Đề tài Sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong những năm gần đây

MỤC LỤC

MỞ BÀI 1

NỘI DUNG 1

I. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc 1

1. Dân tộc và hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc 1

2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc 2

II. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay 3

1. Một số đặc điểm của dân tộc ở nước ta hiện nay 3

2. Chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay 4

3. Một số phương hướng để thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay 6

KẾT LUẬN 7

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 8

PHỤ LỤC 9

 

docx19 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 67 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong những năm gần đây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ BÀI Ở Việt Nam chính sách dân tộc được đánh giá như là một vấn đề xã hội mang tính đặc thù, thể hiện rõ quan điểm giai cấp, của Đảng và các cơ quan cầm quyền. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ, kinh tế và văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp đồng bằng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy với bài tập lớn học kỳ em quyết định chọn đề tài : “Sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong những năm gần đây.” NỘI DUNG I. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc 1. Dân tộc và hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc a. Dân tộc Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa: Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có sự kế thừa và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng đó. Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước. b. Hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng đồng dân cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. 2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế. Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình. Bao gồm quyền tự do dân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây là yếu tố tạo nên sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. II. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay 1. Một số đặc điểm của dân tộc ở nước ta hiện nay Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, 54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh chiếm 86% dân số còn lại là dân tộc ít người phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm một lượng nhỏ trong dân số cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí, chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Và sự thống nhất giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế xã hội không đồng đều. Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế - văn hóa giữa các dân tộc còn chênh lệch, khác biệt. Đây là một đặc trưng hết sức quan trọng nhằm thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta. Cùng với nền văn hóa cộng đồng mỗi dân tộc trong gia đình các dân tộc Việt Nam có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của cả cộng đồng. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. 2. Chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa IX của Đảng đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”. Chủ trương nhất quán và đúng đắn về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: đoàn kết, bình đẳng, thương yêu, tôn trọng giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đồng thời, giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc; chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nội dung của chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhànước ta tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây: Chính sách về phát triển kinh tế vùng các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng đồng bào các dân tộc, gắn với kế hoạch phát triển chung của cả nước, đưa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cùng cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc. Đảm bảo cho đồng bào dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và góp phần vào xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mở rộng các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết linh hoạt giữa các tỉnh, các thành phố, các tổ chức kinh tế ở miền xuôi với các địa phương và các đơn vị kinh tế ở miền núi. Đây là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện chính sách dân tộc trong hoàn cảnh và điều kiện mới với mục tiêu tạo sự chuyển biến căn bản diện mạo và đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Chính sách xã hội tập trung vào các vấn đề giáo dục - đào tạo, văn hóa, y tế... nhằm nâng cao năng lực, tạo tiền đề và các cơ hội để các dân tộc có đầy đủ các điều kiện tham gia vào quá trình phát triển, để trên cơ sở đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào như chăm lo đời sống, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí...Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền núi, đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác cho cán bộ các dân tộc. Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc, từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số ở vùng cao, hải đảo. Nghiêm cấm các hành vi miệt thị dân tộc, và chia rẽ dân tộc. Chính sách liên quan đến quốc phòng - an ninh, nhằm củng cố các địa bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc và quan hệ dân tộc trong mối liên hệ tộc người, giữa các tộc người và liên quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa. Ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện. Trong thời kỳ đổi mới, các nguyên tắc cơ bản này tiếp tục được khẳng định và bổ sung thêm. Nếu như trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc thì từ Đại hội VI trở đi các nguyên tắc này đã được xác định là: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI), “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau” (Đại hội VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X) . Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính toàn diện, tổng hợp tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính nhân đạo, bởi vì nó không bỏ sót một dân tộc nào, nó tôn trọng quyền làm chủ của con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc 3. Một số phương hướng để thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay Để thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc, các cấp, các ngành phải làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền quán triệt sâu sắc tinh thần Chỉ thị số 1971/CT-TTg, ngày 27/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về "Tăng cường công tác dân tộc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Vận động toàn dân thực hiện tốt Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc. Rà soát hệ thống chính sách dân tộc đang được thực hiện trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ ở vùng đồng bào dân tộc cần phải làm tốt việc phân định rõ trình độ phát triển của từng vùng để hoạch định các chính sách dân tộc đặc thù phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, tạo điều kiện cho các địa phương khai thác, phát huy các tiềm năng thế mạnh của mình. Những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo, rút ngắn dần khoảng cách chệnh lệch giữa các vùng giữa các dân tộc. Nhìn chung hệ thống chính sách dân tộc hiện nay khá đầy đủ và toàn diện trên các lĩnh vực đời sống xã hội, đã tạo ra bước chuyển biến rõ rệt về phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền núi. Tuy vậy, qua thực tiễn triển khai cho thấy còn có một số nội dung chính sách trùng lặp và bất cập. Do vậy, việc rà soát hệ thống chính sách để đánh giá quá trình tổ chức thực hiện cũng như kết quả để có sự điều chỉnh cho phù hợp. Nghiên cứu ban hành khung hệ thống chính sách đối với khu vực dân tộc thiểu số và miền núi cho từng giai đoạn, trước mắt là giai đoạn 2011-2020; xây dựng khung chính sách phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tổng thể của vùng và địa phương. Khung hệ thống chính sách sẽ là cơ sở để các bộ, ngành và địa phương xây dựng những chính sách cụ thể đầu tư phát triển theo ngành, lĩnh vực, chánh chồng chéo giữa các bộ, ngành cũng như Uỷ ban Dân tộc sẽ thực hiện tốt hơn vai trò quản lý, giám sát việc xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách thực hiện ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chính sách, chương trình, dự án ở vùng dân tộc, miền núi; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách; chủ động huy động các nguồn lực để thực hiện các chương trình trên địa bàn, nhất là vùng đặc biệt khó khăn. Cần có cơ chế, chính sách đặc thù đối với một số vùng dân tộc và một số dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn để giảm nghèo nhanh, góp phần bảo tồn, phát triển toàn diện các dân tộc thiểu số Việt Nam. Các chính sách dân tộc đặc thù phải chú trọng yếu tố khuyến khích được những người lao động giỏi, biết làm giàu chính đáng cho bản thân làm gương cho cộng đồng học tập, tránh quan điểm bình quân, cào bằng. Cơ chế quản lý các chính sách dân tộc đặc thù phải đơn giản về thủ tục hành chính, dễ thực hiện. Đối với những vùng đặc biệt khó khăn, cơ chế thủ tục quản lý càng phải thông thoáng nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân tiếp cận thực hiện. KẾT LUẬN Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta; giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012. Trình bày tình hình dân tộc các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam và nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. ( truy cập ngày 17/12/2012). Bài tiểu luận đặc điểm các dân tộc Việt Nam . ( truy cập ngày 17/12/2012). ĐẠI GIA ĐÌNH CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM ( truy cập ngày 18/12/2012) Một số vấn đề chính sách dân tộc trong thời kì đổi mới ( truy cập ngày 18/12/2012) Chính sách dân tộc Việt Nam ( Truy cập ngày 18/12/2012) Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng sau 25 năm đổi mới ( truy cập ngày 19/12/2012) PHỤ LỤC Hình ảnh đông đúc tại Chợ Đồng Văn, Hà Giang (Ảnh: Ngọc Thành) Dân tộc Ê Đê Dân tộc Chăm Dân tộc Xơ Đăng Dân tộc Thái Dân tộc Dao dân tộc h'mông Dân tộc Nùng Dân tộc Bana Dân tộc Sán Chay Dân tộc Mường

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxde_tai_su_van_dung_cac_nguyen_tac_co_ban_cua_chu_nghia_mac_l.docx
Tài liệu liên quan