Đề tài Sự tác động của môi trường lao động sản xuất đến sức khoẻ người công nhân vùng than (Qua khảo sát tại địa bàn công ty tuyển than Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh)

Lao động thủ công kết hợp với máy móc chủ yếu là bao gồm các công việc như : đứng nhặt rác tại các băng chuyền, xúc than, đập toa than tại các máng . họ phải tiếp xúc thường xuyên với bụi than, tiếng ồn, hoá chất, đa số là làm việc trong các nhà xưởng nóng bức thiếu ánh sáng hoặc ẩm ướt. Còn lao động thủ công thuần tuý bao gồm những công việc chính của họ là xúc dọn, nhặt phân loại than, xúc than, khuôn vác vật liệu. Công việc hết sức nặng nhọc và vất vả tiếp xúc nhiều với bụi lại hầu như làm việc ngoài trời chịu ảnh hưởng của thời tiết, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ của họ. Có thể nói rằng đây là hai loại lao động độc hại và nặng nhọc, có ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khoẻ của người công nhân. Nhằm minh chứng và đánh giá cho nhận định này chúng tôi tiến hành tìm hiểu về mức độ ảnh hưởng của môi trường sản xuất tới sức khoẻ của người công nhân theo cơ cấu lao động và kết quả như sau:

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3659 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự tác động của môi trường lao động sản xuất đến sức khoẻ người công nhân vùng than (Qua khảo sát tại địa bàn công ty tuyển than Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiên cứu được tiến hành đối với công nhân tại hai phân xưởng Tuyển I và Tuyển II của công ty Tuyển than Cửa Ông. 2.3. Phương pháp quan sát: Qua quá trình khảo sát, phỏng vấn tiếp xúc trực tiếp với người công nhân đang làm việc tại hai phân xưởng của công ty, tác giả nghiên cứu đã quan sát các điều kiện làm việc để từ đó đối chiếu đánh giá với các số liệu thu được nhằm làm phong phú thêm cho các giả thuyết và phần chứng minh trong báo cáo. III/Các khái niệm công cụ: 1.Khái niệm môi trường lao động: Xuất phát từ định nghĩa môi trường sống: là tổng thể các yếu tố bao quanh một sinh thể hay quần thể sinh vật tác động nên cuộc sống. Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên (đất đai, khí hậu), hệ sinh vật (động thực vật) cùng các yếu tố kinh tế xã hội (các hoạt động sản xuất, các quan hệ, các phong tục tập quán, văn hoá...) hay theo định nghĩa của luật bảo vệ môi trường thì: “ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất, xã hội nhằm tạo quan hệ mật thiết với nhau bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên ”1. Theo định nghĩa trên, môi trường lao động là một phạm vi nhỏ trong môi trường sống của con người. Môi trường lao động bao gồm các điều kiện lao động và quan hệ của công nhân trong sản xuất. Điều kiện lao động ở đây bao gồm trang thiết bị sản xuất như công cụ lao động, đối tượng lao động và các yếu tố vật lý bao quanh nơi sản xuất như nhiệt độ, tiếng ồn, khí hậu. ở đây điều kiện lao động được hiểu là môi trường vật lý tự nhiên. Quan hệ của người lao động trong sản xuất là các quan hệ giữa những người lao động với nhau hay quan hệ của người lao động với người quản lý xí nghiệp, các tổ chức đoàn thể trong xí nghiệp. Các yếu tố này chính là môi trường xã hội. Sẽ là thiếu xót nếu nói môi trường xã hội mà chỉ đề cập đến điều kiện lao động, bỏ qua môi trường xã hội. Vì môi trường lao động chính là môi trường tự nhiên cộng môi trường xã hội 2. chú thích: 1&2: Tôn Thiện Chiếu – Môi trường lao động của nữ công nhân ở một số ngành nặng 2.Khái niệm sức khoẻ và bệnh tật. Khái niệm sức khoẻ Tổ chức y tế thế giới WHO xác định : sức khoẻ là “một trạng thái của con người thoải mái về vật chất, chí tuệ và xã hội” Định nghĩa này không thể bó hẹp trong quan niệm là không có bệnh tật, không yếu đuối mà là ở trạng thái có thể chất tốt, trí tuệ phát triển và lành mạnh. Khái niệm bệnh tật Khái niệm bệnh: Thứ nhất: là trạng thái cơ thể hoặc bộ phận cơ thể hoạt động không bình thường. Thứ hai: Là thói xấu và khuyết điểm về tư tưởng làm cho có những hoạt động đáng chê trách hoặc gây hại.3 3: Từ điển Tiếng Việt – NXB Khoa học xã hội – trung tâm từ điển học.H,1994[56]. Khái niệm bệnh tật được thể hiện dưới 3 khía cạnh : Bệnh : là nhằm phản ánh một quá trình bệnh lý đó là kết quả của sự rối loạn hệ thống sinh học bình thường trong cơ thể của con người. Muốn chữa trị phải sử dụng đến thuốc hoặc sự can thiệp bằng phẫu thuật. Đau, yếu, ốm : cấp độ này nhằm chỉ sự đau yếu về thể chất, tinh thần và xã hội. Bệnh hoạn : mang ý nghĩa xã hội đồng thời mang ý nghĩa lệch lạc các chuẩn mực xã hội, nó là một biểu tượng không nhân văn gắn liền với lối sống, chất lượng sống và các giá trị về chuẩn mực đạo đức và nhân cách. Nó được coi như là hành vi, hành động trái với chuẩn mực của một cộng đồng. Bệnh hoạn như một sự kiện xã hội . Bệnh xã hội Tên chỉ chung những bệnh có ảnh hưởng lớn đến toàn xã hội, do tỷ lệ mắc bệnh cao ở một vùng hoặc trong phạm vi cả nước, có tính chất lây lan, có tỷ lệ tử vong cao, ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ nhân dân, đến sự phát triển kinh tế xã hội do bệnh nhân mất khả năng lao đông tạm thời hay vĩnh viễn (VD: như bệnh phong, bệnh sốt rét, bệnh hoa liễu , biếu cổ, lao, đau mắt hột, AIDS...)1. Bệnh nghề nghiệp Hiện trạng bệnh lý mang tính chất đặc trưng nghề nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp. Do tác hại thường xuyên và kéo dài của điều kiện lao động xấu2. 1 &2: Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 1- trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa toàn thưViệt Nam – Hà Nội 1995 3.Khái niệm công nhân Công nhân là những người lao động chân tay làm việc theo giờ và ăn lương theo sản phẩm.1 1: Từ điển Tiếng Việt – NXB Đà Nẵng 1998 Chương II: Kết quả nghiên cứu I/Vài nét chung về công ty Tuyển than Cửa Ông: Công ty Tuyển Than Cửa Ông nằm trên địa bàn phường Cửa Ông, phía Đông Bắc thị xã Cẩm Phả thuộc tỉnh Quảng Ninh trực thuộc Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam, được xây dựng năm 1894 và đến năm 1924 thì căn bản hoàn thành và bước vào sản xuất. Công ty Tuyển Than Cửa Ông là công cụ mà thực dân Pháp dùng để vơ vét của cải trong công cuộc khai thác thuộc địa lần I. Đứng trước sự tàn áp của thực dân công nhân công ty đã sớm đấu tranh và giác ngộ cách mạng trở thành một trong những đơn vị sản xuất anh hùng vừa tiến hành sản xuất phục vụ tiền tuyến, vừa bảo vệ máy móc chống lại sự phá hoại của chiến tranh. Sau khi hoà bình công ty tiếp tục củng cố laị sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, đảm bảo định mức. Do thời gian xây dựng đã lâu, hầu hết các máy móc đều xuống cấp, cơ sở vật chất không được đầu tư, người công nhân phải làm việc trong điều kiện lao động hết sức khó khăn như ô nhiễm môi trường, nhà xưởng dột nát, không đảm bảo an toàn, vệ sinh. Do vậy mà năng suất của công ty giảm, đời sống của người công nhân gặp nhiều khó khăn. Đứng trước tình hình đó, Đảng bộ cũng như Ban lãnh đạo công ty đã tìm mọi cách để khôi phục và mở rộng sản xuất. Năm 1980 công ty chính thức đưa hệ thống dây truyền sản xuất mới do Ba Lan và úc xây dựng vào sản xuất. Đó là phân xưởng sàng Tuyển II, đã góp phần nâng cao năng xuất và khả năng hoạt động của công ty lên nhiều lần. Từ sau khi đổi mới đến nay, đối với cơ chế làm ăn mới, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khởi sắc cùng nền kinh tế của cả nước hiện nay công ty là một doanh nghiệp hoạch toán độc lập trực thuộc Tập đoàn than – khoáng sản Nam thành lập theo quyết định 2607/QĐ DTCT. Chức năng nhiệm vụ chính : vận chuyển, sàng tuyển chế biến các chủng loại than, bốc rót tiêu thụ xuất khẩu than, tiêu thụ trong nước, sửa chữa các thiết bị sàng tuyển bốc rót, vận tải và sản xuất khí ôxy, Nitơ, chất keo tụ, vật liệu xây dựng. Tổng thu nhập trung bình hàng tháng của công ty Tuyển Than II là 2,3 triệu đồng/tháng Tuyển Than I là 2 triệu đồng/tháng. Các phân xưởng khác từ 1,5 - đến 1,8 triệu đồng/tháng. Năng lực hiện tại của xí nghiệp là vận tải mỏ trên 3 triệu tấn/năm, sàng tuyển và chế biến than mỏ trên 2 triệu tấn/ năm. Bốc rót tiêu thụ tại cảng chính trên 2,5 triệu tấn / năm. Bốc rót trực tiếp lên tàu bằng hệ thống Hitachi, sản xuất theo công nghệ huyền phù và đãi nắng bằng thiết bị của Pháp, Ba Lan, Nhật, úc. Sản phẩm của công ty đạt chất lượng quốc tế. II/Thực trạng môi trường lao động sản xuất của công ty: Công ty Tuyển Than Cửa Ông là công ty mang đầy đủ các nét đặc trưng cho môi trường lao động của ngành khai thác và chế biến than. Đó là hiện tượng ô nhiễm bụi, tiếng động lớn, không khí không thông thoáng, nóng bức. Đó cũng là những yếu tố gây ô nhiễm môi trường lao động phổ biến trong các ngành công nghiệp. Nhưng riêng với ngành than thì yếu tố bụi than là trầm trọng hơn cả. Bảng tóm lược số liệu của Sở y tế tỉnh Quảng Ninh về kết quả kiểm tra môi trường lao động của công ty cho thấy điều này. Về bụi than, nồng độ bụi vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 2 lần, bụi đếm hạt (hạt/ cm3) từ 2,5 đến 22,5 lần, bụi % hạt < 5mm từ 1,80 đến 1,82 lần. Bụi than có ảnh hưởng đến sức khoẻ con người như gây bệnh hen suyễn, viêm cuống phổi, bệnh viêm cơ phổi. Về tiếng ồn vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5 đến 19 dBA, nhiệt độ cao hơn tiêu chuẩn từ 1 đến 3,5 0 c. Qua hỏi thăm một số công nhân ở phân xưởng tuyển I thì chúng tôi được biết ở đây rất bụi, chỉ cần trận gió nhẹ là bụi cuốn thành lốc nhỏ bay khắp nơi, còn vào tháng 10 khi có gió mùa Đông Bắc thì bụi bay mù mịt, không mở được mắt ra. Còn trong nhà xưởng, khu vực sàng tuyển không chỉ bụi than cám mà bụi hạt cũng rắc như mưa do quá trình sàng lắc của các băng chuyền than. Bên cạnh bụi than, thì tiếng ồn lớn cũng là một trong những đặc trưng của công ty, tiếng ồn chủ yếu do máy móc gây ra. ở đây tiếng của đủ các loại phương tiện, máy móc phát ra liên tục trong suốt quá trình sản xuất. Phần lớn người công nhân làm việc ở đây đều có thói quen nói to. Vì tiếng nói phải át tiếng máy thì mới có thể trao đổi với nhau được. Cũng do dây truyền sản xuất phải sử dụng nhiều máy móc, trong quá trình làm việc phần lớn các máy móc đều toả nhiệt, mặt khác do các thiết bị được lắp đặt và cách xây dựng nhà xưởng phía trong nơi sản xuất rất chật hẹp và kín dẫn đến ít gió, không khí không thông thoáng. Qua điều tra thực tế của chúng tôi tại các phân xưởng cho biết thực trạng về môi trường lao động của người công nhân bị ô nhiễm như sau: Như vậy trong hầu hết các phân xưởng làm việc của công ty vấn đề bui nhiều chiếm tỷ lệ cao nhất 87%, sau đó là tiếng ồn 82% và nóng bức 67%, ngoài ra ở một số nhà xưởng còn bị ẩm ướt, thiếu ánh sáng và không khí không thông thoáng. Nguyên nhân chủ yếu của tiếng ồn quá lớn và bụi nhiều là do máy móc của công ty quá cũ kỹ, phần lớn là các thiết bị dây truyền sản xuất từ thời Pháp để lại có thâm niên làm việc trên 70 năm và lạc hậu so với công nghệ của thế giới từ năm 70-80 năm, hàng năm vẫn được công ty tu sửa lại. Tuy nhiên cũng có một vài bộ phận đã được nâng cấp cải tiến trang thiết bị máy móc hiện đại của Pháp, úc, Ba lan như ở phân xưởng Tuyển II, vận tải. Phần lớn công nhân của công ty phải làm việc thủ công kết hợp với máy móc và chủ yếu bằng máy móc, không có bộ phận nào được tự động hoá. Điều đó cho thấy công ty vẫn sử dụng loại công nghệ cần đến nhiều công nhân để vận hành nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Bên cạnh máy móc cũ nát là không ít nhà xưởng xuống cấp trầm trọng, đặc biệt là phân xưởng Tuyển I, nhà xưởng từ thời Pháp xây dựng, đến nay đã bị hỏng hóc và dột nát, nở tường hàng năm công ty vẫn phải củng cố lại nhưng không được nhiều. Còn lại hầu hết các nhà xưởng khác đều xây dựng đã lâu, cần phải nâng cấp lại toàn bộ và cần phải được trang bị đầy đủ hơn đặc biệt là vấn đề thuộc điều kiện nhà xưởng như vấn đề nhà tắm, nhà vệ sinh đặc biệt là cho nữ công nhân. Đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người công nhân, đồng thời nó thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo đến điều kiện làm việc của người lao động. Như vậy với thực trạng môi trường lao động như vậy sẽ gây nhiều ảnh hưởng tới sức khoẻ cũng như khả năng lao động của mỗi công nhân đồng thời là nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp cho họ như là các bệnh về tai, mũi, họng, bệnh đau đầu và đặc biệt là bệnh về đường hô hấp. III/Một số yếu tố của môi trường lao động tại công ty Tuyển than Cửa Ông ảnh hưởng đến sức khoẻ người công nhân: 1.Hoạt động lao động sản xuất: Công nghệ khai thác và chế biến than là loại công nghiệp nặng, tính chất công việc nặng nhọc và độc hại mà các công việc chủ yếu cần đến bàn tay của con người, không thể đưa vào tự động hoá được. Chính vì lý do này mà con người khôg thể tránh khỏi việc phải tiếp xúc với những yếu tố độc hại, nguy hiểm trong quá trình lao động sản xuất. Về mặt hình thức lao động, qua kết quả điều tra mẫu cho thấy nhiều nhất là lao động thủ công kết hợp với máy móc chiếm 70%, sau đó là lao động chủ yếu bằng máy móc chiếm 20% và chiếm tỷ lệ thấp nhất là lao động thủ công 10%. Biểu sau sẽ cho biết rõ cơ cấu hình thức lao động của công ty: Lao động thủ công kết hợp với máy móc chủ yếu là bao gồm các công việc như : đứng nhặt rác tại các băng chuyền, xúc than, đập toa than tại các máng ... họ phải tiếp xúc thường xuyên với bụi than, tiếng ồn, hoá chất, đa số là làm việc trong các nhà xưởng nóng bức thiếu ánh sáng hoặc ẩm ướt. Còn lao động thủ công thuần tuý bao gồm những công việc chính của họ là xúc dọn, nhặt phân loại than, xúc than, khuôn vác vật liệu... Công việc hết sức nặng nhọc và vất vả tiếp xúc nhiều với bụi lại hầu như làm việc ngoài trời chịu ảnh hưởng của thời tiết, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ của họ. Có thể nói rằng đây là hai loại lao động độc hại và nặng nhọc, có ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khoẻ của người công nhân. Nhằm minh chứng và đánh giá cho nhận định này chúng tôi tiến hành tìm hiểu về mức độ ảnh hưởng của môi trường sản xuất tới sức khoẻ của người công nhân theo cơ cấu lao động và kết quả như sau: Bảng : Tương quan đánh giá về ảnh hưởng của môi trường sản xuất tới sức khoẻ của người công nhân theo cơ cấu lao động (%) Mức độ Loại lao động ảnh hưởng tốt ảnh hưởng không tốt Không ảnh hưởng Tổng lao động thủ công 10 90 100,0 Thủ công kết hợp máy móc 10 84,3 5,7 100,0 Chủ yếu bằng máy móc 20 75 5 100,0 Tổng 12 83 5 100,0 Bảng 1 cho thấy, 83% công nhân ở các loại lao động đều cho rằng môi trường lao động có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của họ. Chỉ có 5% cho rằng môi trường sản xuất có không ảnh hưởng đến sức khoẻ thuộc loại lao động chủ yếu bằng máy móc. Trong khi đó số người cho rằng ảnh hưởng không tốt cao nhất thuộc lao động thủ công là 90% và tiếp đến ở nhóm lao động thủ công kết hợp máy móc 84,3%. Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi được biết loại lao động chủ yếu bằng máy móc hầu hết được làm việc trong phòng điều khiển dây chuyền băng, sàng được trang bị các phương tiện chống nóng, thông gió, ánh sáng đầy đủ và ít ảnh hưởng bởi bụi than hơn các loại lao động khác. Trong khi đó lao động thủ công và lao động thủ công kết hợp với máy móc là những công việc nặng nhọc độc hại vì phải tiếp xúc trực tiếp với than như nhặt và phân loại than, xúc than tràn ra ngoài máng,... nên hít phải rất nhiều bụi than trong quá trình làm việc. Trong thực tế, tuy chúng tôi tìm hiểu kỹ thì được biết hầu hết những người cho rằng ảnh hưởng tốt hoặc không ảnh hưởng đều là những người ngại nói về những vấn đề này, họ cho đó là những vấn đề tế nhị và sợ bị ảnh hưởng tới công việc cho dù chúng tôi đã giải thích về tính khuyết danh của nghiên cứu. Trong quá trình lao động, người lao động phải chịu nhiều tác động khác nhau trong đó có những tác động thuộc cấu trúc không gian nơi làm việc như bụi, tiếng ồn, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng ...tới sức khoẻ và có thể gây ra các bệnh nghề nghiệp cho họ. Hai yếu tố gây ra môi trường lao động và có hại đến sức khoẻ của người lao động phổ biến nhất là bụi và tiếng ồn.Tuy rằng bụi than không nguy hiểm bằng bụi đá và bụi bông nhưng nó cũng gây ra nhiều căn bệnh về đường hô hấp như viêm họng, viêm mũi, bệnh về mắt và nguy hiểm hơn cả là bệnh bụi phổi.Tiếng ồn là nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh điếc nghề nghiệp và căng thẳng thần kinh, đau đầu. Đồng thời nếu bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn lâu ngày thì những bệnh trên lại phát sinh ra các bệnh khác như loạn thần kinh chức năng, giảm trí nhớ, mất ngủ, rất có hại cho sức khoẻ cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ. Thực tế cho thấy công nhân của công ty phải làm việc trong môi trường có tiếng ồn lớn vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Làm việc trong điều kiện bụi bặm, ầm ầm cả ngày kết hợp với sự nóng bức, ngột ngạt gây cho họ một cảm giác mệt mỏi và nhanh chóng gây ra sự căng thẳng về thần kinh. Sự tích tụ lâu ngày của những trạng thái trên sẽ gây ra sự suy nhược của cơ thể và làm tăng nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp cũng như căn bệnh khác hoặc các tai nạn, sự cố trong và ngoài sản xuất. Người lao động khi làm việc không chỉ chịu ảnh hưởng của các yếu tố gây ô nhiễm trong môi trường lao động mà họ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về cường độ lao động, nội dung lao động tác động nhiều đến sức khoẻ. Người công nhân phải làm việc với cường độ cao với 8 giờ/ ngày, làm ca 3 và làm hai ca liên tiếp. Với cường độ lao động như vậy chỉ có công nhân nam mới đủ sức chịu đựng. Đối với nữ công nhân sức khoẻ của họ kém hơn nam công nhân thì tác hại của các yếu tố này cũng nghiêm trọng hơn. Qua điều tra cho ta thấy mặc dù công ty thực hiện đúng luật lao động là không làm quá 8giờ/ngày nhưng hầu hết các nữ công nhân phải làm ca 3 với tỷ lệ chiếm tới 74,0%. Khi tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ thì chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng: Nguyên nhân gây ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của người công nhân (%) Nguyên nhân gây ảnh hưởng không tốt tần suất (%) Do tiếp xúc với hoá chất 5 Khí độc hại 25 Không đủ ánh sáng 12 Độ ồn lớn 70 Không khí không thông thoáng 20 ẩm ướt nhiều 23 Bụi bặm nhiều 77 Như vậy hai nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sức khoẻ của người công nhân chiếm tỷ lệ cao nhất đó là bụi bặm nhiều 77% và độ ồn lớn 70%. Ngoài ra còn có một số lý do khác như : do khí độc hại 25%, ẩm ướt nhiều 23% và không khí không thông thoáng 20%. Người lao động do phải tiếp xúc với những yếu tố có ảnh hưởng không tốt ở môi trường làm việc như vậy nên sau một ngày làm việc họ thường cảm thấy mệt mỏi về thể xác và căng thẳng thần kinh. Khi được hỏi sau một ngày làm việc anh (chị) cảm thấy mình như thế nào? Chúng tôi đã thu được kết quả như sau: Bảng :Cảm giác của người lao động sau một ngày làm việc Cảm giác tần suất(%) Mệt mỏi về thể xác 62 Căng thẳng về thần kinh 57 Không vui vẻ 41 Như vậy có đến 62% người được hỏi cho biết họ cảm thấy mệt mỏi về thể xác và 57% căng thẳng về thần kinh sau một ngày làm việc, chính điều này gây ra tâm lý không vui vẻ, thoải mái khi trở về gia đình của mình, ức chế về mặt tâm lý. Qua khảo sát đối với các nhóm lao động tại công ty thì đều có tỷ lệ cảm nhận mệt mỏi về thể xác và căng thẳng về thần kinh sau một ngày làm việc rất cao. Bởi làm việc trong điều kiện môi trường ô nhiễm, tính chất công việc nặng nhọc, độc hại thì những cảm giác trên là không tránh khỏi . Bảng: Tương quan giữa các hình thức lao động và yếu tố giới tính (%) Giới tính Loại lao động Nam Nữ Tổng Lao động thủ công 3,9 16,3 10 Thủ công kết hợp với máy móc 78,4 61,2 70 Chủ yếu bằng máy móc 17,6 22,4 20 Tổng 51 49 100 Như vậy, trong mẫu nghiên cứu thì tỷ lệ nữ công nhân lao động thủ công (16,3%) cao gấp 4 lần so với nam công nhân (3,9%). Bởi vì phần lớn nữ công nhân làm các công việc như xúc dọn, làm vệ sinh nơi sản xuất, nhặt và phân loại than. Còn các công việc thủ công kết hợp với máy móc như như sửa chữa máy, đập toa than tại các máng,... chủ yếu là do các nam công nhân đảm nhiệm (78,4%) do điều kiện về mặt sức khoẻ và tính chất công việc. Còn những công việc chủ yếu điều khiển máy móc như vận hành băng, sàng, máy xả nước phần lớn do nữ đảm nhiệm vì công việc này ít nặng nhọc hơn. Do có sự khác biệt về mặt giới và tính chất công việc nên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu sự tự đánh giá của người lao động về công việc hiện tại của mình tại công ty và thu được kết quả như sau: Bảng: Tương quan giữa giới tính và sự đánh giá về công việc hiện tại của bản thân (%) Giới tính Đánh giá nam nữ Tổng Đơn điệu 3,9 41 4 Buồn chán 2 1 Hứng thú 27,5 24,5 26 Nặng nhọc 66,7 69,4 68 Độc hại 68,6 71,4 70 Tổng 51 49 100 Như vậy, chúng ta thấy rằng phần lớn công nhân cho rằng công việc của họ đều nặng nhọc và độc hại, trong đó tỷ lệ đánh giá đối với nữ nặng nhọc là 69,4%, độc hại là 71,4% cao hơn hẳn so với nam giới, nặng nhọc là 66,7%, độc hại là 68,6%. Do điều kiện về mặt sức khoẻ nữ giới kém hơn nam giới nên có sự chênh lệch về mặt đánh giá công việc, nữ công nhân sau giờ sản xuất còn phải về nhà để chăm sóc gia đình, hoạt động kinh tế phụ, với sức khoẻ bị suy yếu, sự mệt mỏi và bệnh tật sẽ cản trở họ trong việc làm tròn chức năng của người vợ, người mẹ. 2.Các chế độ và chính sách bảo hộ lao động: 2.1.Về bảo hộ lao động: ở công ty Tuyển Than Cửa Ông do đặc điểm của môi trường lao động ở đây là ô nhiễm bụi và tiếng ồn, ngoài ra với từng đội sản xuất lại phải chịu thêm những yếu tố có hại khác do vậy vấn đề bảo hộ lao động luôn cần phải đảm bảo đầy đủ và kịp thời. Qua điều tra mẫu về trang thiết bị BHLĐ của công ty, chúng tôi được biết tuỳ vào mỗi đội làm việc trong các môi trường lao động khác nhau thì được phát những loại bảo hộ khác nhau. Nhưng riêng quần áo, giầy, tất thì công nhân của cả công ty đều được trang bị như nhau, mỗi năm một bộ, một đội giầy, hai đôi tất. Các đội làm việc tiếp xúc nhiều với than, hoá chất, vật liệu thì được trang bị thêm găng tay, mũ hoặc nón, khẩu trang, sáu tháng được phát một lần, riêng mũ hai năm phát một lần. Còn các đội trong khu vực ẩm ướt hoặc tiếp xúc nhiều với nước được trang bị thêm áo mưa, ủng, găng tay cao su ...Việc cấp phát trang bị BHLĐ ở công ty qua nghiên cứu cho thấy: Không có trường hợp không cấp phát. Trong đó những người không nhận được đầy đủ và kịp thời thì đều phải tự trang bị cho mình. Việc cấp phát đồ BHLĐ kịp thời và đầy đủ là một điều quan trọng và rất cần thiết vì khi chúng cũ và rách thì chẳng còn tác dụng bảo vệ, ngăn chặn sự xâm nhập của các yếu tố gây hại vào cơ thể mà còn gây khó chịu cho người lao động khi làm việc. Theo chúng tôi được biết công ty Tuyển Than Cửa Ông có một phân xưởng may chuyên may quần áo bảo hộ cho công nhân trong công ty. Điều này chứng tỏ ban lãnh đạo công ty cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, việc đầu tư cho nó nhiều khi không được kịp thời và còn thấp. Nguyên nhân là do khối lượng công việc nhiều và nặng nhọc, người công nhân phải sử dụng thường xuyên nhưng chất lượng của đồ BHLĐ quá kém, nhanh hỏng, rách trước thời hạn không đảm bảo. Do vậy phần lớn công nhân cho rằng phát không kịp thời chiếm tỷ lệ 59%. Qua tìm hiểu sâu về vấn đề này, chúng tôi được biết chất lượng đồ BHLĐ rất kém, quần áo mặc chóng rách, không thấm mồ hôi, nóng bức gây cho họ cảm giác rất khó chịu. ở nhiều tổ việc cấp phát đồ bảo hộ quá chậm có những tổ do tính chất lao động nhẹ nhưng không phải tiếp xúc với than, hoá chất hầu như không được cấp phát. Ngoài ra nhiều người phàn nàn về việc cấp phát đồ bảo hộ không phù hợp với cỡ người, chân. Đây là một trong những thiếu xót mà công ty chưa quan tâm. Nếu không trang bị BHLĐ đầy đủ và kịp thời thì không thể nói là làm tốt công tác an toàn lao động, bảo vệ sức khoẻ tính mạng người lao động. Trong công ty, phần lớn các công nhân phải làm việc với máy móc, đòi hỏi phải đúng kỹ thuật và thực hiện đầy đủ các quy tắc về an toàn lao động vì rất dễ xảy ra tai nạn lao động, chỉ cần sơ ý hay thiếu xót một chút là có thể gây thiệt hại cả về người và tài sản của công ty. Do vậy việc thực hiện an toàn lao động được công ty quan tâm hàng đầu. Qua điều tra mẫu chúng tôi được biết công ty quan tâm đến việc tuyên truyền giáo dục quy tắc ATLĐ (91%), kiểm tra giám sát việc thực hiện ATLĐ (89%) và chu cấp đầy đủ trang thiết bị phòng hộ lao động (69%). Họ còn cho biết, các phó giám đốc, quản đốc các phân xưởng thường xuyên xuống kiểm tra, giám sát việc thực hiện ATLĐ ở các khu vực có tính nguy hiểm cao, đôn đốc những người phụ trách phân xưởng đi kiểm tra các vấn đề về ATLĐ, vệ sinh nhà xưởng. Bên cạnh đó các ca trưởng , tổ trưởng thường xuyên nhắc nhở mọi người chú ý thực hiện công tác này. Hàng năm công ty tổ chức các buổi học về nội quy, ATLĐ, an toàn sử dụng máy móc, thiết bị cho anh, chị em công nhân trong công ty đặc biệt cho những người mới vào làm. ATLĐ còn là sự đảm bảo về an toàn vệ sinh nhà xưởng và giảm thiểu mức độ ô nhiễm của các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên. Qua điều tra mẫu chúng tôi được biết ban giám đốc công ty rất quan tâm đến môi trường lao động sản suất của công nhân đặc biệt trong việc làm giảm bớt sự ảnh hưởng của chúng tới sức khoẻ của công nhân. Biểu sau sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn sự quan tâm của lãnh đạo công ty: Biểu: Sự quan tâm của ban lãnh đạo công ty đến môi trường lao động sản xuất: Biểu trên cho thấy trong môi trường lao động sản xuất lãnh đạo công ty quan tâm nhiều nhất đến ATLĐ (100%), ánh sáng (79%) và vệ sinh nhà xưởng (81%) và ít nhất là đến chất thải công nghiệp (35%). Ngoài ra, theo ông phó giám đốc điều hành của công ty cho biết: công ty đã bỏ ra nhiều triệu đồng để làm một hệ thống ống phun nước giảm bụi trải dài trên một kilomet, hệ thống này mới được đưa vào sử dụng trong vài năm gần đây. Còn về tiếng ồn và nóng bức, công ty đã cố gắng khắc phục nhưng cũng chỉ ở một số phòng kỹ thuật, văn phòng, do không đủ kinh phí và công ty quá lớn. Nói chung lãnh đạo công ty đã quan tâm đến công tác bảo đảm ATLĐ, vệ sinh nhà xưởng và ánh sáng nơi làm việc. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề khác mà ban giám đốc cần phải quan tâm hơn như vấn đề làm giảm các yếu tố thuộc môi trường lao động này ảnh hưởng tới sức khoẻ và khả năng lao động của người công nhân. 2.2.Về chính sách khám chữa bệnh, hưởng lương trong thời gian nghỉ chữa bệnh, chính sách bảo hiểm: Chính sách giành cho những công nhân nghỉ chữa bệnh rất quan trọng, giúp cho người lao động vẫn có những thu nhập trong thời gian họ không thể tiến hành làm việc vì lý do sức khoẻ, số lương này giúp họ thêm vào để chi tiêu cho cuộc sống và tái tạo sức khoẻ.Công ty cũng rất chú ý tới việc mua bảo hiểm lao động, bảo hiểm xã hội cho công nhân bằng chứng là 100% mẫu nghiên cứu đều trả lời rằng công ty mua bảo hiểm xã hội cho họ. Khảo sát mẫu nghiên cứu về trình độ học vấn, kết quả thu được như sau: Biểu cơ cấu trình độ học vấn của công nhân tại hai phân xưởng Tuyển I v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự tác động của môi trường sản xuất đến sức khỏe người công nhân (nghiên cứu cụ thể tại Quảng Ninh).doc
Tài liệu liên quan