Đề tài Sự tác động của con người Việt Nam vào nền kinh tế tri thức

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN I: CON NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ 2

I)Con người Việt Nam và nguồn lực trí tuệ. 2

1.Con người Việt Nam. 2

2) Nguồn lực trí tuệ 5

II.Nền kinh tế tri thức 11

1. Khái niệm nền kinh tế tri thức. 11

2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức. 12

3. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức 15

4. Yêu cầu của nền kinh tế tri thức đối với con người 16

PHẦN III: MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC. 19

PHẦN IV. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC. 21

KẾT LUẬN 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự tác động của con người Việt Nam vào nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định nguồn lực trí tuệ Việt Nam sớm hình thành và phát triển trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam được hình thành trước hết từ chính cuộc sống của người Việt Nam cổ đại và phát triển theo tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam (kể từ khi hình thành nhà nước đầu tiên đến nay đã 4000 năm). Lịch sử lâu dài đó cùng với vị trí địa lý, điều kiện môi trường sinh thái phong phú, cơ cấu dân tộc đa dạng và cơ sở kinh tế , kết cấu xã hội đã tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam. Bản thân Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với những đặc trưng kinh tế , văn hoá khác nhau. Sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc diễn ra từ rất sớm và tạo nên một sự đa dạng, phong phú trong tư duy của người Việt. Xét về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, hiện nay Việt Nam là nước đang phát triển. Nguồn lực trí tuệ hội đủ các yếu tố trí tuệ của cả văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh trí tuệ. Tuy nhiên, mức độ và liều lượng giữa chúng không đồng đều và phân bố ở các lĩnh vực có khác nhau. Tính hỗn hợp và đan xen của các yếu tố trí tuệ của nền văn minh khác nhau vừa tạo nên sự đa dậng, phong phú của nguồn lực trí tuệ Việt Nam, vừa đặt ra những thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc cũng như trong việc định hướng cho sự phát triển lành mạnh về trí tuệ của mỗi cá nhân cũng như nguồn lực trí tuệ của cả dân tộc. - Nguồn lực trí tuệ Việt Nam mang đậm triết lý nhân sinh và dân tộc phát huy đầy đủ nhất trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Xét về cấu trúc, nguồn lực trí tuệ Việt Nam bao gồm tập hợp các giá trị biểu hiện những khả năng, những năng lực sáng tạo về tinh thần của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu phản ánh cuộc sống đa dạng, phong phú của mình. Đó là những giá trị mới sáng tạo gắn liền với tư tưởng tư duy , tư tưởng, lý luận; trong đó, lý luận là sự kết tinh cao nhất, tinh tuý nhất của mọi sự sáng tạo về trí tuệ của con người. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng đạo lý, lấy nhân nghĩa trung hiếu làm chuẩn mực cho các hành vi ứng xử của mình. Điều đó được thể hiện trong những câu chuyện cổ, ca dao, tục ngữ được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Đó là triết lý về cội nguồn, về tình làng nghĩa xóm, là tinh thần nhân ái, cố hết, chung lưng đấu cật để bảo vệ và xây dựng cộng đồng, là triết lý đối nhân xử thế, sống hoà bình và hữu nghị với các nước láng giềng. Hạt nhân của triết lý ấy là con người yêu nước- sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử và trở thành thuyết lý về những vấn đề nhân sinh và xã hội của con người Việt Nam. Triết lý nhân sinh với hạt nhân là con người yêu nước kết hợp với trí tuệ sáng tạo của con người Việt đã được nêu cao và phát huy mạnh mẽ trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Song, nó được phát huy cao độ và đầy đủ nhất ở tư duy quân sự tài giỏi trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Cuộc đấu tranh chênh lệch rất lớn về lực lượng quân đội và trang bị vũ khí cũng như tiềm lực kinh tế tưởng chừng không thể nào thắng nổi. Trong hoàn cảnh đó muốn chiến thắng được kẻ thù thì ngoài lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu gan dạ, anh dũng không sợ hy sinh, gian khổ... còn rất cần có trí thông minh sáng suốt. Và lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc đã chứng minh rằng: thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam chính là thắng lợi của trí tuệ và tinh thần Việt Nam. Là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, tuy chưa để lại cho nhân loại những phát minh lớn song dân tộc Việt Nam đã có nhiều cống hiến cho loài người những giá trị trí tuệ cao: trong lĩnh vực quân sự là lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chiến lược chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích...;trong lĩnh vực văn hoá, đó là những giá trị văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc và ngày nay, đó là di sản tư tưởng văn hoá sáng tạo của Hồ Chí Minh-người anh hùng dân tộc, nhà văn hoá lớn của thế giới, là những kinh nghiệm và lý luận về con đường đổi mới của cách mạng Việt Nam. - Nguồn lực trí tuệ Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở một phương thức sản xuất nông nghiệp còn lạc hâụ, lại bị chiến tranh liên miên nên còn thiếu hụt nhiều giá trị cao nhất của trí tuệ loài người. Xét về phương diện lịch sử, Việt Nam chưa có truyền thống khoa học, nhất là tư duy khoa học và tư duy lý luận. Nền kinh tế tiểu nông có đặc trưng làlàm cho con người phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Để có thể sống hoà hợp với thiên nhiên con người đã phải đúc rút kinh nghiệm. Chính lối sống đó đã tạo ra con người Việt Nam cách tư duy tổng hợp, biện chứng. Do vậy, nó cho phép con người rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu trong đời sống và phát triển lao động sản xuất. Song hạn chế của nó là thiếu sự phân tích, mổ xẻ một cách khoa học các bộ phận cấu thành các sự vật hiện tượng. Vì vậy, thiếu những điều kiện cần thiết cho việc hình thành những ngành khoa học chuyên sâu, đặc biệt là khoa học kỹ thuật. Mặt khác, thói quen giải quyết công việc bằng kinh nghiệm chủ quan lâu ngày trở thành "chủ nghĩa kinh nghiệm"đè nặng lên tư duy con người Việt Nam. Đó là lực cản lớn cho tính năng động sáng tạo của trí tuệ; nó không kích thích được tính độc lập, sáng tạo của cá nhân dẫn đến tam lý ngại khó, ngại khổ trong học tập, trong nghiên cứu khoa học, trong quá trình trau dồi trí tuệ ... gây ảnh hưởng lớn đến việc hình thành và phát triển trí tuệ khoa học của từng cá nhân và của cả cộng đồng. Hơn nữa trong 27 thế kỷ tồn tại và phát triển của mình, dân tộc Việt Nam đã phải mất 12 thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Hoàn cảnh đất nước có chiến tranh đã làm gián đoạn và gây cản trở lớn đến việc tiếp cận với những thành tựu khoa học mới của nhân loại. Đồng thời nó không cho phép tập trung sức người, sức của vào việc bồi dưỡng chăm lo phát triển nhân tài và phát triển nguồn lực trí tuệ của đất nước nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tất cả những điều đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự lạc hậu về trí tuệ của nhiều cá nhân và là nguy cơ dẫn đến sự thấp kém về trình độ trí tuệ của dân tộc so với mặt bằng và đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Vì vậy, trong nhiều trường hợp chúng ta không đủ năng lực trí tuệ để xử lý các tình huống phù hợp với quy luật khách quan dẫn đến những sai lầm, trì trệ, kém phát triển. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng nền kinh tế vẫn còn phổ biến là sản xuất nhỏ, thủ công lạc hậu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta gần 15 năm qua đã bổ sung thêm nhiều giá trị trí tuệ mới của nhân loại vào nguồn lực trí tuệ Việt Nam, khoa học công nghệ cũng có những bước phát triển quan trọng. Song, đổi mới là một quá trình cải biến xã hội sâu sắc và triệt để. Do đó, nó đòi hỏi một mặt phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy cao độ nguồn lực trí tuệ của toàn dân; mặt khác phải bổ sung những giá trị trí tuệ của nhân loại làm phong phú thêm nguồn lực trí tuệ Việt Nam, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ của thời đại. Đó là một trong những động lực để đất nước tránh được nguy cơ tụt hậu, lạc hậu ngày càng xa so với nhiều nước trên thế giới. ii.Nền kinh tế tri thức 1. Khái niệm nền kinh tế tri thức. Thật kỳ diệu biết bao cho chúng ta- những người được sống những ngày mở đầu thiên niên kỷ mới, thế kỷ mới. Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử loài người với thành tựu nổi bật nhất là cách mạng thông tin đã mở ra một thời đại mới- thời đại thông tin, bắt đầu từ máy từ máy tính điện tử (cuối những năm 40 của thế kỷ này), rồi vi điện tử (những năm 70 của thế kỷ này) và cuối cùng là kỹ thuật số và mạng (thậpkỷ cuối cùng của thế kỷ XX).Đến đâyloài người tạo một sản phẩm quan trọng là nền kinh t ế tri thức, có khi còn gọi là nền kinh tế mạng.Theo nhiều nhà khoa học dự báo, đó là cơ sở hạ tầng mới của xã hội thông tin, xã hội học tập. Và như vậy vấn đề con người và nguồn lực người sẽ có nhiều điều mới mẻ, cần nghiên cứu và xử lý. Kinh tế tri thức được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thông tin. Tóm lại, đó là kinh tế dựa vào tri thức và bây giờ đã quen gọi là kinh tế tri thức. Nói đến tri thức là nói đến học, nên có người gọi là "Kinh tế tri thức ", có người còn gọi"Kinh tế thông tin", "Kinh tế số hoá",v..v.. Cho dù ý kiến còn khác nhau nhưng chắc chắn đây là một nền kinh tế mới xuất hiện từ 5-10 năm nay, trước đây chưa hề có, đó là nền kinh tế dựa vào công nghệ cao: "Các ngành sản xuất và dịch vụ khoa học mới do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ khoa học - công nghệ, các dịch tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao... được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành trruyền thống như công nghiệp, nông nghiệp, nếu được cải tạo bằng công nghệ cao mà giá trị do tri thức mới, công nghệ đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì những ngành ấy cũng là ngành kinh tế tri thức. Nền kinh tế gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức gọi nền kinh tế tri thức". Một số người đề nghị cứ gọi là "nền kinh tế mới" cho chắc chắn. Nền kinh tế này dựa trên bốn trụ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ năng lượng, trong đó công nghệ thông tin giữ vai trò đi đầu và nền tảng. Như vậy, bên cạnh các nền kinh tế mà lâu nay chúng ta thường gọi, như kinh tế hoang sơ (tự nhiên), kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp, đã xuất hiện nền kinh tế mới mà trước đây dự báo gọi là kinh tế hậu công nghiệp thì nay đã có tên gọi chính thức ngày càng được nhiều người hưởng ứng là kinh tế tri thức. Người ta đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu so sánh kinh tế sức người (kinh tế nông nghiệp), kinh tế tài nguyên (kinh tế công nghiệp) và kinh tế tri thức. ở đây chúng ta có thể tham khảo ý kiến của một nhà kinh tế học Trung Quốc qua Bảng 4 để hiểu hơn nội hàm của khái niệm mới của nền kinh tế mới, nhất là kinh tế tri thức gắn liền với thời kỳ phát triển cao cuả kinh tế công nghiệp, kinh tế thị trường và một đặc điểm của thời đại ngày nay là nền kinh tế toàn cầu (toàn cầu hoá, hội nhập và mở cửa). Vì vậy có người còn gọi kinh tế tri thức là kinh tế mạng thông tin toàn câu. 2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức. Thứ nhất đặc điểm lớn nhất làm khác biệt kinh tế tri thức với kinh tế công nghiệp, kinh tế nông nghiệp chính là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên. Vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng kinh tế. Không phải như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Do vậy, nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm. Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất, hơn cả vốn, tài nguyên, đất đai. Ai chiếm hữu được nhieuè tài sản trí tuệ hơn, người ấy thắng trong cạnh tranh. Pháp luật về sở hữu trí tuệ trở thành nộidung chủ yếu trong quan hệ dân sự cũng như trong thương mại quốc tế. Sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đầy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn: quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trước đây người ta hay chọn những công nghệ đã chín muồi, còn bây giờ thì phải tìm chọn các công nghệ mới nảy sinh; cái chín muồi là cái sắp sửa tiêu vong. Trong nền kinh tế tri thức, của cải làm ra chủ yếu dựa vào cái chưa biết; cái đã biết không còn giá trị nữa, tìm ra cái chưa biết tức là tạo ra giá trị mới. Khi phát hiện ra cái chưa biết thì cũng tức là loại trừ cái đã biết. Cái cũ mất đi thay thế cái mới, nền kinh tế, xã hội luôn đổi mới. Đó là đặc trưng của sự phát triển, sự tiến hoá của xã hội sắp tới; phát triển từ cái mới, chứ không phải từ số lượng lớn dần lên. Thứ hai, sự chuyển đổi cơ cấu. Các công nghệ mới, các ý tưởng mới là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển nhanh cơ cấu. Nhưng, đây cũng là nền kinh tế mang tính rủi ro, vì nó luôn biến động, luôn có nhiều thách thức mới. Trong khi nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng loạt, quy chuẩn hoá, thì nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sự sản xuất linh hoạt hàng hoá và dịch vụ dựa vào công nghệ cao. Đây cũng là kinh tế văn phòng, tức là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà máy ít đi, người làm việc ở văn phòng nhiều lên. Nói như thế không có nghĩa là sự chế tạo hàng loạt là không quan trọng, cũng không phải là sản phẩn hàng hoá ít đi, mà đó là do nhịp độ tăng năng suất trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp rất cao. Hiện nay, ở các nước phát triển nhất có 70-80% lực lượng lao động không phải trực tiếp làm ra các vât phẩm, mà họ chuyển sang làm các công việc liên quan đến di chuyển vật phẩm, xử lý thông tin, cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Việc làm trong sản xuất hàng hoá giảm đi rất nhiều và được thay thế bằng việc làm trong văn phòng. Các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, sự tăng trưởng và việc làm. Cho nên, sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiêu biểu cho nền sản xuất tương lai. Phát triển nhanh các doanh nghiệp sản xuất công nghệ (cũng có thể gọi là doanh nghiệp tri thức ), trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri thức (công nhân khoa học), họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất. Trong nền kinh tế tri thức, các công ty mới mọc lên nhanh như nấm, sự ra đời của một công ty gắn với sự ra đời của một công nghệ mới, một sáng chế mới. Các công ty đang hoạt động muốn trụ được phải thường xuyên đổi mới, kịp thời chuyển hướng theo sự phát triển của công nghệ. Để tăng sức mạnh, các công ty phải hợp tác với nhau, phải "mua" nhau để thành công ty lớn. Gần đây ta thấy rất nhiều các công ty khổng lồ hàng chục, hàng trăm tỷ USD "mua" nhau, trở thành những tập đoàn lớn chi phối cả thế giới. Người ta lo ngại sự tập trung này dẫn tới độc quyền và thủ tiêu cạnh tranh. Nhưng, mặt khác, các công ty khổng lồ chia ra các công ty con rải trên khắp thế giới, các công ty còn được quyền chủ động nhiều hơn, linh hoạt hơn, dễ thích nghi với sự đổi mới. Cho nền, hợp nhất thành, những công ty khổng lồ, nhưng thực tế lại là sự chia nhỏ/ Các khu vực công nghệ (technology park) hình thành và phát triển rất nhanh. Đó là những nơi sản xuất công nghệ, thường được gọi là vườn ươm công nghê, là cái nôi của các ngành công nghiệp tri thức. ở đây hội đủ các điều kiện thuận lợi để nhất thể hoá quá trình nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất, nhờ đó các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ và tạo ra sản phẩm. Khu vực công nghệ tiêu biểu nhất là Thung lũng Silicon. Nó là cái nôi của công nghệ cao của thế giới (khoảng 40% công nghệ cao đang sử dụng trên thế giới bắt nguồn từ đây) là cái nôi của Internet, ngày nay. Nó bắt đầu hình thành từ những năm 50, nay đã có hàng nghìn công ty với doanh số hơn 400 tỷ đô la. Vì nền sản xuất dựa vào công nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, thải ra ít phế thải, cho nên trong nền kinh tế tri thức có thể thực hiện được sản xuất sạch, không gây ô nhiễm môi trường. Kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững. Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và dễ dàng truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Cũng chính vì vậy, nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số, nền kinh tế mạng, nền kinh tế internet, nền kinh tế điện tử. Thương mại điện tử, tri thức ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa.... được sử dụng rộng rãi, làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên rất nhanh nhạy, linh hoạt; khoảng cách bị xoá dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi. Xã hội thông tin phát triển. Thứ tư, nền kinh tế tri thức thúc đầy sự dân chủ hoá. Thông tin đến với mọi người. Mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các quyết định của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến, nguyện vọng của nhân dân cũng rất dễ dàng thuận tiện. Nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân kiểm tra", có điều kiện thuận lợi để thực hiện. Cách tổ chức quản lý cũng sẽ thay đổi. Trong thời đại thông tin, mô hình chỉ huy tập trung, có đẳng cấp tỏ ra không còn phù hợp. Người ta sử dụng nhiều hơn mô hình phi đẳng cấp, phi tập trung, mô hình mạng, trong đó tận dụng các quan hệ ngang thông tin đến được tất cả mọi người, mọi nơi một cách thuận lợi, nhanh chóng, không canà đi qua các nút xử lý trung gian. Đó là mô hình tổ chức dân chủ, rất linh hoạt trong điều hành, dễ thích nghi với đổi mới, khơi dậy sự nặng động sáng tạo của mọi người. Thứ năm, hình thành xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Mọi người đều học tập, học thường xuyên,học ở trường và học trên mạng để không ngừng trau dồi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo. Mọi người thường xuyên được bổ túc, cập nhật kiến thức, chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đầy sự đổi mới kiến thức, mô hình giáo dục truyền thống; đào tạo xong rồi ra làm việc là không còn phù hợp, mà phải theo mô hình học tập suốt đời; đào tạo vừa làm việc. Các hình thức giáo dục thường xuyên, nhất là giáo dục thông qua mạng rất phát triển. Con người học tập suốt đời, vừa học vừa làm việc. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng có thể học tập được. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời. Trong nền kinh tế tri thức, khoản đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm tỷ lệ rất cao. Nói chung, đầu tư vô hình (cho con người, cho giáo dục, khoa học, văn hoá - xã hội ...) cao hơn đầu tư hữu hình (xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. Vốn con người thực sự là vốn quý nhất. 3. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức Nền kinh tế tri thức theo báo cáo của Uỷ ban kinh tế APEC được định hình bởi bốn yếu tố chủ yếu: Mức độ hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, môi trường khích lệ ý tưởng sáng tạo và doanh nghiệp mới, giáo dục và học tập suốt đời đứng vị trí quan trọng hàng đầu, vai trò thúc đẩy mạnh mẽ của hạ tầng thông tin liên lạc. Sự chuyển dịch ngày càng sâu sắc và nhanh chóng của các nền kinh tế trên qui mô toàn cầu sang nền kinh tế tri thức, với sự khởi đầu mạnh mẽ ở những nước công nghiệp tiên tiến từ cuối thập kỷ 80 đang hình thành nên một số xu thế phát triển có đặc trưng sau: Thứ nhất: các ngành công nghiệp có độ thâm dụng cao về tri thức và ý tưởng sáng tạo, có tốc độ phát triển rất mau chóng, vượt xa các ngành công nghiệp truyền thống. Một ví dụ điển hình là công ty phần mềm infosys của ấn Độ, do một nhóm nhỏ các trí thức trẻ trong lĩnh vực máy tính thành lập năm 1981. Sự bùng nổ của thị trường công nghệ thông tin trong thập kỷ 90 đã giúp infosys phát triển rất nhanh, trở thành một trong những công ty phần mềm lớn của ấn Độ với trên 10000 nhân viên. Trị giá của năm 2001 lên tới gần 15 tỷ USD, lớn hơn giá trị thị trường của TATA STEEL là tập đoàn thép tư nhân lớn nhất của ấn Độ. Thứ hai: điện tử hóa trên mọi lĩnh vực của cuộc sống và kinh doanh. Sự phổ biến của các dịch vụ dựa trên internet như thương mại điện tử, điện tử học và tham vấn từ xa nên những khả năng to lớn nâng tăng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao hiệu lực và chất lượng quản lý. Thứ ba:sự hội tụ phần mềm trong các ngành công nghiệp Công nghệ internet cho phép khách hàng hiểu biết tường tận các nguồn cung cấp sản phẩm trên qui mô toàn cầu và các nhà sản xuất cũng nhanh chóng có được nhu cầu và phán xét của khách hàng về sản phẩm của mình. Tình thế này buộc các công ty vừa phải củng cố và nâng cấp thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của mình vừa phải tìm cách liên kết sáp nhập để có được sản phẩm tốt hơn và đồng bộ hơn cho những thị phần chiến lược. Các tập đoàn đa ngành theo cấu trúc cứng trước đây, do vậy, đang phải trải qua những cải tổ căn bản để đứng vững được trên thị trường. Thứ tư: Nguồn lực trí tuệ mang lại ưu thế đặc biệt và cạnh tranh thu hút, đào tạo nhân tài đang trở nên đấu tranh quyết liệt nhất Dù ở cấp độ nào, quốc gia, địa phương, công ty hay gia đình, nguồn lực trí tuệ này mang lại một ưu thế đặc biệt trong cuộc phấn đấu cho phồn vinh và phát triển. Cũng chính vì vậy, cuộc đua tranh nhằm thu hút và đào tạo nhân tài ở mọi cấp độ đang trở nên hết sức quyết liệt và chỉ ai chiến thắng trong cuộc đấu này mới có thể vượt lên hàng đầu trong những thập kỷ tới. Đặc thù của nền kinh tế tri thức với những xu thế phát triển đặc trưng nêu trên đang mở ra những thời cơ và thách thức to lớn cho một số nước, trong đó có nước ta. Tuy hiện thời nước ta còn nghèo, nhưng nước ta có tiềm năng dồi dào về trí lực và phẩm chất, vượt lên mạnh mẽ trong 2-3 thập kỷ tới với sức bật kỳ diệu của nền kinh tế tri thức. 4. Yêu cầu của nền kinh tế tri thức đối với con người Kinh tế tri thức ra đời chứng minh tính đúng đắn trong kết luận của C.Mác rằng khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và cũng chứng minh tính khoa học và tính cách mạng của lý luận macxit về các hình thái kinh tế -xã hội; hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ hoàn thành vai trò lịch sử của nó và lịch sử tiến hoá nhân loại sẽ chuyển sang hình thái kinh tế -xã hội mới. Trong giai đoạn quá độ này, sứ mệnh cao cả thuộc về giai cấp công nhân, tất nhiên ở trình độ cao, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, là công nhân được trí thức hoá, liên minh với tri thức, thu hẹp dần lại khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lao động sản xuất và lao động quản lý đều là lao động trực tiếp làm ra sản phẩm của hoạt động lao động. Giai cấp công nhân đều đứng trong giai cấp những người lao động tri thức. Đội ngũ những người lao động tri thức có cả các cán bộ kỹ thuật, các nhà quản lý. Kinh tế thị trường đã và đang mang lại biết bao thay đổi sâu sắc và to lớn trong xã hội, nhất là trong giáo dục- đào tạo. Trước hết phải kể đến một quan niệm mới về tri thức. Người ta phân biệt rất rõ ba khái niệm: dữ liệu, thông tin và tri thức. Ba khái niệm này là khái niệm công cụ của giáo dục- đào tạo và của kinh tế tri thức ngày nay được xác định như sau: - Dữ liệu là những khối cơ bản trong kinh tế thông tin. - Thông tin là dữ liệu được xếp thành mẫu hình có ý nghĩa. - Tri thức là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. Như vậy vấn đề đặt ra là tri thức phải thành kỹ năng, tri thức phải thành trí lực, và suy rộng ra dân trí phải trở thành nhân lực và cả nhân tài nữa, nhân tài phải là một bộ phận chất lượng cao của nhân lực và được coi như là đầu tầu của đoàn tầu nhân lực. Đó là hướng tổng quát nhất của nền giáo dục đi vào phục vụ kinh tế thị trường. Thời đại ngày nay là thời đại của những con người nhân ái, tài trí, hành động, sáng tạo và hiệu quả. Đó là mục tiêu của giáo dục đầu thế kỷ 21. ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh một ý về vai trò cực kỳ quan trọng của giáo dục đối với nền kinh tế thị trường nói riêng và đối với thời đại thông tin nói chung. Các nước phát triển đều chủ trương phải nâng cao vị trí của giáo dục, giáo dục quyết định sức mạnh, sự thịnh vượng và tương lai tươi sáng của đất nước. Bản tổng kết của uỷ ban giáo dục đi vào thế kỷ 21, mà ông Giắc Đờlo làm chủ tịch, do UNESCO tổ chức, hoàn thành năm 1995 đã lấy tên là "Giáo dục là của cải nội sinh" tức là kết quả giáo dục đối với mỗi người phải thành nội lực của người ấy và hơn nữa nội lực này phải có khả năng tạo ra của cải, phúc lợi cho mỗi người và cả xã hội. Báo cáo này nêu ra nguyên lý "học để biết" phải cùng với "học để làm", nói theo ngôn ngữ của lý luận về kinh tế tri thức là giáo dục phải tạo nên vốn giữ liệu và phải chuyển tải thành thông tin, thành tri thức, tức là thành công nghệ vào sản xuất. Liên hệ vào tình hình giáo dục nước ta, trước hết phải khẳng định rằng cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo, phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa, dần dần tiếp cận với kinh tế tri thức. Trong sự nghiệp này, chúng ta phải kiên trì đấu tranh khắc phục tâm lý nặng nề của nền giáo dục khoa cử, quan trường; phổ biến rộng rãi đến từng người dân, đến các thầy cô giáo, đến tất cả các em học sinh. Thái độ, động cơ đúng đắn thấm nhuần mục tiêu giáo dục nhằm xây dựng nhân cách, trên cơ sở đó nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, trong đó nhân cách là cơ sở, nhân lực là mục tiêu, nhân tài là đầu tầu của nhân lực, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, tiến lên giầu có, văn minh. Kinh tế tri thức là biểu hiện tập trung nổi bật của xã hội tri tuệ, xã hội học tập. Cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50083.doc
Tài liệu liên quan