PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SUY THOÁI KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2
I.SUY THOÁI KINH TẾ 2
1. Khái niệm và nguyên nhân suy thoái 2
2. Diễn biến của suy thoái 4
3. Hậu quả đối với nền kinh tế thế giới 9
4. Tác động của suy thoái đến VIỆTNAM 14
5. Các biện pháp khắc phục hậu quả của suy thoái 17
II.THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 22
1. Mức tăng trưởng GDP 23
2. Tiêu dùng toàn xã hội 24
3. Chi tiêu chính phủ 25
4. Đầu tư toàn xã hội 25
5. Xuất khẩu 27
6. Nhập khẩu 29
7. Thị trường khoán và bất động sản co hẹp 30
8. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp 31
9. Chỉ số giá tiêu dùng- giá vàng- giá USD 31
10.Vấn đề điều hành kinh tế chưa đồng bộ kịp thời 32
PHẦN II : THƯC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SUY THOÁI LÊN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 35
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 35
1. Thực trạng 35
2. Những điều kiện thuận lợi và thách thức của Ngân hàng thương mại trước tình hình hội nhập kinh tế quốc Tế 41
II.CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SUY THOÁI LÊN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 43
1. Các tác động tích cực 43
2. Các tác động tiêu cực 44
PHẦN III : PHƯƠNG HƯỚNG VA GIẢI PHÁP CHO CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SUY THOÁI LÊN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 46
I.GIẢI PHÁP 46
1. Đối với 6 tháng đầu năm 46
2. Đối với 6 tháng cuối năm 47
II. KẾT QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH 48
III. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG, NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NĂM 2009 49
1. Những thách thức 49
2. Mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong năm 2009 51
KẾT LUẬN 53
55 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4028 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Suy thoái kinh tế và tác động của nó đến hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông chúng để khôi phục niềm tin; (iii) Khuôn khổ pháp lý yếu; (iv) Thiếu nguồn lực và năng lực để đảm bảo hiệu quả hợp tác giữa các cơ quan quản lý. Giải pháp để tháo gỡ những khó khăn này là:
* Khuôn khổ pháp lý hỗ trợ xây dựng những biện pháp can thiệp kịp thời và có trật tự: Những thay đổi nhanh chóng trong môi trường hoạt động đòi hỏi phải có đánh giá tổng thể về khuôn khổ pháp lý qui định về quyền hạn, công cụ và những yêu cầu đối với các cơ quan quản lý trong việc đưa ra những can thiệp và giải pháp kịp thời. Nhìn chung, những qui định pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh tra, quyền lợi của nhà đầu tư, phá sản doanh nghiệp, bảo mật thông tin thường được xây dựng độc lập với nhau để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các nhóm đối tượng và được thực thi bởi các cơ quan khác nhau. Do vậy có thể có những qui định pháp lý xung đột, gây cản trở cho việc thực hiện những giải pháp can thiệp kịp thời và có trật tự.
* Có đủ nguồn lực, năng lực và hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan quản lý để đảm bảo thực hiện chính sách có hiệu quả: Trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại vai trò "Người cho vay cuối cùng" của Ngân hàng Trung ương đã có những điều chỉnh so với cách hiểu truyền thống như: (i) Kéo dài thời kỳ hỗ trợ thanh khoản; (ii) Mở rộng phạm vi các tài sản được phép cầm cố và danh sách các tổ chức được tham gia; (iii) Cho phép hoán đổi các chứng khoán không có khả năng thanh khoản lấy trái phiếu chính phủ. Ngoài ra, nhiều biện pháp can thiệp khác cũng được áp dụng như mua lại nợ, bảo lãnh nợ và tiền gửi, tăng vốn. Tuy nhiên, những biện pháp can thiệp như vậy đã chuyển những rủi ro tín dụng và thị trường lên bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng Trung ương. Hơn nữa việc chấp nhận những tài sản đảm bảo thiếu tính thanh khoản cũng tạo ra những quan ngại về các vấn đề định giá, rủi ro đạo đức... vì rất khó xác định được cách định giá phù hợp đối với các sản phẩm tài chính có độ phức tạp cao và ít được giao dịch. Do vậy, phần lớn các Ngân hàng trung ương trong khu vực đã không ngừng tăng cường khuôn khổ quản lý thanh khoản và có những độ linh hoạt nhất định trong việc đưa ra những điều chỉnh cần thiết để có thể đối phó được những tình huống thiếu hụt thanh khoản có thể xảy ra trên thị trường hoặc đối với từng tổ chức cụ thể. Điều này cũng đòi hỏi Ngân hàng trung ương phải tăng cường khả năng kiểm soát rủi ro và đội ngũ chuyên gia.
* Tăng cường cung cấp thông tin để loại bỏ tâm lý bất ổn và khôi phục lòng tin: Vấn để khủng hoảng lòng tin trong cuộc khủng hoảng này đã một lần nữa cho thấy các chiến lược truyền thông cho các nhóm đối tượng cần phải được coi là một phần đặc biệt quan trọng trong các giải pháp chính sách, vì những tác động về lòng tin có thể trở thành kênh truyền dẫn chính cho những lây lan khủng hoảng giữa các nước, cũng như giữa các khu vực kinh tế. Vấn đề công bố và trao đổi thông tin có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với hiệu quả chính sách, tùy thuộc vấn đề thời điểm công bố và mức độ chi tiết của thông tin. Trong bối cảnh biến động tài chính như hiện nay, việc thiếu những tuyên bố, thông cáo về chính sách thường dẫn đến tình trạng mất lòng tin. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc cung cấp quá nhiều thông tin cũng có thể gây ra những hoảng loạn không cần thiết do những nhóm đối tượng khác nhau có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau về khủng hoảng.
d. Điều phối chính sách trên phạm vi toàn cầu-vai trò của IMF
Theo đánh giá của IMF, các nước hầu như không có sự phối hợp chính sách trên phạm vi quốc tế trước khi xảy ra khủng hoảng và trong quá trình xảy ra khủng hoảng, các biện pháp chính sách ban đầu vẫn không mang tính phối hợp mà chỉ tự điều phối bên trong mỗi nước. Ví dụ, nhiều nước vội vàng bảo vệ các ngân hàng của nước mình thông qua biện pháp bảo lãnh, qua đó gây nguy cơ tháo chạy ra khỏi các hệ thống đã được bảo vệ kém hơn ở các nước láng giềng, trong khi đó việc hỗ trợ thanh khoản lại chủ yếu hướng tới các định chế tài chính trong nước. Do đó, công tác quản lý thị trường tài chính cần phải thay đổi. Cùng với quá trình toàn cầu hóa các thị trường tài chính, các nước cần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quản lý, giám sát khu vực tài chính. Cần tăng cường tiếng nói của các nền kinh tế đang nổi trên các diễn đàn quốc tế về giải quyết các vấn đề kinh tế toàn cầu, đồng thời IMF đóng vai trò đặc biệt trong quá trình điều phối chính sách và giám sát ổn định kinh tế toàn cầu bởi vị trí và kinh nghiệm của IMF trong việc giám sát kinh tế vĩ mô toàn cầu. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, IMF đã cung cấp những khoản hỗ trợ đáng kể cho Hungary, Ukraine, Pakistan, Iceland, Latvia và Belarus, tăng cường hỗ trợ cho nhiều nước thu nhập thấp và sẵn sàng cho vay nhiều hơn. Tháng 11/2008, Quỹ đã cho vay một lượng tiền kỷ lục mà Quỹ từng cho vay trong 1 tháng. Tuy nhiên, để có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình, IMF cần có đủ nguồn lực và phối hợp chặt chẽ với các tổ chức hợp tác khu vực như SEACEN và ASEAN +3. Vừa qua, IMF đã kêu gọi các nước thành viên đóng góp thêm, tăng gấp đôi nguồn vốn của IMF lên 500 tỷ USD nhằm có đủ khả năng đối phó với khủng hoảng
e.Biện pháp chính sách khắc phục tác động của khủng hoảng
Về quản lý thanh khoản và thị trường: tăng cường cung cấp thanh khoản cho thị trường, bảo lãnh cho vay và bảo lãnh tiền gửi để duy trì lòng tin của thị trường đối với hệ thống tài chính.
Về tiền tệ: do lạm phát trong khu vực tiếp tục có xu hướng đi xuống trong bối cảnh giá cả hàng hóa toàn cầu giảm, hầu hết các nước trong khu vực đều nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng với mức cắt giảm lãi suất tính từ đầu năm 2008 đến nay từ 50 đến 525 điểm cơ bản.
Về tài khóa: một số nền kinh tế như Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Singapo, Thái Lan và Đài Loan (Trung Quốc) đã thực hiện các gói kích thích tài khóa quy mô lớn nhằm kích cầu trong nước với giá trị dao động từ 4,1% - 16% GDP.
Về hợp tác quốc tế: củng cố và tăng cường khuôn khổ hợp tác và giám sát tài chính khu vực Asean, Asean+3, Ủy ban ổn định tài chính và tiền tệ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, cụ thể là tăng cường đa phương hóa Sáng kiến Chiengmai, hợp tác chia sẻ và cung cấp thông tin giám sát trong khu vực nhằm duy trì và ổn định tài chính tiền tệ.
II.THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Năm 2008 là câu chuyện của hai cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau.
Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã trải qua những trạng thái hoàn toàn trái ngược từ quá nóng sang quá lạnh.
Những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên liệu, dầu mỏ và lương thực tăng chóng mặt kèm theo chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa một cách quá mức của chính phủ trong những năm trước đây đã tạo là chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng 17 năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy thâm hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND có khả năng bị mất giá nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đó chính phủ Việt Nam đã thực thi hàng loạt các biện pháp cấp bách như thắt chặt tiền tệ (lãi suất cơ bản có lúc đã đẩy lên đến mức 14%), siết chặt đầu tư công và chi tiêu chính phủ bằng việc đình hoãn, hủy bỏ hàng loạt các dự án chưa cấp bách. Các chính sách này đã tỏ ra hiệu quả khi lạm phát đã hạ nhiệt vào các tháng cuối năm, thâm hụt thương mại giảm bớt qua đó tỷ giá VND/USD đã trở nên cân bằng và ổ định hơn. Nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ.
Tuy nhiên chưa kịp hoàn hồn, ngay sau đó Việt Nam lại tiếp tục phải đối mặt với những thử thách cam go hơn đến từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ những tháng cuối năm 2008. Cuộc khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam khi nhu cầu hàng hóa của toàn cầu suy giảm nghiêm trọng. Điều này dẫn tới sự sụt giảm xuất khẩu cũng như đầu tư của Việt Nam tạo ra nguy cơ suy thoái kinh tế và đe dọa làm mất cân bằng cán cân thương mại một lần nữa.
Quan sát các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong năm 2007 và 2008 có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã yếu đi rõ rệt và dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết.
Bảng1: Các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam năm 2007&2008
2007
2008
Tăng trưởng GDP (%)
8.5
6.2
Tăng trưởng tiêu dùng cá nhân(%)
9.6
3.9
Tăng trưởng chi tiêu công (%)
8.9
8
Tăng trưởng đầu tư (%)
23
14
Tăng trưởng xuất khẩu (%)
15.2
10.6
Tăng tưởng nhập khẩu (%)
21.3
15.1
Chỉ số giá tiêu dùng (avg, %)
12.6
23
Tỷ giá hối đoái, VND:USD
16.096
16.989
Thực trạng Kinh tế Việt Nam năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải chịu hai tác động nặng nề, đó là chính sách tiền tệ và tài khóa được thắt chặt khá đột ngột nhằm hãm đà lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
1. Mức tăng trưởng GDP
Kinh tế Việt Nam năm 2008 đã không tiếp tục được đà tăng trưởng cao của các năm trước đó. Quý I/2008, tốc độ tăng trưởng GDP là 7,38%, thấp hơn tốc độ 7,8% của quý I/2007 kèm theo tình hình kinh tế trong nước có nhiều diễn biến bất lợi như lạm phát và nhập siêu tăng cao bất thường. Đến quý II/2008, tốc độ lạm phát và nhập siêu của quý này đã giảm nhẹ, song tốc độ tăng trưởng GDP của quý cũng giảm và chỉ đạt 5,85%. Quý III/2008, kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ suy thoái, giá cả trên thị trường thế giới về nguyên liệu, nhiên liệu và lương thực thực phẩm xoay chiều giảm mạnh , Việt nam bắt đầu nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ và tốc độ tăng trưởng GDP của quý đạt 6,55%.
Quý IV/2008, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển từ chính sách đấu tranh với lạm phát trong vài tháng trước thành nới lỏng để hỗ trợ kinh tế phát triển. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến hành những biện pháp nới lỏng mạnh nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng và tạo điều kiện tiếp cận vốn vay cho doanh nghiệp. Vì vậy năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 mức tăng trưởng đã chậm lại rõ rệt. Năm 2008 tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.2 % trong khi 3 tháng đầu năm 2009 tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,1%. Năm 2008 Nông nghiệp chỉ tăng 3,8%, công nghiệp tăng 6,3%, dịch vụ tăng 7,2%. Đây là những mức tăng khiêm tốn nhất trong 10 năm trở lại đây và là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang chững lại.
Bảng GDP từng năm
2. Tiêu dùng toàn xã hội
Trong bối cảnh lạm phát tăng cao những tháng đầu năm, sau đó lại là suy giảm tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm khiến thu nhập thực tiễn của người tiêu dùng Việt Nam giảm đáng kể, người tiêu dùng Việt Nam đã phản ứng bằng cách thắt chặt chi tiêu cá nhân. Tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng năm 2008 chỉ là 3,9 % mức tăng rất thấp nếu so với mức 9,6% của năm 2007 và tỷ lệ này tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2009.
3. Chi tiêu chính phủ
Chi tiêu chính phủ tăng khoảng 8% trong năm 2008 giảm 1%so với mức tăng năm 2007. Sự suy giảm này gây bởi từ chính sách tài khóa thắt chặt quyết liệt của chính phủ nhằm hạ nhiệt lạm phát. Tuy nhiên một phần lớn phần ngân sách tiết kiệm được này lại dùng để trả lương cho các công chức chính phủ do đó thâm hụt ngân sách năm 2008 vẫn ở mức cao chiếm 5% GDP. Mức thâm hụt ngân sách cao cộng với nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu suy giảm khiến chính phủ khó lòng gia tăng chi tiêu trong năm 2009. Điều này khiến chính sách kích cầu và nới lỏng tiền tệ của chính phủ trở nên kém hiệu quả.
4. Đầu tư toàn xã hội
Đầu tư trong năm 2008 đã tăng chóng mặt lên đến mức tăng 11.2%. Mặc dù có những mối quan ngại về nền kinh tế đang xấu đi nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí vào Việt Nam vẫn tăng mạnh. Luồng vốn FDI được duyệt lên đến 64 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007. Tuy nhiên trên thực tế vốn giải ngân thực sự ít hơn nhiều chỉ khoảng 11 tỷ USD. Trong năm 2009 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã có sự suy giảm rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thống kê 3 tháng đầu năm 2009 Trong ba tháng đầu 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ USD đầu tư nước ngoài.Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn so với năm ngoái tới 40%. Trong khi đó đầu tư công khó có khả năng tăng trở lại do thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang ở mức rất cao. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn cả về vốn lẫn đầu ra sản phẩm nên họ cũng không mặn mà với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho tổng mức đầu tư toàn xã hội sẽ suy giảm mạnh trong năm 2009.
Vốn đầu tư thực hiện năm 2008 theo giá trị thực hiện ước tính đạt 637.3 nghìn tỷ đồng, tăng 22.2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực nhà nước là 184.4 nghìn tỷ, chiếm 28.9 % tổng số vốn và giảm 11.4%. Khu vực ngoài nhà nước là 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41.3% tăng 42.7%. Khu vực có vốn FDI 189.9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29.8 % và tăng 46.9%.
Vốn đầu tư từ NSNN thực hiện trong năm 2008 đạt 100.9 nghìn tỷ bằng 102.8% kế hoạch: Trung ương quản l ý 34.2 nghìn tỷ đồng, đạt 103 % kế hoạch. Địa phương quản lý 66.7 nghìn tỷ đồng, đạt 102.7%.
Vốn đầu tư XDCB cả năm 2008 tăng cao so với cùng kỳ năm trứơc. Tính đến tháng 12/2008, vốn rót vào khu vực Trung Ương tăng hơn 50% so với vốn đầu tư của khu vực địa phương.
Cả nước có 1171 dự án FDI mới dược cấp phép trong năm 2008 với số vốn đăng ký đạt 60.3 tỷ USD. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm nay đạt 51.5 triệu USD so với mức bình quân 12.5 triệu USD/dự án của năm 2007.
5. Xuất khẩu
Giá trị xuất khẩu năm 2008 ước tính đạt 62.9 tỷ USD, tăng 29.5% so với cùng kỳ năm 2007, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%. Khu vực đầu tư nước ngoài đạt 24.5 tỷ USD, tăng 26.8%. Dầu thô đạt 10.5 tỷ USD, tăng 23.1%.
Giá trị xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng so với năm 2007, chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Trong đó có 8 nhóm mặt hàng đạt kim ngạch trên 2tỷ USD là: Dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, gạo, sản phẩm ghỗ, điện tử- máy tính, cà phê. Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ vẫn là đối tác lớn nhất, đạt 11.6 tỷ USD, tăng 14.5% so với năm 2007; thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng ước tính cảc năm vẫn đạt 10.2 tỷ USD, tăng 31% so với năm trước, thị trường ED đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước. Xuất khẩu năm 2008 cảu các loại hàng hoá tăng 29.5% so với năm 2007.
Từ năm 2001 Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hướng tới xuất khẩu và chiến lược này thực sự đã gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đã trở nên phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu khi xuất khẩu chiểm đến 70 % GDP. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng toàn câu hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam do các thị trường tiêu thụ sản phẩm chính bị thu hẹp. Thống kê cho thấy xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2009 khả ảm đạm. Mặc dù xuất khẩu của VN trong tháng 3 giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2008, chỉ có 9/35 mặt hàng xuất khẩu được thống kê tăng, còn lại là giữ nguyên và giảm nhưng nhờ lượng tái xuất vàng, đá quý tăng vọt lên tới trên 2 tỉ USD trong ba tháng đầu năm, giúp xuất khẩu cả quý 1 tăng 2,4%. Tuy nhiên, ba tháng kim ngạch xuất khẩu mới đạt khoảng 19% kế hoạch năm. Xuất khẩu ba tháng qua của hơn mười mặt hàng chủ lực như điện tử và linh kiện máy tính, thủy sản, cà phê, hạt điều, dầu thô... giảm 10-20%, có mặt hàng giảm gần 50% như cao su, dây cáp điện... Điều này chứng minh các doanh nghiệp (DN) VN đang chịu ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù 3 tháng đầu năm Việt Nam xuất siêu nhưng chủ yếu là nhờ tái xuất vàng và đây không phải là điều đáng mừng bởi không ảnh hưởng gì tới sản xuất.
Tóm lại năm 2009 nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp phải những thử thách hết sức khốc liệt và nguy cơ suy giảm tăng trưởng vẫn đang hiện hữu. Tuy nhiên với những chính sách điều hành kinh tế linh hoạt của Chính phủ và nỗ lực của toàn xã hội, kinh tế Việt Nam sẽ đứng vững tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững trong những năm tiếp theo.
6. Nhập khẩu
Giá trị nhập khẩu hàng hoá tính chung cả năm 2008 ước tính đạt 80.4 tỷ USD, tăng 28.3% so với năm 2007, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 51.8 tỷ USD, tăng 26.5%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28.6 tỷ USD, tăng 31.7%. Ba nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim nghạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008 là tư liệu sản xuất( chiếm 88.8%); hàng tiêu dùng( chiếm 7.8%) và vàng( chiếm 3.4%). Nhập siêu hàng hoá năm 2008 đạt 17.5 Tỷ USD, tăng 24.1% so với năm 2007 và bằng 27.8% kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng trước đây nhưng nhập siêu năm nay vẫn khá cao. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN ước tính đạt 19.5 tỷ USD, tăng 22.5% so với 2007. Các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhàm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất trong nước đều tăng so với 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất cho những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng trong các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng Việt Nam ngay tại thị trường trong nước.
7. Thị trường khoán và bất động sản co hẹp
Năm 2008 thị trường chứng khoán có nhiều biến động xấu. Chỉ số VN – Index giảm mạnh, thiết lập đáy của năm tại 285 điểm (ngày 10/12), mức thấp nhất kể từ năm 2006 tới nay. Sau 8 năm hoạt động kể từ khi khai trương đến nay, năm 2008 là năm thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động khó khăn nhất, chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh nhất từ những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong nước và bất ổn của thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn trầm lắng.
Những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong năm 2008 khiến thị trường chứng khoán Việt Nam tuy có lúc lên lúc xuống, nhưng về toàn cục là suy giảm mạnh. Cuối tháng 6, thị trường có dấu hiện phục hồi khi các chính sách nhằm kiểm chế lạm phát của Chính phủ bắt đầu có tác dụng. Nhưng sau đó, do sự bất ổn của thị trường tài chính Mỹ và ảnh hưởng của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục giảm điểm và cắt xuống dưới mốc 300.
Về thị trường bất động sản, trong năm 2008, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tăng lãi suất huy động vốn, gần như ngừng cho vay bất động sản, khiến các dự án liên quan đến bất động sản gần như đóng băng.
8. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Tốc độ tăng trưởng trung bình của các doanh nghiệp, theo báo cáo điều tra của VCCI, đạt 10,9% trong 6 tháng đầu năm 2008, mức tăng trưởng được đánh giá là khá tốt so với năm 2007 (5%). Tuy nhiên, kết quả này có được chủ yếu là do thừa hưởng đà tăng trưởng từ năm 200. Doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn lớn với việc lạm phát trong nước năm 2008 tăng cao, suy thoái kinh tế toàn cầu đang lan rộng. Khoảng giữa năm 2008, doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất cao, trong khi giá các nguyên vật liệu cơ bản tăng cao. Song gần đây, giá của nhiều mặt hàng giảm nhanh, khiến họ phải đầu tư với chi phí cao nhưng phải bán sản phẩm với giá thấp. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng và không tìm được hướng giải quyết đầu ra.
Với những biến động bất thường của kinh tế như năm 2008, các doanh nghiệp muốn duy trì sản xuất đều phải tự tìm ra hướng giải quyết. Nhiều doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô sản xuất do càng sản xuất càng lỗ để lại hậu quả là phải cắt giảm hoặc sa thải lao động gây ra những vấn đề không nhỏ về mặt xã hội. Trong khi đó, giá cả tăng cao, lương công nhân không có khả năng tăng theo dẫn đến tình trạng đình công và đình trệ kinh doanh ở nhiều doanh nghiệp sản xuất.
9. Chỉ số giá tiêu dùng- giá vàng- giá USD
Trái ngược với quy luật “Mùa tiêu dùng nóng” của thị trường cuối năm, CPI cả nước tháng 12/2008 đã tiếp tục giảm tháng thứ ba liên tiếp với mức 0.68% so với tháng 11, đưa chỉ số CPI tháng 12 ở mức 19.89% so với tháng 12/2007 và bình quân cả năm 2008 đạt 22.97%. Tính tổng cả năm, chỉ có một nhóm hàng giảm CPI so với năm trước là bưu chính- viễn thông. Các mặt hàng tăng giá mạnh nh t vẫn tập trung vào lương thực( h ơn 49%), thực phẩm(h ơn 32%), phương tiện đi lại( 16%), nhà ở và vật liệu xây dựng( 20.51%). Nhìn chung, giá tiêu dùng cả năm 2008 tăng khá cao và diễn biến phức tạp so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, III, nhưng các tháng trong quý VI liên tục giảm.
Giá vàng năm nay tăng mạnh so với năm ngoái, thêm gần 32%. Giá vàng tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 0.78% và so với tháng 12/2007 tăng 6.83%. Giá vàng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 31.93%.
Đồng USD trong năm 2008 gần như không có biến động mạnh. Tháng 12/2008, giá đồng USD so với tháng 11 tăng 1.14%, so với cùng kỳ năm trước tăng 6.31% và bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 2.35%
10.Vấn đề điều hành kinh tế chưa đồng bộ kịp thời
Báo cáo Chuyên đề “Dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2009” đã đưa ra những bất cập trong điều hành kinh tế như:
• điều hành tiền tệ, tín dụng. Lạm phát trong nước tăng cao một phần lý do là giá cả thế giới tăng, nhưng phần khác là do chính sách điều hành tiền tệ của chính phủ còn chưa phù hợp. Chính sách nới lỏng tiền tệ trong nhiều năm, đặc biệt là năm 2007, làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao, gây áp lực trực tiếp đến lạm phát. Sang quí III/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ đã bắt đầu lan rộng, giá cả trên toàn thế giới suy giảm, góp phần kiềm chế lạm phát những tháng cuối năm, nhưng Ngân hàng nhà nước vẫn duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ, lãi suất ngân vẫn duy trì quá cao, đến tận tháng 10/2008 lãi suất cơ bản vẫn ở mức 14%/năm và lãi suất cho vay vẫn ở khoảng 19-21%/năm. Chỉ đến khi nền kinh tế bộc lộ sự phát triển trì trệ, giá tiêu dùng giảm phát vào tháng 10 và có dấu hiệu tiếp tục giảm phát CPI, chính phủ mới mạnh dạn nới lỏng hơn chính sách tiền tệ mạnh tay giảm lãi suất cơ bản 4% xuống còn 10% trong vòng 6 tuần.
• chính sách quản lý đầu tư. Đây là vấn đề đã tồn tại nhiều năm nhưng Chính phủ vẫn chưa có những chính sách thích hợp để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư trong khu vực nhà nước. Theo Báo cáo của Kiểm toán nhà nước thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ hữu ở khối doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 17,04% trong khi chiếm đến 50% vốn đầu tư nhà nước, 70% tổng dư nợ quốc gia và 80% tổng dư nợ tín dụng.
• vấn đề ổn định vĩ mô. Thu chi ngân sách mất cân đối, bội chi ở mức cao, đầu tư dàn trải... là những vấn đề còn tồn tại. Dự kiến tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2008 đạt 399 nghìn tỷ đồng, vượt 23,5% so với dự toán và tăng 26,3% so với kết quả thực hiện năm ngoái chủ yếu là từ chênh lệch giá dầu,các khoản thu về nhà và đất, và thu từ xuất khẩu . Cả ba yếu tố này đều rất bấp bênh, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu thô tiếp tục giảm mạnh, xuất khẩu bị đe dọa khi thế giới đối mặt với nguy cơ suy thoái. Sản xuất kinh doanh năm 2008 có biểu hiện chững lại, phát sinh nhiều khó khăn ở các khu vực kinh tế, khiến thu ngân sách vốn đã lệ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài, càng trở nên bấp bênh, thiếu ổn định. Theo đánh giá của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, thực hiện dự toán chi ngân sách chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để. Chi đầu tư phát triển ước cả năm đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng 18,3% so với dự toán, chiếm 24,9% tổng chi ngân sách Nhà nước. Nhưng giải ngân vẫn chậm, đầu tư dàn trải, vi phạm đầu tư xây dựng cơ bản phổ biến. Tỷ lệ giải ngân vốn xây dựng cơ bản dự tính cả năm chỉ đạt 20 nghìn tỷ đồng, bằng 54% kế hoạch ban đầu và 70% kế hoạch điều chỉnh của Chính phủ.
• Cuối cùng là vấn đề yếu kém trong công tác dự báo và thông tin thị trường. Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng đúng mức, năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý điều hành. Ví dụ, vào cuối tháng 3/2008 giá gạo thế giới tăng cao (khoảng 1000USD/tấn), Bộ Công Thương tham mưu cho Chính phủ tạm dừng ký hợp đồng mới xuất khẩu gạo tới hết tháng 6/2008, sau đó mới cho xuất khẩu gạo lại, thì lúc đó giá gạo thế giới đã xuống thấp (còn khoảng 700USD/tấn vào tháng 7/2008 gây thiệt hại cho thu ngân sách nhà nước và người nông dân.
Tóm lại, những báo cáo trên đã cho thấy năm 2008 nền kinh tế nước ta đã gặp nhiều khó khăn lớn. Đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát và nhập siêu tă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22424.doc