Đề tài Tác động của rào cản cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 2

1. Nănglực cạnh tranh Quốc Gia 2

2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3

3. Tình hình chung 5

II. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG RÀO CẢN CHỦ YẾU TRONG CẠNH TRANH 6

1. Những rào cản thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp 6

1.1. Rào cản pháp lý 6

1.2. Rào cản văn hoá - xã hội 9

1.3. Rào cản khoa học - công nghệ 11

1.4. Rào cản kinh tế 13

2. Những rào cản thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp 15

III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ XỬ LÝ CÁC RÀO CẢN 20

1. Một số ý kiến để xử lý các rào cản 20

1.1. Đối với nhà nước 20

1.2. Đối với các doanh nghiệp 22

KẾT LUẬN 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

 

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của rào cản cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập Quốc tế . Trong khi đó hoạt động “ngầm” vẫn ở quy mô lớn, xu hướng cấu kết và buôn lậu gia tăng tác động tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Điều này cho thấy chúng ta còn thiếu nhiều công cụ pháp lý, chế tài cần thiết trước những hành vi cạnh tranh không hợp pháp và độc quyền. Một trong những công cụ đó là luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, nhưng chưa được thông qua. Thủ tục hành chính nhà nước vẫn là một trong những cản trở làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp. Đối với việc đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh cá thể và hợp tác xã mặc dù luật đã quy định cụ thể, song trên thực tế chưa có quận huyện nào thành lập phòng đăng ký kinh doanh, việc đăng ký kinh doanh thường giao cho một cán bộ đảm nhận gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Hoặc như doanh nghiệp muốn xây dựng nhà xưởng thì phải có đủ 19 chữ ký của các cơ quan có thẩm quyền thì mới có thể đựoc phép xây dựng . Với một thủ tục hành chính rườm rà như vậy nhiều khi đã làm mất đi cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Những bất cập về thuế, về thủ tục hải quan đối với các doanh nghiệp cũng đang được coi là điểm nóng. Trong hệ thống thuế hiện tại các mức thuế suất vẫn còn quá nhiều, phức tạp làm cho việc áp dụng rất khó thực hiện. Trước hết đó là luật thuế VAT với bốn mức thuế suất khác nhau, bên cạnh đó còn có những thay đổi về thuế suất tuỳ thuộc vào đối tượng khách hàng, có nghĩa là những loại hàng hoá và dịch vụ chịu thuế sẽ được miễn giảm VAT nếu được cung cấp cho một loại khách hàng nhất định . Với một hệ thống thuế suất gồm nhiều tầng lớp như vậy thì cách hiểu và tính biểu thuế khác nhau giữa đối tượng đóng thuế và cơ quan thuế là điều không thể tránh khỏi . Đồng thời nhiều khi các nhà sản xuất và các nhà cung cấp dịch vụ không rõ hàng hoá của mình và dịch vụ của mình phải chịu thuế suất là bao nhiêu, hay không phải chịu thuế .Trong dự thảo sửa đổi luật thuế VAT lần này đã giảm số lượng thuế suất xuống còn ba loại nhưng vẫn còn phức tạp ,còn có quá nhiều điểm chưa rõ ràng trong các luật thuế và văn bản dưới luật gây nhiều tranh cãi giữa các DN và cơ quan thuế . Trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như trong luật thuế VAT những quy định về các loại chi phí được coi là hợp lý hợp lệ để tính toán thu nhập doanh nghiệp hoặc tính để khấu trừ giá trị gia tăng hiện nay cũng như trong quy định của dự thảo sửa đổi luật thuế vẫn còn tình trạng đơn giản hoá không tính đến thực tiễn kinh doanh Quốc tế gây thắc mắc cho DN. Thiếu một cơ chế kiểm tra, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có hiệu quả : Trong quy định hiện hành cũng như trong dự thảo sửa đổi các luật thuế vẫn chưa có quy định rõ cơ chế thanh tra kiểm tra nhằm hạn chế tình trạng thanh tra tuỳ tiện gây phiền nhiễu cho DN. Đến năm 2004 luật cạnh tranh - đạo luật cạnh tranh đầu tiên về lĩnh vực này mới được Quốc hội thông qua, do đó trên thị trường những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh vẫn diễn ra như : sự đàm phán để thoả thuận, cấu kết, lợi dụng vị thế để “ phân chia” thị trường,khống chế giá cả, quảng cáo tiếp thị thiếu trung thực, sản xuất hàng giả, vi phạm bản quyền hệ quả của vấn đề này là làm giảm uy tín, giảm sức cạnh tranh của các DNVN. Hầu hết chi phí đầu vào của một số yếu tố sản xuất - dịch vụ là cao so với các nước trong khu vực . Thực hiện nghị quyết 05/2002/NQ-CP của Chính Phủ về đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác xuất nhập khẩu và chỉ thị 08/2003/CT- TTg ngày 4/4/2003 của thủ tướng Chính Phủ về nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DN. Đến nay bộ Tài chính đã thực hiện rà soát và xác định được 140 khoản phí và lệ phí ở cấp trung ương đã ban hành phải bãi bỏ, ở cấp địa phương tính đến tháng 10/2003 đã có 48 tỉnh thành thực hiện rà soát và bãi bỏ 203 khoản phí, lệ phí . Việc thực hiện pháp lệnh phí và lệ phí đã được xã hội đồng tình . Các DN không những giảm được chi ohí trung gian mà còn rút ngắn được thời gian, giảm thiểu được các thủ tục hành chính rườm rà, phiền hà không đáng có . Theo số liệu khảo sát thống kê việc bãi bỏ các khoản phí, lệ phí ở cả cấp trung ương và địa phương đã làm giảm chi phí đầu vào cho DN mỗi năm khoảng 150 tỷ đồng . Lĩnh vực thu phí cầu đường bộ đã giảm từ 35 khoản thu khác nhau xuống còn 7 khoản thu thống nhất, bình quân các mức thu phí giảm 20% so với trước khi thực hiện pháp lệnh phí, lệ phí . Đối với các DN mỗi tháng giảm được 20 tỷ đồng tiền phí cầu đường, đường bộ. Tuy việc thực hiện pháp lệnh phí, lệ phí đã làm giảm chi phí đầu vào của DN nhưng so với các nước trong khu vực chi phí đầu vào của các DNVN vẫn còn ở mức cao .Chi phí trung gian trong công nghiệp chiếm tới 60% trong đó 80% là chi phí vật chất , những con số tương ứng trong nông nghiệp là 40% và 70%. Chi phí phục vụ sản xuất - kinh doanh cũng pử mức cao như giá điện của Việt Nam từ 0.07 - 0.11 USD/kwh trong khi giá điện trung bình của các nước trong ASEAN nàm trong khoảng từ 0.025 - 0.05 USD/kwh. 1.2 Rào cản văn hoá - xã hội : Các doanh nghiệp đều quan tâm đến nhóm yếu tố văn hoá xã hội (như phong tục tập quán , tôn giáo , ngôn ngữ, trình độ phát triển văn hoá, khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ phát triển dân số, chỉ số phát triển con người …) -Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị với nông thôn ngày càng gia tăng một cách đáng lo ngại ( vì dân số sống ở nông thôn chiếm đến 75% dân số cả nước) thu nhập bình quân người/tháng (giá trị thực tế ) thấp, ở thành thị khoảng 600.000 đ/người/tháng, ở nông thôn khoảng 200.000 đ/người/tháng . -So với các nước trong khu vực thì chỉ số phát triển con người của Việt Nam tính đến năm 2001 vẫn ở mức thấp, chỉ số HDI của Việt Nam xếp thứ 109/175 nước, chỉ số nghèo khổ xếp thứ 47/85 nước, chỉ số GDP xếp thứ 130/175 nước , đây là một trong những cản trở đến trình độ văn hoá và chất lượng nguồn nhân lực . Bảng 4 : Một số chỉ số của Việt Nam Quốc gia Chỉ số tuổi thọ Chỉ số giáo dục Chỉ số GDP HDI Xếp hạng GDP Xếp hạng HDI Malaixia Thái Lan Philippin Trung Quốc Việt Nam Inđonêxia Lào 0.8 0.73 0.74 0.76 0,73 0.69 0.16 0.83 0.88 0.9 0.79 0.83 0.8 0.63 0.75 0.69 0.61 0.62 0.51 0.56 0.46 0.79 0.768 0.751 0.72 0.688 0.682 0.525 56 72 19 102 130 114 145 58 74 85 104 109 112 135 + Trong năm 2001 - 2005 bình quân mỗi năm nước ta có 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động trong khi chỉ có 0,36 triệu người ra khỏi tuổi lao động. Trên phạm vi toàn quốc cơ cấu dân số biến đổi tạo cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế, lực lượng lao động dồi dào vừa là tiềm năng nhưng cũng là thách thức đối với nước ta trong vấn đề giải quyết việc làm . Hiện tại sức ép về quy mô dân số lên diện tích đất đai làm cho lao động nông thôn tiếp tục dư thừa, trong khi đó trình độ phát triển công nghiệp còn thấp không đủ sức thu hút lao động tham gia mạnh vào sản xuất công nghiệp và xây dựng . Lực lượng lao động tiếp tục tăng và dư thừa nhưng lại yếu về thể lực, trình độ tay nghề và còn thiếu nhiều tố chất cần thiết trong quá trình cạnh tranh trong thị trường và hội nhập phát triển kinh tế . + Các số liệu thống kê gián tiếp cho thấy hiện tại cứ 3,2 trẻ em dưới 5 tuổi thì có một cháu suy dinh dưỡng, cứ 3 bà mẹ mang thai thì một người bị thiếu máu . Tình trạng nhiễm HIV/ADIS trong thanh thiếu niên tiếp tục tăng và có xu hướng lây lan mạnh trong cộng đồng . Trong số những người nhiễm HIV/ADIS hiện có 74.45% ở độ tuổi 20- 39 độ tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế và năng suất lao động cao nhất . 1.3Rào cản khoa học - công nghệ : Công nghệ là yếu tố cốt lõi đảm bảo cạnh tranh hiệu quả trên thị trường . Tuy nhiên kinh phí đầu tư cho công tác này từ phía nhà nước còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu . Bảng 5 cho thấy vốn đầu tư phát triển cho hoạt động khoa học và công nghệ thấp, chiếm khoảng 0,5% giá trị tổng sản phẩm trong nước ( hoặc dưới 2% tổng ngân sách nhà nước ) tỷ lệ này thấp so với nhu cầu thực tế và so với bình quân của các nước trong khu vực . Bảng 5 : Năm GDP theo giá so sánh 1994(tỷ đồng) Vốn đầu tư phát triển cho khoa học và công nghệ (tỷ đồng) Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ so với GDP(%) 1999 2000 2001 2002 256272 273666 292376 312959 1221,2 1433,3 1518,6 1670,5 0.48 0.52 0.52 0.53 -Hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin(CNTT) Trong những năm qua là kém do các nguyên nhân : + Nhà nước chưa mặn mà tuyển lao động CNTT . Về môi trường hoạt động của sinh viên tốt nghiệp (SVTN) ngành CNTT báo cáo cho các tỷ lệ : cơ quan nhà nước 45,29% ND tư nhân 32,73% còn lại thuộc các thành phần kinh tế khác . So với 14 ngành đào tạo, tỷ lệ SVTT ngành CNTT đươc thu nhận vào cơ quan nhà nước là thấp nhất ( các ngành khác : giao thông91,67%, xây dựng 78,01%, du lịch 76,65% …). Có một thực tế là 61 tỉnh thành và 20 bộ, 17 cơ quan thuộc chính phủ khi lập dự án triển khai chương trình 112( chương trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước ) đều ghi rõ sự thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực CNTT . Họ đều lập tiểu dự án đào tạo nhân lực CNTT riêng cho ngành, địa phương mình nhưng lại không tuyển dung nhiều hơn số 45,29% SVTN ngành CNTT. -Môi trường ứng dụng CNTT chưa tốt : Nó thể hiện ở trình độ quản lý của lãnh đạo các cấp không cao . Do trình độ hạn chế nhiều cán bộ lãnh đạo ngại ứng dụng CNTT . Các cấp lãnh đạo nhận thức chưa đúng mức vai trò của CNTT trong việc nâng cao năng sất lao động và chất lượng sản phẩm . Tuy nói CNTT là quan trọng nhưng phần lớn lãnh đạo các tổ chức đều không giành đủ thời gian không giành đủ tiền bạc cho CNTT, không trực tiếp chỉ đạo hay tham gia ý kiến. Cán bộ phụ trách CNTT tại các đơn vị hầu như không được trao quyền hạn gì đáng kể. Họ không được tham gia vào định hướng chiến lược ứng dụng CNTT, không được tham gia vào tái cấu trúc các quy trình nghiệp vụ. Các tổ chức và các DNVN chưa cảm thấy nguy cơ mất năng lực cạnh tranh khi Việt Nam tham gia vào các khối kinh tế thương mại khu vực và thế giới. -Các đề cương dự án CNTT chất lượng kém nhưng vẫn được triển khai. Rất ít dự án ứng dụng CNTT bắt đầu bằng những đánh giá chính xác nhu cầu thực tế . Thiếu việc xác định và đánh giá nhu cầu một cách nghiêm túc sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nhu cầu cấp thiết hơn không được đấp ứng, trong khi những nhu cầu không quan trọng và tốn kém lại được phục vụ . Hầu hết các dự án có mục tiêu chung chung, các sản phẩm của dự án không được mô tả đầy đủ mặc dù tiền, nhân lực, thời gian phải bỏ ra là cụ thể và kết quả của dự án lại rất chung chung dẫn đến hiệu quả đầu tư kém. Rất ít dự án có hệ thống chỉ tiêu đánh giá định lượng chính vì vậy khi dự án kết thúc cũng khó có câu trả lời rằng dự án có mang hiệu quả đầu tư hay không và nếu có thì hiệu là bao nhiêu . Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực có trình độ trong DN đến chi phí đầu vào của DN. -Nhân lực CNTT của ta quá mỏng kém xa cả Philippin, Inđônêxia, Thái Lan… Một thực tế là số lượng hồ sơ dang ký tuyển sinh ngành CNTT vào các trường đại học, cao đẳng năm 2002 so với năm 2001 giảm nhiều . Bên cạnh đó khi tốt nghiệp ra trường cũng ít được làm công việc đúng ngành học của mình. Theo một số chuyên gia : khoảng 50% kỹ sư hoặc cử nhân CNTT ra trường đi vào các ngành không CNTT để làm các ứng dụng CNTT, 5% được bổ sung làm công tác giảng dạy , nghiên cứu chỉ có khoảng 20 - 25% tham gia vào các đơn vị sản xuất kinh doanh CNTT, số còn lại làm các việc hoàn toàn không CNTT hoặc không có việc làm . 1.4Rào cản kinh tế : -Mặc dù có tốc độ tăng trưởng GDP cao, nhưng hiệu quả tổng hợp giữa đầu tư và tăng trưởng biểu hiện bằng hệ số ICOR (Investment Capital Output Rate) được đo bằng tỷ lệ giữa vốn đầu tư phát triển với tốc độ tăng GDP trong giai đoạn 2000 - 2002 là chưa thoả đáng. Xem bảng 6 Bảng 6 Năm Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển trong GDP(%) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) Hệ số ICOR 1995 1998 1999 2000 2001 2002 33 37 39 40 42 44 9.54 5.76 4.77 6.79 6.84 7.04 3.5 6.4 8.2 5.9 6.0 6.3 Nguyên nhân chính là do tình trạng lựa chọn cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tình trạng thất thoát và lãng phí còn phổ biến, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án, làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng bền vững của nền kinh tế và của các DN. Riêng về vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn đầu tư phát triển bị giảm do hiệu quả đầu tư còn thấp : đầu tư vào những dự án cần nhiều vốn nhưng cần ít lao động, đầu tư phân tán, dàn trải do bị co kéo - hậu quả của cơ chế xin - cho . Việc giải phóng măt bằng kéo dài tốn kém nay lại do giá đất tăng vọt làm cho nhiều công trình dở dang. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư khá lớn nhất là nguồn ngân sách nhà nước và ngay cả nguồn vốn ODA. Từ năm 1995 trở lại đây cơ cấu đầu tư toàn xã hội có xu hướng dựa nhiều hơn vào nguồn lực trong nước, chủ yếu từ nguồn đầu tư nhà nước ( vốn nhà nước tăng từ 42% năm 1995,lên 58.1% năm 2000 trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội ). Trong khi đó tỷ trọng nguồn vốn tư nhân và dân cư giảm liên tục (từ 49% năm 1990 trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội xuống 27.6% năm 1995, năm 2000 chỉ còn 23,6%) đó là một điều bất hợp lý vì trong thực tế đây là nguồn vốn có hiệu quả kinh tế cao nhất và là nguồn nội lực quan trọng của đất nước . Hiệu quả đầu tư không cao còn do sự phân bổ nguồn vốn đầu tư không hợp lý giữa các ngành : đầu tư cho nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng nhỏ và không ổn định, ttrong khi đâylà ngành có hệ số ICOR thấp nhất và sử dụng nhiều lao động nhất . Một nguyên nhân quan trọng khác đó là do khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm . Cơ cấu kinh tế của nước ta tuy chuyển dịch theo hướng tiến bộ và tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất nói chung và của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản nói riêng . Trong chiến lược đổi mới cơ cấu ngành chúng ta không coi nhẹ khu vực dịch vụ nhưng chưa tập trung đầu tư thích đáng trí lực, vật lực, tài lực cho những ngành dịch vụ có khả năng tạo ra bước đột phá nên tốc độ tăng của khu vực này thường thấp hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế(năm 2001 tổng sản phâmt trong nước tăng 6,89% nhưng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ chỉ tăng 6,1% chỉ tiêu tương ứng của năm 2002 là 7,04%) Chi phí đầu vào quá cao là một trong những yếu tố làm giảm lợi nhuận của DN, có đến 37,4% ý kiến cho rằng cơ sở hạ tầng quốc gia chưa đáp ứng nhu cầu cho sự phát triển của DN và có đến 54,2% ý kiến cho rằng lãi suất ngân hàng quá cao trong khi đó việc huy động ở thị trường vốn cũng khó khăn. Thực tế lãi suất ngân hàng đã trở thành một khoản chi phí lớn của DN làm cho lợi nhuận còn lại ít, tốc độ tích luỹ không đáp ứng được nhu cầu phòng chống rủi ro. 2.Những rào cản thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp : -Quy mô hoạt động của DN nhỏ : Kết quả điều tra cho thấy đa số các DN có quy mô hoạt động nhỏ, có khoảng 30% số DN được điều tra có doanh thu hàng năm ở mức dưới 10 tỷ đồng, 30% ở mức từ 10 - 15 tỷ đồng và 30% ở mức từ 50 - 200 tỷ đồng, chỉ có khoảng 10% DN có doanh thu lớn hơn 200 tỷ đồng/năm. -Vấn đề tài chính của DN : Vấn đề tài chính luôn là một trong những trở ngại chính của DNVN hiện nay . Có đến 67,3% ý kiến cho rằng họ rất thiếu vốn lưu động trong khi cơ cấu nguồn vốn không hiệu quả, các quy định về thủ tục vay vốn rất phức tạp . Lãi suất vay quá cao cũng dẫn đến hiệu quả kinh doanh của đa số các DN là thấp Theo ngân hàng nhà nước (NHNN), mặc dù NHNN đã tạo tín hiệu giảm lãi suất(LS) thị trường và đã cung ứng một lượng tiền tương đối lớn (khoảng 9000 tỷ đồng trong 6 tháng đầu 2003) nhưng LS huy động và cho vay đồng Việt Nam (VND) của các tổ chức tín dụng đều tăng : LS huy động vốn tăng khoảng 0,02% - 0,06%/tháng; LS cho vay tăng khoảng 0,02% - 0,04%/tháng. Hiện LS huy động vốn nội tệ - VND kỳ hạn 1 năm của các ngân hàng thương mại phổ biến ở mức 8% - 8,4%/năm,so với mức lạm phát chỉ co 3% - 3,5%, làm cho LS thực của lợi tức gửi ngân hàng lên tới 4% - 4,5%/năm.Đây là mức LS thực cao nhất trong 10 năm qua và quá cao so với mức kỳ vọng trong điều hành vĩ mô là 2% - 3%/năm.LS huy động và cho vay hiện nay đã ở mức khá cao so với mức lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này có thể làm cho các DN chần chừ không dám vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. -Trình độ quản lý của các DN chưa đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh hiện nay. Việc sử dụng nguồn lực có hiệu quả hay không phụ thuộc vào phương thức tổ chức quản lý. Có rất nhiều ý kiến cho rằng họ gặp khó khăn trong việc định hướng chiến lược kinh doanh và công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Các DNVN chưa xác định được chất lượng kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế và tập trung phát triển kinh doanh dài hạn tại các thị trường trọng điểm. Một tâm lý phổ biến la DN rất tự ty và cái gì cũng muốn “ăn chắc”. Họ thường nghĩ không biết có làm ăn được ở thị trường đó hay không mà lại bỏ ra một khoản tiền để đăng ký thương hiệu. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản của các DNVN khi có hàng hoá có tính chất cạnh tranh đưa vào thị trường nước ngoài đã bị lấy mất thương hiệu. Trong xu thế hội nhập đòi hỏi DN phải có cách nhìn mới, cách làm ăn có tầm nhìn xa trông rộng, như vậy nếu các DN muốn làm ăn lớn, muốn có thị trường xuất khẩu thì đăng ký thương hiệu phải đi trước một bước trong chiến lược kinh doanh. Do tình hình thực tế như vậy số nhãn hiệu hàng hoá được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho người Việt Nam chỉ có 43% vẫn thấp hơn so với cấp cho người nước ngoài là 57%. Bảng 7 : Tổng số nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký : Năm Số nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký Người Việt Nam Người nước ngoài Tổng số 1999 2000 2001 1299 1423 2085 2499 1453 1554 3798 2876 3639 Việc thiếu chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế về quản lý và chất lượng sản phẩm cũng đang là trở ngại đối với khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của DNVN. Bảng 8 cho thấy số DN có chứng chỉ chiếm 18% và chỉ có 32% số DN có thương hiệu mà chủ yếu là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Việc thiếu chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế làm cản trở việc “lưu hành” các sản phẩm của ta trên thị trường quốc tế. Bảng 8 : Kết quả điều tra khả năng thực tế về trình độ quản lý của DN(năm 2003) Nội dung DN Tỷ lệ (%) 1.Có chứng chỉ ISO 9000, ISO 14000 2.Có thương hiệu(chưa xác định giá trị tiền) 3.Có hệ thống thông tin QL(ở mức độ thấp) 19/107 34/107 55/107 18 32 50 -Chất lượng nguồn nhân lực nói chung là thấp và việc thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao Là một trong những rào cản lớn nhất đối với các DNVN hiện nay. Có đến 67% số DN thiếu cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và có 12% ở thiếu trầm trọng, 60% số DN có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công việc ở mức hạn chế và rất hạn chế. Bảng 9 : Kết quả điều tra về chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn của DN(năm 2003) : Nội dung DN Tỷ lệ(%) 1.Số lượng cán bộ chuyên môn nghiệp vụ: - Đủ -Thiếu -Thiếu trầm trọng 23/107 72/107 12/107 21 67 12 2.Khả năng thực tế đáp ứng công việc ở mức : -Rất tốt -Tốt -Hạn chế -Rất hạn chế 2/107 41/107 60/107 4/107 2 38 56 4 Nguyên nhân của tình trạng trên một phần quan trọng do chính sách nguồn nhân lực ở các DN không hợp lý, không thực sự là động lực khuyến khích nười lao động. Có đến 43,9% ý kiến cho rằng gặp khó khăn về ngân sách đào tạo và khó khăn cho việc tìm được nguồn nhân lực có chuyên môn cao. Đây là những cản trở chính đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của DN. -Đa số ý kiến cho rằng DN chưa phát huy được những yếu tố nền tảng đảm bảo cho cạnh tranh dài hạn như chất lượng sản phẩm, trình độ công nghệ…vì vậy chưa tạo được lợi thế cạnh tranh riêng dựa trên sự khác biệt của sản phẩm. Thực tế trong thời gian qua khi nói đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới chúng ta thường chỉ nhấn mạnh đến khả năng cạnh tranh về giá. Các DNVN chưa chú ý đến hay chưa có một chiến lược kinh doanh dựa trên sự khác biệt sản phẩm, yếu tố này rất quan trọng trên những thị trường người tiêu dùng có thu nhập cao. -Năng lực công nghệ là một yếu tố then chốt tạo nên năng lực cạnh tranh của các DN trong dài hạn. Tuy nhiên ở bảng 10 cho thấy đa số các DN sử dụng công nghệ lạc hậu nhiều thế hệ so với khu vực và thế giới, hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm thấp, có đến 76,6% DN sử dụng công nghệ trung bình và lạc hậu và có đến 63,5% DN có năng lực công nghệ đáp ứng nhu cầu thực tế ở mức hạn chế và rất hạn chế. Mặc dù quyết tâm của không ít DN là rất cao nhằm nâng cao năng lực công nghệ nhưng cũng còn 5 nguyên nhân chính cản trở việc nâng cao năng lực công nghệ, đó là : do thiếu kinh phí cho công tác nghiên cứu và triển khai, thiếu sự hỗ trợ của nhà nước, nguồn vốn có nhiều khó khăn, thủ tục hành chính liên quan phức tạp và cơ sở vật chất của DN chưa đáp ứng yêu cầu. Bảng 10 : Kết quả điều tra khả năng thực tế về trình độ công nghệ của DN(năm 2003) Nội dung DN tỷ lệ(%) 1.Năng lực công nghệ đáp ứng nhu cầu thực tế : -Rất tốt -Tốt -Hạn chế -Rất hạn chế 2 37 64 4 1,9 34,6 54,8 3,7 2.Trình độ công nghệ đang sử dụng : -Tiên tiến -Trung bình -Lạc hậu 25 56 26 23,7 52,3 24,3 -Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam nói chung rất thấp, chủ yếu là sản phẩm thô có giá trị gia tăng không cao rất khó cạnh tranh với các sản phẩm của khu vực và thế giới . Do phần lớn các sản phẩm của ta hiện nay có mẫu mã nghèo nàn, chất lượng thấp và cạnh tranh chưa dựa vào yếu tố thương hiệu của sản phẩm hay tính độc đáo của sản phẩm. Điều này có nghĩa là sản phẩm sẽ gặp khó khăn khi cạnh tranh trong dài hạn và trên phạm vi Quốc tế. Bảng 11 : Một số các yếu tố liên quan đến đặc điểm của sản phẩm (năm 2003) Các yếu tố được đề cập ý kiến trả lời Thuận lợi và rất thuận lợi Bình thường Khó khăn và rất khó khăn -Thiếu thông tin thị trường và không đủ khả năng thu thập xử lý thông tin là những rào cản rất lớn đối với các DNVN, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của CNTT. Theo phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì chỉ có 84% DN trong điều tra trả lời là có nhận được thông tin về hội nhập, trong đó 24% không có thông tin về lịch trình giảm thuế trong khuôn khổ AFTA, APEC, 16% DN chưa có hiểu biết chung về quá trình hội nhập WTO, 50% không có thông tin về các bước chuẩn bị thực hiện hiệp định Viêt - Mỹ. Trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt mà những vấn đề có liên quan trực tiếp đến sự họat động và phát triển của DN nhưng chưa được quan tâm một cách đúng đắn và càng khó khăn hơn khi muốn thu thập thông tin một cách đầy đủ về đối thủ cạnh tranh . Kết quả điều tracho thấy có một số cản trở chính trong thu thập thông tin thị trường đó là : tiềm lực tài chính chưa đáp ứng các yêu cầu,khó khăn trong việc chấp nhận chi phí ngoài quy định để mua thông tin, khả năng thu thập thông tin và khả năng phân tích xử lý thông tin còn rất hạn chế . III. KẾT LUẬN : 1.Một số ý kiến để xử lý các rào cản 1.1Đối với nhà nước : -Cải thiện cơ bản môi trường cạnh tranh kin tế,xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý để đảm bảo tính nhất quán, minh bạch trong hệ thống pháp lý. Đặc biệt tạo ra một khung khổ pháp lý cạnh tranh tàn diện, xoá bỏ những rào cản hạn chế cạnh tranh, khuyến khích cạnh tranh hợp tác kinh tế cụ thể như sớm đưa ra đạo luật cạnh tranh được áp dụng cho mọi chủ thể kinh doanh có các quy định . Cùng với việc cải tiến khung khổ pháp lý hơn cần tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng có hiệu quả về giao thông,thông tin liên lạc như điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giao thông đường bộ một cách thích hợp đó là : +Trong thời gian trước mắt cần tập trung vốn ngân sách nhà nước trung ương và vốn ODA cho các dự án cầu đường bộ lớn trên các trục giao thông đường bộ xuyên quốc gia, các dự án cầu vượt ở các nút giao thông trọng điểm góp phần giải toả ách tắc giao thông. -Chuyển dần trọng tâm đầu tư vốn ngân sách nhà nước(NSNN) sang phát triển hệ thống giao thông đối ngoại. Cụ thể, cần tập trung đầu tư cho các dự án phát triển các trục giao thông đường bộ nối liền các trung tâm kinh tế các khu công nghiệp với các cửa khẩu và cảng biển Quốc tế, phát triển hệ thống đường bộ tiểu vùng, các hành lang Đông - Tây nối liền mạng lưới đường bộ Việt Nam với hệ thống của các nước trong khu vực, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống đường bộ xuyên á. -Có những cải biến về thủ tục hành chính, tiếp tục hoàn thiện và ban hành các chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ cho DN như : sửa đổi lại các khoản thuế, tiếp tục sửa đổi và thực hiện pháp lệnh phí, lệ phí một cách phù hợp, nhanh chóng ban hành luật cạnh tranh. -Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu ngành nghề gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá(CNH), hiện đại hoá(HĐH): +Có các chính sách thoả đáng để khuyến khích các khu vực kinh tế, trước nhất là các DN vừa và nhỏ, kinh tế trang trại và kinh tế hộ gia đình, các chương trình phát triển kinh tế, xã hội trọng điểm, đặc biệt là các công trình trọng điểm quốc gia, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng dùng nhiều lao động. +Có các chính sách và giải pháp đủ mạnh để khuyến khích toàn xã hội đẩy nhanh công tác dạy nghề, hướng nghiệp nhằm phát triển nguồn nhân lực với chất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14076.doc
Tài liệu liên quan