đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho hoạt động trợ giúp người nghèo đói. Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo. Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo bằng các nguồn tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước. Việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công tác tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng hộ gia đình. 3.2. Những giải pháp để hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo 3.2.1. Chính sách tín dụng đối với người nghèo - Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách tín dụng sao cho phù hợp với năng lực và điều kiện của người nghèo. + Đa dạng hóa nguồn vốn, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho hộ nghèo và hộ có nguy cơ tái nghèo vay. + Việc phân bổ nguồn vốn tín dụng từ Ngân hàng cấp trung ương xuống cấp địa phương phải xuất phát từ nhu cầu thực sự của người nghèo cần vốn và chú trọng đối với những vùng có nền sản xuất hàng hóa tương đối phát triển. + Phải có cơ chế cho vay linh hoạt và hợp lý để thích ứng với điều kiện và năng lực của người nghèo. + Tiếp tục đa dạng hóa phương thức cho vay, thực hiện phương châm vừa kinh doanh vừa hỗ trợ sản xuất. + Tiếp tục đơn giản hóa tới mức tối đa các thủ tục vay vốn của ngân hàng. + Cung cấp và công khai thông tin về các khoản vay cho mọi người. Đồng thời cải tiến hơn nữa hệ thống thông tin quản lý khách hàng theo hướng công nghệ hóa thông tin về tín dụng. + Tăng cường tư vấn chính sách và tích cực hỗ trợ cho người nghèo tiếp cận với các nguồn vốn, mạng lưới tín dụng. + Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với các tổ chức đoàn thể xã hội thì mới đảm bảo vốn của các chương trình kinh tế -xã hội đến tay người nghèo. - Nâng cao năng lực, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh cho người nghèo. + Hỗ trợ đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người nghèo. + Hỗ trợ người nghèo xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Ngoài ra cần thực hiện một số các giải hỗ trợ khác như: khôi phục phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển mạnh mô hình kinh tế trang trại, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo hiểm sản xuất, hỗ trợ rủi ro... 3.2.2. Chính sách y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình - Phát triển và hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân. + Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng. + Tăng cường củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ. Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. - Hỗ trợ người nghèo khám chữa bệnh thông qua việc đa dạng hóa các hình thức khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế khám chữa bệnh nhân đạo, từ thiện và mua bảo hiểm y tế cho người nghèo hoặc thực hiện cấp giấy khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. - Đổi mới chính sách tài chính y tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công, giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh, để thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân. + Tăng mức đầu tư của Nhà nước cho y tế. + Thực hiện tốt lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2010. + Nhà nước phải đảm bảo có đủ ngân sách để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người nghèo. - Tiếp tục lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế với xóa đói giảm nghèo. Tăng cường các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, huy động cộng đồng tích cực tham gia vào các hoạt động vệ sinh, phòng bệnh, rèn luyện thân thể. - Tổ chức thực hiện tốt chiến lược dân số Việt Nam. Coi việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và giảm tỷ lệ sinh là một trong những biện pháp quan trọng nhằm xóa đói giảm nghèo. 3.2.3. Chính sách giáo dục - Tăng tỷ lệ đầu tư và ưu tiên cho hệ thống giáo dục cơ sở để đảm bảo hầu hết các xã nghèo có đủ phòng học bậc tiểu học và trung học cơ sở. Tranh thủ nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), các tổ chức quốc tế và các nước khác. Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong lĩnh vực đào tạo. - Thực hiện công bằng xã hội hơn trong giáo dục, hỗ trợ người nghèo tham gia các dịch vụ xã hội. + Hoàn thiện thể chế chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục. + Xóa tình trạng xã, bản trắng về giáo dục; tiếp tục thực hiện mục tiêu xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học theo độ tuổi, phấn đấu phổ cập trung học cơ sở. + Nâng cao chất lượng giáo dục các cấp học cơ sở ở miền núi vùng sâu, biên giới, hải đảo đảm bảo đủ đội ngũ giáo viên. + Tăng cường, mở rộng chính sách đào tạo ưu đãi theo hình thức cử tuyển và theo địa chỉ cho học sinh người dân tộc thiểu số, ưu tiên các chuyên ngành nông nghiệp, lâm nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự tác động của các chính sách vĩ mô đến giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan