Đề tài Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

Mở đầu 5

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ -CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 6

I. Đầu tư- Đầu tư phát triển 6

1. Khái niệm đầu tư-đầu tư phát triển 6

2. Phân loại đầu tư phát triển: 7

3. Đặc điểm của đầu tư phát triển: 9

4. Vai trò của Đầu tư phát triển 10

5. Cơ cấu đẩu tư 13

5.1 Khái niệm: 13

5.2 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư: 13

II. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 14

1. Cơ cấu kinh tế: 14

1.1 Khái niệm cơ cấu kinh tế: 14

1.2 Đặc trưng của cơ cấu kinh tế 15

1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế 16

1.4 Phân loại cơ cấu kinh tế: 17

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 18

2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 18

2.2 Sự cần thiết khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 19

2.3 Các nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 20

2.4 Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 20

III. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 21

1. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: 22

2. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế: 22

3. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: 22

4. Một số chỉ tiêu đánh giá tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 22

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TÁC ĐỘNG ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 24

I. Một số nét tổng quan về kinh tế Việt Nam 24

2. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Error! Bookmark not defined.

2.1 Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 25

2.2 Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: 34

2.3 Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế 42

4. Nguyên nhân 47

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH 52

CƠ CẤU KINH TẾ 52

I.Mục tiêu đặt ra 54

1.Mục tiêu tổng quát 54

2.Mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu: 54

II.Một số chỉ tiêu định hướng: 55

III. Định hướng phát triển kinh tế 55

1. Định hướng phát triển ngành kinh tế 55

1.1 Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn 55

1.2 Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá 56

1.3 Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ 57

2. Định hướng phát triển vùng 58

3.Định hướng phát triển các thành phần kinh tế: 59

3.1 Thành phần kinh tế nhà nước: 60

3.2 Tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát triển có hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể 61

3.3 Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân 62

3.4 Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài 62

IV. Một số giải pháp đề xuất nhằm tăng cường Đầu tư và đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 63

1. Công tác quy hoạch, kế hoạch: 63

2. Cải thiện môi trường đầu tư 64

2.1 Cơ ché chính sách và Luật pháp 64

2.2 Quản lý nhà nước 70

2.3 Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại 70

2.4 Phát triển đồng bộ các loại thị trường: 71

3. Giải pháp về nguồn nhân lực 74

4. Giải pháp về về Khoa học - Công nghệ 75

5 . Giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư 76

Danh mục tài liệu tham khảo 78

 

 

 

 

doc78 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lần mức tăng của vốn nhà nước. Khu vực ngoài quốc doanh cũng có mức tăng trưởng rất cao, gần bằng khu vực có vốn ĐTNN (15,7%). Vốn đầu tư nhà nước chỉ tăng 5,9%, do đó, tỷ trọng của khu vực này giảm nhanh hơn so với năm 2004. Do đó, Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực nhà nước chiếm 52.5%, khu vực ngoài nhà nước chiếm 32.8%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 14.7%; nếu tách riêng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thì tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 40%. Biểu đồ 2: Vốn đầu tư phát triển theo thành phần kinh tế,1997- 2005 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004-2005 Việt Nam và Thế giới. * Năm 2005 là số liệu ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tuy là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 58,1% năm 2001 xuống 52,5% năm 2005. Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Tổng vốn đầu tư nhà nước ước đạt 168 nghìn tỷ VNĐ, trong đó vốn ngân sách nhà nước là khoảng 74 nghìn tỷ VNĐ, thực hiện vốn tín dụng là 30 nghìn tỷ VNĐ, vốn của DNNN là 50 nghìn tỷ VNĐ, vốn huy động khác là 14 nghìn tỷ VNĐ. Trong năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành thành công trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế với giá trị 750 triệu USD. Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực thể hiện rõ hơn vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, theo đó vốn đầu tư cho lĩnh vực xã hội so với tổng vốn tăng từ 25,4% năm 2004 lên 27,4% năm 2005 và đầu tư cho lĩnh vực này chủ yếu là từ NSNN. Nguồn vốn đầu tư nhà nước đã có vai trò quan trọng trong cải thiện kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, và giảm đói nghèo. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh là nguồn đầu tư lớn thứ hai kể từ năm 1998. Năm 2005, vốn của khu vực ngoài quốc doanh tăng vọt và ước đạt 105 nghìn tỷ VNĐ, gần gấp đôi vốn đầu tư của khu vực FDI. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 2005, dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2004. Vốn đăng ký FDI cấp mới và tăng thêm đạt 5,89 tỷ USD, tăng 36% so với năm 2004 và là mức cao nhất kể từ năm 1997. Có 509 lượt dự án được tăng vốn trong năm, với tổng số vốn tăng thêm là gần 1,83 tỷ USD. Tổng vốn FDI thực hiện đạt khoảng 53 nghìn tỷ VNĐ, chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư xã hội. Tính chung trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới đạt 12,9 tỷ USD, vượt 7,5% mục tiêu dự kiến. Vốn FDI đăng ký bổ sung đạt 6,85 tỷ USD. Tuy nhiên, con số 19,7 tỷ USD của cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm trong giai đoạn 2001-2005 mới chỉ bằng 77,5% tổng vốn cấp mới trong giai đoạn 1996-2000. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 2001-2005 đạt 14 tỷ USD, vượt 37% so với mục tiêu dự kiến và tăng 4,5% so với giai đoạn 1996-2000. Nhìn chung, việc huy động, thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân và FDI, trong năm 2005 đã có những chuyển biến tích cực, góp phần đáng kể vào mức tăng trưởng cao của nền kinh tế. Về tổng thể, trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư xã hội gần đạt mục tiêu dự kiến. Tiết kiệm trong nước có xu hướng tăng dần và hiện tương đương 30% GDP, tạo thêm khả năng huy động vốn trong nước và ổn định các cân đối vĩ mô. Cùng với xu hướng chuyển dịch của cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế thì cơ cấu thành phần kinh tế cũng có bước chuyển dịch tích cực. Biểu đồ 3: Cơ cấu thành phần kinh tế trong GDP năm 1994, 2005 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004-2005 Việt Nam & Thế giới Do chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư xã hội nên trên thực tế tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP vẫn chiếm tỷ trọng cao. Tỷ trọng này ít biến động qua các năm. Kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế - xã hội, năm 2000 đã đóng góp khoảng 39% GDP. Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần chủ yếu diễn ra giữa khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhờ cơ chế, chính sách tạo môi trường đầu tư cởi mở, thông thoáng và ngày càng hoàn thiện hơn đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu GDP thành phần kinh tế theo xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn dưới 30%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động sang rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.; hiện khu vực này đang được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, nhưng cũng có một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đây là thành phần kinh tế quan mới được bổ sung. Sở dĩ như vậy là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm (1991-2001) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất bình quân tăng 22%/năm. Trong 5 năm (1996-2000) vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 10 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GĐP. Từ thực tiễn đó, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện thuận lợi để thành phần kinh tế này phát triển, hướng mạnh vào khâu xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm. cải thiện môi trường kinh doanh và pháp lý để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã tăng từ 13,3% năm 2000 lên 15,9% năm 2005. FDI đã bổ sung một lượng vốn quan trọng cho tổng vốn đầu tư xã hội. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn giữu đầu tàu cho tăng trưởng. Tỷ lệ đóng góp cho GDP tăng đần qua các năm. Kinh tế Tập thể sau thời kỳ dài bị suy giảm, bước đầu được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã mới, có tác dụng tích cực. Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm 2001 nền kinh tế nước ta có 24.387 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân không những đóng góp và huy động ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư sả xuất mà còn qua đó giữ vai trò trong việc tạo thêm công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân lao động Kinh tế cá thể trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và đầu tư nước ngoài là một bộ phận không tách rời trong sự nghiệp phát triển kinh tế Việt Nam, những năm qua đã có bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế Tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước đang phát triển trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; đóng góp khoảng 3,9% GDP năm 2000. Như vậy, một trong những thành tựu nổi bật nhất của đổi mới là nền kinh tế đã chuyển từ chỗ dựa trên hai loại hình chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế cũng còn những hạn chế và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết: Việc chuyển sang thể chế kinh tế thị trường chậm, thiếu liên tục, nhất quán và thiếu đồng bộ. Môi trường đầu tư, kinh doanh chậm được cải thiện, làm cho các thành phần kinh tế còn e ngại, dè dặt, chưa mạnh dạn đưa vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế chỉ dừng lại ở những Chỉ thị, Nghị quyết, chưa thực sự đi vào cuộc sống, còn có nhiều phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực Nhà nước làm cho các thành phần kinh tế chưa phát huy mạnh nội lực, chưa thật sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài. Việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển còn chậm, hiệu quả thấp. Các chính sách vĩ mô một mặt chưa triển khai đồng bộ, mặt khác chưa đủ sức hấp dẫn để các tầng lớp dân cư bỏ vốn vào đầu tư phát triển. Khu vực kinh tế Nhà nước: Chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, chưa thể hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quốc dân, số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ còn quá lớn, đó là điều đáng lo ngại. Các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho khu vực kinh tế Nhà nước, thực chất là "tái bao cấp", làm cho khả năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng động kém; Tiến độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ về cơ chế huy động vốn và phát huy động lực trong công cuộc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực kinh tế tập thể chậm được củng cố và phát triển. Kinh tế tập thể về số lượng gần đây tăng lên, nhưng tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu chủ yếu còn thấp và giảm. Kinh tế tư nhân đăng ký nhiều về số lượng, nhưng thực tế đưa vào hoạt động còn ít; quy mô còn nhỏ bé nên tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu cũng còn thấp; ngay cả về số lượng thì mật độ doanh nghiệp vẫn còn ít (bình quân 800 người dân mới có 1 doanh nghiệp) nên mục tiêu 500 nghìn doanh nghiệp vào năm 2010 cũng không dễ dàng nếu không có chính sách, giải pháp triệt để hơn nữa. Vốn đầu tư khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng chậm so với tiềm năng và nhu cầu. Chênh lệch giữa vốn đăng ký với vốn thực hiện lớn. Tỷ lệ dự án bị đổ bể, giải thể trước thời hạn khá cao và Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý theo ngành, lãnh thổ. 3. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ kinh tế Đơn vị tính: % 1996-2000 2001-2004 Trung du và miền núi phía Bắc 7 7.1 Đồng bằng Bắc bộ 28.3 27.7 Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 16.4 17.4 Tây Nguyên 4.1 4 Đông Nam Bộ 31.3 30.6 Đồng bằng sông Cửu Long 12.9 13.2 Nguồn: PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế Đầu tư, NXB Kinh tế Quốc Dân, 2007 Qua bảng, ta thấy vốn đầu tư xã hội được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế lớn là vùng đồng bằng Bắc bộ và vùng Đông Nam Bộ. Hai vùng này có tỷ trọng vốn đầu tư chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hai vùng có tỷ trọng vốn đầu tư nhỏ nhất là vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Thời kỳ 1996-2000, vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước chiếm 53,5% vốn đầu tư phát triển, các tỉnh miền núi phía Bắc chiếm 7,6%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 14%8. Các tỷ lệ này tương ứng với năm 2001 là 52,75%; 7,79%; 14,9% và năm 2002 là 51,74%; 8,02%; 15,13%. Biểu đồ 4: Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ giai đoạn 1996-2000 và 2001-2004 Nguồn: PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh Tế đầu tư Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế Việt Nam đã hinh thành nên các vùng kinh tế trọng điểm giữa vai trò đầu tàu của nền kinh tế cả nước. Đó là những vùng có lợi thế về cơ sở hạ tầng phát triển, nguồn lao động tập trung và có trình độ cao như vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bảng 4: Cơ cấu kinh tế các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp vào phát triển kinh tế chung của đất nước:  Cơ cấu GDP của 3 vùng KTTĐ so với cả nước (%) 1995 1999 Vùng KT trọng điểm phía Bắc 14,10 13,8 Vùng KT trọng điểm miền Trung 4,10 4,2 Vùng KT trọng điểm phía Nam 30,6 31,1 Tổng 3 vùng 48,8 49,1 Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu tư Cơ cấu vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của vùng lãnh thổ, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm đang được xây dựng và hinh thành theo hướng phát huy thế mạnh của từng vùng. Đến năm 2000, các tỉnh vùng núi phía Bắc đóng góp khoảng 9% GDP của cả nước; vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 19%. Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung khoảng 15%; vùng Tây Nguyên 3%; vùng Đông Nam Bộ khoảng 35% và đồng bằng sông Cửu long khoảng 19%. Ba vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nước; 75-80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65% giá trị khu vực dịch vụ. Các vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm này cũng đảm bảo khối lượng vận chuyển và luân chuyển trên 50% toàn quốc, có tốc độ tăng trưởng vận tải 1996-2000 trên 9%. Nhịp độ tăng trưởng các vùng kinh tế trọng điểm đều cao hơn mức trung bình cả nước, bước đầu có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung. Trong năm 2005 có 41/64 tỉnh thành thu hút được vốn FDI, trong đó năm tỉnh thành dẫn đầu chiếm 70% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước theo thứ tự là: Hà Nội (31,2%), Bà Rịa-Vũng Tàu (17,8%), Đồng Nai (10,7%), thành phố Hồ Chí Minh (10,2%), và Bình Dương (8,6%). Đây là lần đầu tiên, Hà Nội vươn lên thứ nhất trong thu hút FDI. Phần lớn dự án FDI tập trung ở các vùng phát triển kinh tế trọng điểm (84% tổng vốn đầu tư), tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng khác ngoài vùng phát triển. Nếu trong những năm đầu khi có Luật Đầu tư nước ngoài, ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25% số dự án với 20% vốn đầu tư, thì đến hết năm 1998 các tỉnh phía Bắc đã thu hút được trên 30% số dự án trên 35% vốn đầu tư. Đến nay đã có 59 trong tổng số 61 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã có dự án đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế ngành của các vùng đã có sự thay đổi mạnh, ngay cả trong điều kiện cả nước chịu tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế. Trên thực tế, chỉ có vùng Đông Nam bộ về hình thức của cơ ngành đã tương ứng với nền kinh tế của nước công nghiệp, tuy chất lượng của chuyển cơ cấu chưa cao, nhất là các ngành dịch vụ cao cấp còn chậm phát triển (năm 2000, nông nghiệp chiếm 6,6 GDP; công nghiệp chiếm tới 56,7%GDP và dịch vụ mới đạt 36,7% GDP). Tuy nhiên, công nghiệp phát triển còn dựa nhiều vào công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến với công nghệ cao còn chưa phát triển nhiều, làm ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh dài hạn của vùng.  Vùng còn khó khăn cũng có những tiến bộ đáng khích lệ, mức sống của bộ phận đáng kể nhân dân được nâng lên. Các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ đã có tác động tích cực, theo con số tổng hợp sơ bộ, từ năm 1992 đến 1998 tổng vốn Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho nhiệm vụ phát triển miền Núi ước vào khoảng 3000 - 3200 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư cho các chương trình quốc gia khoảng trên 2000 tỷ đồng và đầu tư cho định canh định cư khoảng trên 500 tỷ đồng (cả thời kỳ 1986-1997 khoảng trên 800 tỷ đồng). Nhiều mặt kinh tế - xã hội của miền Núi đã có sự chuyển biến tốt. Dân trí của một bộ phận nhân dân được nâng lên, khai hoang được khoảng 200 nghìn ha, trong đó đưa vào sử dụng để trồng cây lâu năm khoảng 70 - 80%, diện tích rừng được khoanh nuôi khoảng 3 triệu ha, trồng mới được khoảng 65-70 vạn ha, hình thành nhiều điểm dân cư mới. Hầu hết các xã miền núi đã có cơ sở y tế và trường học (tuy nhiên nhà tạm còn nhiều). Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy mạnh lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng; chưa tạo được động lực thúc đẩy mạnh mẽ các thành phần kinh tế phát triển. 4. Nguyên nhân Công tác quy hoạch vẫn còn nhiều yếu kém. Chất lượng quy hoạch bị hạn chế, có phần mang nặng tính chủ quan duy ý chí; chưa chú trọng tính cân đối, đồng bộ, hiện thực, chưa thực sự chú trọng đến nhu cầu thị trường và hiệu quả nên tác dụng của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực chưa tốt, thậm chí gây lãng phí lớn. - Tính pháp lý của quy hoạch còn lỏng lẻo, chưa thực hiện thống nhất ở các ngành, các cấp và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương trong cùng một vùng. - Khả năng dự báo, đánh giá các nguồn tiềm năng của từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm còn hạn chế, đã làm tăng thêm sự lúng túng trong việc xác định cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản phẩm. - Chưa chú trọng đến các cơ chế, chính sách và biện pháp nhằm phát huy tiềm năng của từng vùng, từng ngành gắn kết giữa sản xuất và thị trường tiêu thụ. Các nguồn lực của nhà nước dành cho đầu tư phát triển nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn hạn chế. Vốn ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng nhưng còn quá ít (chỉ chiếm khoảng 5-6% GDP) mà việc sử dụng lại thường kém hiệu quả. Các nguồn vốn khác tập trung cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế chư nhiều, nhà nước lại chưa có cơ chế, chính sách hấp dẫn để tạo lập và thu hút cốn cũng như khai thác lợi thế của từng ngành, vùng để tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả. Môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế. - Hệ thống luật pháp, chính sách liên tục được sửa đổi bổ sung, hoàn thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi. - Cơ sở hạ tầng thiếu và yếu dẫn đến chi phí đầu vào cao, chi phí sản xuất còn cao; sản xuất và cung ứng điện chưa đáp yêu cầu phát triển; Chi phí kinh doanh cao. Chi phí kinh doanh cao cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi các nước đang cố gắng giảm thiểu chi phí kinh doanh nhằm hấp dẫn đầu tư thì ở Việt nam, chi phí kinh doanh trong một số ngành còn rất cao. Các nhà đầu tư thường so sánh chi phí kinh doanh ở Việt nam với các quốc gia khác. Bên cạnh đó, năm 2004 giá cước điện thoại quốc tế của Việt nam đã giảm 30- 40% nhưng vẫn thuộc loại cao trong khu vực và so với thu nhập của dân cư. Ngoài ra chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh ở Việt nam còn kém. 90% khách hàng cùa dịch vụ viễn thông bị gián đoạn liên lạc dưới 3 lần trong vòng 3 tháng gần nhất. Việt nam thường bị thiếu điện theo mùa (tháng 5) , thiếu khoảng 10% nhu cầu. - Cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính phủ Việt nam đã liên tục cải thiện các thủ tục hành chính để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên nhiều thủ tục vẫn rất rườm rà và phức tạp, nhất là các thủ tục đất đai, đăng kí kinh doanh... gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn thủ tục thẩm định, cấp giấy phép đầu tư kéo dài làm nhiều dự án bị chậm trễ do phải thống nhất ý kiến giữa các Bộ, ngành. Một số thủ tục liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng đã gây “sốc” cho các nhà đầu tư. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới, thời gian hoàn tất các thủ tục pháp lí kinh doanh tại Việt nam thường kéo dài tới 230 ngày. Đã có doanh nghiệp hoàn tất thủ tục thuê đất với 40 con dấu và chữ kí. Thậm chí một doanh nghiệp phải mất từ 2-3 năm, thậm chí lâu hơn để tìm mặt bằng kinh doanh đã trở thành chuyện thường gặp. Theo báo cáo về môi trường kinh doanh toàn cầu vừa được công bố (2006), để hoàn thành một thủ tục đăng kí kinh doanh ở Việt nam cần gần 50 ngày, trải qua 3 thủ tục và 6 thủ tục phát sinh đi kèm khác, với chi phí bằng 50% thu nhập bình quân đầu người, trong khi đó ở Canada, để thành lập một doanh nghiệp chỉ mất 3 ngày qua 2 thủ tục với chi phí bằng 0,9% thu nhập bình quân đầu người một năm, còn ở Úc, chỉ mất 2 ngày / 2 thủ tục và 1,9% thu nhập bình quân đầu người. - Quản lý nhà nước chưa đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tuy có được những kết quả bước đầu nhưng vẫn còn nghiêm trọng.. Hiệu quả đầu tư còn kém Năm 1995, vốn đầu tư phát triển so với GDP chỉ có 31,7%, nhưng cho GDP tăng 9,54%, tức là để GDP tăng 1% thì tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP mới chỉ cần 3,3% (hay suất đầu tư là 3,3 lần); còn vào năm 2003, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP lên tới 36,3%, nhưng GDP chỉ tăng 7,26%, thì suất đầu tư đã lên đến 5 lần, tức là hiệu quả đầu tư đã giảm tới 34%, hay giảm hơn 1/3. Theo tính toán của các tổ chức quốc tế, nếu suất đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh chỉ có 3,7 lần thì của khu vực kinh tế nhà nước lên đến trên 7 lần, tức là cao gần gấp đôi khu vực ngoài quốc doanh, hay hiệu quả đầu tư chưa bằng một nửa. Tổng vốn đầu tư nhà nước có một tỷ lệ khá lớn là vốn đi vay trong nước (thông qua phát hành trái phiếu, công trái...) và vay nước ngoài (thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, vay nước ngoài cân đối ngân sách, cho vay lại...); mặt khác khu vực nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi từ vị trí, đất đai, xóa nợ, khoanh, hoãn nợ, lãi suất cho vay... Cần nhớ rằng, suất đầu tư của các nước trong khu vực chỉ trên dưới 3 lần. Với hiệu quả đầu tư như thế này thì không chỉ lãng phí, thất thoát... cho bản thân các công trình mà còn làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng, khấu hao lớn, gánh nặng nợ nần tăng lên... - Công nghiệp phụ trợ chưa có tiến bộ rõ nét - Công tác xúc tiến đầu tư đã có nhiều cố gắng nhưng chưa thực sự hiệu quả. Trình độ kĩ thuật công nghệ còn lạc hậu so với một số nước trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị lạc hậu , lỗi thời còn rất phổ biến trong các doanh nghiệp của Việt nam. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp của Bộ Khoa học và Công nghệ, nhìn chung thiết bị sản xuất của các doanh nghiệp lạc hậu 30- 40 năm so với các nước trong khu vực. Thời hạn khấu hao trung bình tài sản cố định là từ 10- 12 năm, trong khi ở các nước trong khu vực chỉ từ 6- 7 năm. Đặc biệt là các ngành dệt may và ngành giầy dép, thiết bị lạc hậu thiếu đồng bộ, phần lớn thiết bị thuộc loại trung bình của thế giới. Chất lượng nguồn nhân lực thấp. Với lực lượng lao động khoảng 44 triệu người (năm 2005) , tỷ lệ biết chữ cao so với các nước trong khu vực (xấp xỉ 90%) nhưng chỉ có khoảng 12% lực lượng lao động được qua đào tạo. Do vậy nhiều lao động làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, kĩ thuật. Hầu hết các lao động của Việt nam trong các doanh nghiệp chủ yếu là lao động giản đơn, thiếu kĩ năng và trình độ chuyên môn, đặc biệt là thiếu lao động kĩ thuật có tay nghề cao. Nhiều dự án khi đầu tư vào Việt nam đã phải đào tạo lại người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu công việc. Năm 2004 trình độ lao động trong các khu công nghiệp bao gồm : 4,5% số lao động có trình độ đại học; 4,5% có trình độ kĩ thuật viên; 31% có trình độ đã qua đào tạo; 60% có trình độ lao động giản đơn. Nhiều trường dạy nghề của Việt nam chưa đảm bảo chất lượng, học sinh, sinh viên thiếu điều kiện tiếp xúc với thực hành công nghệ mới và công nghệ cao. Hơn nửa số trường đào tạo nghề cũng không nhiều, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu về cung ứng lao động cả về chất lượng cũng như số lượng. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen nhau. Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực, nhất là ASEAN ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6014.doc
Tài liệu liên quan