Đề tài Sự vận dụng lý luận của lênin về CNTB nhà nước ở Việt Nam

Căn cứ vào những thời điểm lịch sử trước và sau có thể nhận thấy rằng, thoạt đầu Lênin quan niệm các hợp tác xã đều là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước . Về sau này, từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã phân biệt tổ chức kinh tế này trong những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại hai chế độ hợp tác xã: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước.

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự vận dụng lý luận của lênin về CNTB nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độc thoại", "cửa quyền". Bản thân chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là "sự kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nước xô viết, nền chuyên chính vô sản với CNTB" là "một khối với CHTB ở bên trên". Và đương nhiên sẽ không có chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu không có những điều kiện cho họ, điều kiện ấy theo Lênin, chính là những "cống vật". Trong điều kiện trên thế giới chỉ có một chính quyền Xô viết, xung quanh là cả một hệ thống các nước tư bản, muốn tồn tại, chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy. "Hoặc là chiến thắng toàn bộ giai cấp tư sản ngay lập tức, hoặc phải nộp cống vật". Khi thực hiện tô nhượng, một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, rõ ràng là nhà tư bản được lợi nhuận không phải thông thường mà "bất thường", "siêu ngạch" hoặc có được loại nguyên liệu mà họ không tìm hoặc khó tìm được bằng cách khác. Điều này rất có ý nghĩa thực tiễn và đặc biệt có ý nghĩa đối với nước ta hiện nay khi thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhà nước tư bản được "lập lại", được "du nhập" "không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô viết, mà vì lợi ích của bản thân họ". Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia lợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức "trả giá" cho sự lạc hậu, cho sự kém cỏi của mình. Nhưng không có cách nào khác, mà điều cần phải học. Phải học cách phân chia lợi ích cho quy luật ngự trị trong kinh tế, đó là sự phân chia theo sức mạnh kinh tế kỹ thuật. Phải trả giá, phải có một vài hy sinh" nhưng cái giá ấy là bao nhiêu? Một thiên tài như Lênin, về vấn đề này cũng chỉ có thể trả lời "mức độ là bao nhiêu, kinh nghiệm và thực tiễn sẽ chứng tỏ". Vấn đề là không cần che giấu sự thật: phải nộp cống vật. Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập chủ nghĩa tư bản sẽ mang lại lợi ích cơ bản và lâu dài. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy mạnh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi khủng hoảng, thoát ra ttình cảnh giảm sút "tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công nặng nền và nạn đầu cơ nhỏ lan tràn (nạn này nguy hiểm nhất)…". Nói về tầm quan trọng của vấn đề này, Lênin đã chỉ ra rằng chính quyền vô sản có giúp đỡ cho sự phát triển đó được không, hay là bọn tư sản dễ chinh phục được tầng lớp tiểu nông, đó là điều sẽ quyết định kết cục cuộc đấu tranh giữa tư bản và vô sản. Đó là kinh nghiệm của mấy mươi cuộc cách mạng trước đây. Bằng sự "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất, tăng lên ngay hoặc trong mộ thời gian ngắn. ở trong nước có xí nghiệp, hàm mỏ, khu rừng, nhưng do thiếu máy móc, lương thực, phương tiện vận tải, cho nên không thể khai thác được. Vì thế mà thành tiểu tư hữu tăng lên về mọi mặt, kinh tế nông dân ở vùng xung quanh bị xuy yếu, các lực lượng sản xuất nông nghiệp bị lung lay. Nếu " du nhập" được chủ nghĩa tư bản thì sẽ có thể cải thiện được nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân, nền đại công nghiệp Xô viết sẽ được khôi phục. Đó là cái lợi cơ bản, cấp thiết nhất của giai cấp vô sản khi mới giành được chính quyền. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tư bản và tư bản chủ nghĩa. Vì công nghiệp lớn chứa khôi phục, các cơ sở kinh tế nhỏ không nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ của công nghiệp lớn, chúng không bị sức hút nào cả, nên kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập trong chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện ấy, chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, bởi vì chủ nghĩa tư bản là xu hướng và là kết quả phát triển. Tự phát của nền sản xuất nhỏ: Với ý nghĩa ấy "tư bản làm cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, tư bản sinh ra nền sản xuất nhỏ". Xét về trình độ phát triển thì chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế tiểu nông. Nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì chính quyền xô viết sẽ tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp , củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh, đối lập với những quan hệ kinh tế tiểu tư sản vô chínhphủ. Chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì lẽ ấy, trơ thành cụ để đấu tranh chống tính tự phá tư bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu tư sản, chống tệ đầu cơ, được coi là kẻ thù chính của chủ nghĩa xã hội, ở nước tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã bác bỏ luận điểm cho rằng cuộc đấu tranh diễn ra chủ yếu là giữa chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin chính giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Nó chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát nào của nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản nhà nước hay chủ nghĩa xã hội. Không hiểu được vấn đề này thì sẽ gây ra nhiều sai lầm về kinh tế. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, những tập quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp ấy là cái quan trọng hơn hết. Bởi vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong (bọn Napôlêông và Ca-Vai-Nhắc đã lật đổ cách mạng hồi trước cũng chính do chúng phát triển trên cơ sở tiểu tư hữu ấy). Cũng vì thế mà chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất. Nếu khôi phục được tình trạng này thì "tất cả những con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố". Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn là công cụ để khắc phục được "kẻ thù chính trong "nội bộ" đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế" của chính quyền Xô viết. Đó là bọn đầu cơ, bọn gian thương, bọn phá hoại độc quyền của nhà nước.Lênin nói rằng không thể giải quyết vấn đề này bằng biện pháp xử bắn hoặc "những lời tuyên bố sấm sét", bởi vì cơ sở kinh tế của tệ đầu cơ là tầng lớp những kẻ tiểu tư hữu và chủ nghĩa tư bản tư nhân, có đại diện của mình trong mỗi người tiểu tư sản. Chủ nghĩa nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Khi nói tới thực chất của chính sách kinh tế mới, Lênin đã đề cập tới nhiệm vụ "đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề". Vì sao và thông qua chính sách kinh tế gì mà có thể thực hiện được nhiệm vụ này? Lênin phân tích về nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu ở nước Nga: ấy là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ, tình trạng không có đường sá, nạn mù chữ, tình trạng khong có sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức một nền sản xuất lớn. Khi ấy, giai cấp vô sản Nga, so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nước phát triển nào khác là giai cáp tiên tiến hơn về chế độ chính trị của nước mình và về sức mạnh của chính quyền công nông, nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản nhà nước có quy củ, về trình độ văn hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc "thực hiện" chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Lênin phê phán luận điểm cho rằng, vì không có sự tương xứng đó cho nên không cướp chính quyền. Lênin coi đó là luận điểm của hạng "người trong vỏ ốc" không biết rằng sẽ không bao giờ có, không thể có sự tương xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng như của xã hội, mà chỉ có trải qua hàng loạt lần làm thử.. thì mới có thể xây dựng nên chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh… Chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu thực hiện được, sẽ giúp cho chính quyền Xô viết khắc phục dần được tình trạng lạc hậu ấy. Cũng qua đây mà học tập được cách quản lý của "những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm" trong những xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu người. Chủ nghĩa tư bản thông qua sự "du nhập" của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại ; qua đó mà hy vọng có được trình độ trang thiết bị cao của chủ nghĩa tư bản. Nếu không lợi dụng kỹ thuật đó thì không xây dựng tốt được cơ sở cho nền đại sản xuất của chính quyền Xô viết. Chủ nghĩa tư bản nhà nước mang lại cái lợi là, thông qua sự phát triển nó mà phục hồi được giai cấp công nhân. Nếu chủ nghĩa tư bản được lợi thế, thì sản xuất cm cũng sẽ tăng lên về giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Nếu chủ nghĩa tư bản được khôi phục lại thì cũng có nghĩa là sẽ khôi phục lại giai cấp vô sản tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, nghĩa là đã bị đẩy ra ngoài con đường tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vố sản nữa. Đôi khi về hình thức nó đã được coi là giai cấp vô sản, nhưng nó không có gốc về kinh tế. Chính là với ý nghĩa của việc thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước như vậy mà Lênin nói rằng đó là "điều có lợi và cần thiết", 'đáng mong đợi" trong điều kiện của chính quyền Xô viết. 4.Các hình thức của CNTB nhà nước và điều kiện cần có để sử dụng CNTB nhà nước. Lênin chẳng những là người mác xít đầu tiên nêu ra luận điểm về việc bổ sung chủ nghĩa tư bản làm phương tiện để tăng lực lượng sản xuất, mà còn chỉ đạo việc thực hiện chủ trương này trong thực tiễn. Và đó mới là điều quan trọng nhất. Khi giải thích vì sao dùng danh từ chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lênin nói 'điều mà tôi luôn luôn quan tâm tới, là mục đích thực tiễn…". Theo Lênin, mục đích thực tiễn ấy là tìm ra những hình thức cụ thể để thực hiện. Cần lưu ý rằng, đối với Lênin, mặc dù thời gian sống quá ngắn ngủi song tư tưởng về sự phong phú, đa dạng của những hình thức là tư tưởng của người mà ta cần quán triệt. Lênin không trói buộc chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ vào một số hình thức đã tồn tại. Tư tưởng của Lênin chính là: '…ở chỗ nào có những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói chung, thì ở đó có chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình độ này hay trình độ khác.". ở thời Lênin đã có những hình thức cụ thể như: 1. Tô nhượng. Trong cuốn bàn về thuế lương thực, Lênin quan niệm tô nhượng là giao kèo, một sự liên kết, liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô viết, nghĩa là nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Tô nhượng là chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy, nhà tư bản được sử dụng một vài thứ: nguyên liệu, hầm mỏ, xí nghiệp, quặng hay thậm chí một công xưởng riêng biệt. Chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ (trong thực tế không phải chỉ cso như vậy. Trong bức thư ngày 5-12-1921, Lênin còn nói đến việc tô nhượng quay phim,và mua phim ở nước Nga và kinh doanh những phim ấy ở ý). Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa, và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nước xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi. Nhà tư bản kinh doanh theo phương thức tư bản cốt để thu được lợi nhuận bất thường, siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu mà họ không tìm được hoặc khó tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên. Hình thức tô nhượng là sự "du nhập"chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào. Tất cả khó khăn trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết mọi điều kiện khi ký hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Thời Lênin hình thức tô nhượng được coi là phổ biến hơn cả. Với cách đặc vấn đề của Lênin hồi đó, có thể quan niệm đó là hình thức "làm ăn" với tư bản nước ngoài nói chung. Trong báo cáo về tô nhượng, Lênin đã nêu ra những điều cần phải chú ý như sau: - Để thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước (tô nhượng) cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương của một số người cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không chấp nhận trở lại chịu ách nô dịch của tư bản. Lênin nêu rõ cần phải sẵn sàng chịu đựng cả một loạt hy sinh thiếu thống và bất lợi miễn sao có được một sự chuyển biến quan trọng và cải thiện tình trạng kinh tế trong các ngành công nghiệp chủ yếu. Cũng phải dự kiến rằng trong thời gian đầu không thể tránh khỏi sai lầm, nhưng dù sao cũng phải cố đạt được điều đó. "Bất cứ người nhận tô nhượng nào cũng vẫn là nhà tư bản, và nó sẽ cố gắng phá hoại chính quyền Xô viết; còn chúng ta thì lại cố lợi dụng lòng tham lam của nó". - Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp to nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài. Điều trọng yếu nhất khi thực hành chế độ tô nhượng là nâng cao số lượng sản phẩm lên. Nhưng điều đặc biệt quan trọng, thậm chí càng quan trọng hơn là cải thiện ngay tức khắc đời sống của công nhân trong các xí nghiệp đó. Cải thiện đời sống của công nhân các xí nghiệp tô nhượng và ngoài tô nhượng được xem là "cơ sở chính sách tô nhượng". - Ngoài ra, người nhận tô nhượng phải bán thêm cho chính quyền Xô viết (nếu có yêu cầu) từ 50-100% số lượng sản phẩm tiêu dùng cho các công nhân ở xí nghiệp tô nhượng cũng với giá bán như trên, làm cải thiện đời sống công nhân khác. - Vấn đề trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng trả bằng ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô viết… thì sẽ được quy định theo sự thoả thuận riêng trong từng hợp đồng. Có điều, về phương diện hình thức trả lương, chính quyền Xô viết không hề trói buộc các nhà tư bản. Vấn đề đối với nhà nước là phải biết thích ứng với mọi điều kiện sao cho có thể đấu tranh được với họ để cải thiện tới một mức nào đó đời sống của công nhân. - Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. Công đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lương của Nga, cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn công nhân đối với những công nhân đó. Nên nhớ rằng, tô nhượng là một hợp đồng ký với một quốc gia tư sản, cho nên người cộng sản nào muốn ký hợp đồng tô nhượng trên cơ sở các nguyên tắc cộng sản thì Lênin nói rằng nên "bỏ người đó vào nhà thương điên". Cũng tương tự như vậy nếu đảng viên cộng sản nào, trong chính sách tô nhượng mà lại muốn thể hiện chủ nghĩa cộng sản của mình vào trong bản hợp đồng, cố nhiên, việc thuê mướn công nhân nước ngoài, tổng số cũng như từng loại phải theo tỷ lệ phân trăm so với công nhân, nhân viên Nga, tỷ lệ này sẽ thoả thuận trong hợp đồng. - Còn đối với những công nhân Nga - chuyên gia có trình độ cao, nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền trung ương. Theo tinh thần không thể để các chuyên gia ưu tú nhất làm việc ở các xí nghiệp tô nhượng. Tuy không cấm hoàn toàn nhưng việc thi hành hợp đồng phải được giám sát từ trên xuống và từ dưới lên. -Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga, chẳng hạn các đạo luật về điều kiện lao động, về kỳ hạn phát lương… nếu người nhận tô nhượng yêu cầu phải ký hợp đồng với các công đoàn (theo định mức của một công nhân trung bình ở Mỹ hoặc Tây Âu, là định mức bắt buộc đối với cả hai bên). Ký hợp đồng với công đoàn chính là nhằm xoá bỏ mối lo của tư bản đối với các công đoàn ở ta. Ngoài những hàng tiêu dùng và những thiết bị máy móc nhập vào xí nghiệp tô nhượng, người nhận tô nhượng còn phải nhập thêm cho ta, ví dụ 25% số cần thiết của họ bán cho ta theo giá thoả thuận (giá thành cộng với một tỷ lệ tạp phí nhất định). - Phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và nước ngoài. Điều này phải được quy định tỉ mỉ trong từng hợp đồng, bởi vì đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là ở chỗ nó không có khả năng chăm lo đến việc sử dụng đất đai và sức lao động một cách khoa học và đúng đắn. Những quy tắc khoa học - kỹ thuật là biện pháp đấu tranh chống hiện tượng đó. (Ví dụ khi cho thuê rừng cần quy định cách thức kinh doanh lâm nghiệp đúng đắn…). Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước Thoạt đầu Lênin quan niệm hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhưng sau này Lênin lại có quan niệm hơi khác. Trong một tác phẩm cuối cùng của mình, Lênin viết: "Cần phải viện đến một cái gần giống như chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tôi muốn nói đến một chế độ hợp tác xã". Tiếp ngay sau đó Lênin nói "thườgn thường trong hoàn cảnh nước ta, chế độ hợp tác xã hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Có thể hiểu quan niệm của Lênin về tổ chức hợp tác xã như thế nào?. Căn cứ vào những thời điểm lịch sử trước và sau có thể nhận thấy rằng, thoạt đầu Lênin quan niệm các hợp tác xã đều là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước . Về sau này, từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã phân biệt tổ chức kinh tế này trong những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại hai chế độ hợp tác xã: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong một nước tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới-tức chính quyền Xô viết, đã hình thành - như Lênin nói, một kiểu xí nghiệp thứ ba, tức xí nghiệp hợp tác xã trước đây, về phương diện nguyên tắc chưa thành một loại riêng biệt. Những xí nghiệp hợp tác xã này được coi là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân (xây dựng trên đất đai thuộc về xã hội) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Dưới chế độ tư bản tư nhẫnn hợp tác xã là tổ chức tư bản tập thể cho nên chúng khác với xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, cũng như xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Con đường khác mà Lênin gọi là con đường của chủ nghĩa tư bản hợp tác. Vì quan niệm nếu có tự do bán lương thực thì tất yếu chủ nghĩa tư bản sẽ phát triển, cho nên phải hướng sự phát triển ấy cho con đường chủ nghĩa tư bản hợp tác xã. Hợp tác xã là tổ chức bao gồm hàng ngàn thậm chí hàng triệu tiểu nghiệp chủ. Nếu chủ nghĩa tư bản hợp tác xã theo con đường kết hợp xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống là bước chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác thì chế độ hợp tác xã theo con đường thứ hai là bước chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất trong một "thời kỳ lịch sử" '10 hay 20 năm". Con đường theo chế độ này về sau Lênin quan niệm là "hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Như vậy, theo cách dặt vấn đề của Lênin, ở thời điểm ấy đã có hai quan niệm khác nhau về cùng một chế độ hợp tác xã. Một loại là tổ chức được quần chúng nhân dân chân chính thực sự tham gia một cách tự giác; một tổ chức có thể kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc nhà nước kiểm soát và kiểm tra lợi ích đó, làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. Chế độ hợp tác xã kiểu này có ý nghĩa đặc biệt trước hết là về phương diện nguyên tắc (nhà nước nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất) sau nữa là về phương diện bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Trong hoàn cảnh mới, chế độ này là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội và nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên mảnh đất xã hội chủ nghĩa. Với chế độ hợp tác xã này, "… khi các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội, khi giai cấp đã thắng giai cấp tư sản - thì chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa". Còn loại hợp tác xã được coi là hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước, với cách diễn đạt của Lênin phải chăng là hình thức hợp doanh (công tư hợp doanh) theo khái niệm thường dùng ngày nay. Nhưng cũng từ tư tưởng này liệu có thể giúp ta hình dung ra những hình dung ra những hình thức có thể thuộc loại khác nhưng vẫn là một hình thức có thể thuộc loại khác nhưng vẫn là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước (vấn đề này sẽ được đề cập ở phần sau trong điều kiện hiện nay ở nước ta). Hình thức đại lý uỷ thác Liênin coi hình thức này là hình thức thứ ba. Theo hình thức này thì nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ: Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Hình thức này giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô nhượng không phải là tư bản nước ngoài, mà là tư bản trong nước. Hình thức này được coi là hình thức riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối tượng thuê chỉ là tư bản trong nước. -Cho nông dân thuê những hầm mỏ. Qua thực tiễn vùng mỏt Đôn bát, Lênin rút ra một hình thức nữa của chủ nghĩa tư bản nhà nước: cho nông dân thuê những hầm mỏ. Qua việc làm này, Lênin rút ra hai kết luận - một hiện tượng ngược đời: chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia là tư bản, ngang hàng với các xí nghiệp tư bản nhà nước được phát triển. Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước (gần 30% số than khai thác được). Đây cũng là kiẻu cho thuê, nhưng đối tượng thuê - cách nói của Lênin là những tiểu tư bản. Công ty hợp doanh Trong báo cáo tại Đại hội IV Quốc tế cộng sản, Lênin đã nói về những thành tựu đạt được do thực hành chế độ chủ nghĩa nhà nước. Khi nói về lĩnh vực thương nghịêp, chính quyền Xô viết đang cố gắng lập ra những công ty hợp doanh và đã thành lập được theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần của chính quyền Xô viết. Đó là một số hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể rút ra từ thực tiễn thực hành chế độ này và được Lênin trình bày khi thì tập trung, khi thì rải rác ở một số tác phẩm. 5. Kết quả thực hiện CNTB nhà nước thời Lênin Đến tháng 11 năm 1922 (khoảng hơn 1 năm thực hành chế độ này), Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung, chủ nghĩa tư bản nói riêng, như sau: Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân. Từ chỗ đói kém, một bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình, đến chỗ trong vòng 1 năm, nông dân chẳng những đã thoát khỏi được nạn đói, mà còn được thuê lương thực hàng trăm triệu pút. Từ những cuộc bạo động mang tính chất phổ biến năm 1921, nông dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa. Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định. Lý do là không có những khoản cho vay lớn hàng mấy trăm triệu đôla. Chính sách tô nhượng thì hay thật nhưng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không hy vọng vay được ở các nước giàu có, vì các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp chết nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ. Tuy nhiên 20 triệu vàng (nhờ thương nghiệp mà có vốn ấy). Điều quan trọng nữa là tiết kiệm về mọi mặt, kể cả những chi phí về trường học để cứu vãn công nghiệp nặng. Riêng về chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước, qua các tài liệu và sự đánh giá cho đến năm 1924, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga Xô viết những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh, Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương tây. Thông qua các hoạt động cảu các công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga còn có thể thực sự học cách buôn bán , điều mà bấy lâu nay Lênin thường nói là nhiệm vụ rất quan trọng. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp nhà nước Xô viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội , việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28885.doc
Tài liệu liên quan