MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I 3
Những lí luận chung về tổ chức thương mại thế giới wto, nền kinh tế và nngành công nghiệp thép việt nam 3
I. hội nhập wto - một xu hướng tất yếu. 3
1. Đôi nét về tổ chức thương mại thế giới wto 3
2. Xu hướng hội nhập WTO 3
3. Việt Nam hội nhập WTO 4
a. Tiến trình hội nhập WTO của Việt Nam 4
II. ngành thép việt nam hội nhập – cơ hội và thách thức 8
1. Ngành thép Việt Nam cam kết hội nhập 8
2. Những cơ hội mà ngành thép có thể tận dụng trong tiến trình hội nhập 8
3. Thách thức hội nhập đối với ngành thép 9
III. quan điểm của chính phủ đối với sản xuất và kinh doanh của ngành thép 10
1. Vai trò của ngành thép 10
2. Quan điểm của nhà nước đối với sự phát triển ngành thép trong các giai đoạn tiếp theo 11
Chương ii 14
thực trạng của ngành thép Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO 14
I. quá trình phát triển của ngành thép 14
1. Quá trình phát triển của ngành thép trong nền kinh tế thế giới 14
a. Các nước G7 14
b. Các nước NIC (Hàn Quốc, Đài Loan ) 15
2. Các giai đoạn phát triển của ngành thép Việt Nam 16
II. thực trạng của ngành thép Việt nam 18
1. Tình hình sản xuất trong nước 18
a. Cơ cấu sản phẩm của ngành thép hiện nay 18
b. Trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị 19
c. Nguyên vật liệu 19
d. Chất lượng sản phẩm 20
e. Đánh giá thực trạng sản xuất thép Việt Nam 20
2. Nhu cầu thị trường trong nước đối với ngành thép 21
3. Hệ thống phân phối thép 22
III. tác động của việc gia nhập wto tới ngành thép việt nam 23
1. Thị trường trong nước bị thu hẹp 23
2. Ngành thép Việt Nam lao đao vì nguyên liệu nhập khẩu. 26
3. Gia nhập tổ chức thương mại thế giới –giá thép bắt đầu tăng cao 27
b. Ngành thép Việt Nam đi ngược lại với quy luật ấy: 28
c. Nguyên nhân của tình trạnh giá thép tăng cao 28
4. Ngành thép thu hút đầu tư 29
Môi trường đầu tư được cải thiện rõ rệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO và GDP tăng trưởng ổn định là nguyên nhân dẫn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có ngành thép Việt Nam. 29
a. Quy hoạch của chính phủ 29
b. Các công trình và dự án đầu tư nghành thép được công bố từ đầu năm 2007 đến nay. 31
5. Các doanh nghiệp thương mại được lợi nhiều hơn doanh nghiệp sản xuát 32
IV. đánh giá 34
1. Phôi thép _vấn đề nóng nhưng không được quan tâm 34
2. Đầu tư không hiệu quả 35
a. Đầu tư thừa quy hoạch 35
b. Đầu tư giá rẻ 35
d. Chính sách đầu tư còn nhiều bất cập. 38
3. Ngành thép Việt Nam trúng mánh lớn chỉ là ăn sổi 38
4. Tác động của việc tăng giá thép đến các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. 39
Chương III 40
Phương hướng và giảI pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 40
I. mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp thép đến năm 2020 40
1. Mục tiêu tổng quát 40
2. Các mục tiêu cụ thể 40
II. giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam 41
1. Đầu tư đúng hướng 41
a.hướng đầu tư chính 41
2. Giải pháp công nghệ 42
3. Giải pháp nhân lực 43
4. Giải pháp chất lượng 44
5. Hoàn thiện hệ thống chính sách của nhà nước 45
III. các điều kiện để thực hiện các giải pháp trên 46
1. Điều kiện tài nguyên 46
2. Môi trường đầu tư thuận lợi 46
3. Nguồn nhân lực dồi dào 47
Kết luận 48
Mục lục 49
Danh mục tài liệu tham khảo 51
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác dộng của việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO tới ngành thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và gấp 14 lần so với năm 1990. Đây là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao nhất.
Hiện nay thành phần tham gia sản xuất và gia công chế biến thép ở nước ta rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Ngoài Tổng công ty thép Việt nam và các cơ sở quốc doanh thuộc địa phương và các ngành, còn có các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân. Tính đến năm 2002, Việt Nam có khoảng 50 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng ( chỉ tính các cơ sở có công suất hơn 5.000 tấn/năm), trong đó có 12 dây chuyền cán, công suất từ 100.000 – 300.000 tăn/năm.
Sau gần 50 năm hình thành và phát triển, không phải là thời gian dài cho một ngành công nghiệp đòi hỏi một trình độ công nghệ cao nhất định, ngành thép Việt Nam vẫn còn non trẻ so với công nghiệp thép thế giới. Nhưng chúng ta cũng phải ghi nhận những thành tựu mà nó đã đạt được, đặc biệt trong 10 năm đổi mới 1995 – 2005, đạt được một số các chỉ tiêu sau:
-Luyện thép lò điện đạt 500.000 tấn/năm.
- Công suất cán thép đạt 2,6 triệu tấn/năm (kể cả các đơn vị ngoài Tổng công ty thép Việt Nam )
- Luyện cán thép đạt 470.000 tấn/năm.
- Cán thép đạt 760.000 tấn/năm.
- Sản phẩm thép thô (phoi và thỏi ) huy đọng được 78% công suất thiết kế.
-Thép cán dài (thép tròn, thép thanh, thép hình nhỏ và vừa) đạt tỷ lệ huy động 50% công suất.
-Sản phẩm thép gia công sau cán (ống hàn, tôn mạ các loại) huy động 90% công suất.
thực trạng của ngành thép Việt nam
Tình hình sản xuất trong nước
Cơ cấu sản phẩm của ngành thép hiện nay
Hiên nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thép tròn, thép vằn (10 – 40mm), thép cuộn (6 -10 mm), thép hình cỡ nhỏ, cỡ vừa (gọi chung là sản phẩm dài) phục vụ cho xây dựng và gia công, sản xuất ống hàn, tôn mạ, hình uốn nguội, cắt xẻ…từ sản phẩm dẹt nhập khẩu. Các sản phẩm dài trong nước cũng phần lớn được cán từ phôi thép nhập khẩu khả năng tự sản xuất phôi thép trong nước còn rất nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 28%, còn 72% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy đều phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Trong nước chưa có nhà máy cán thép dẹt (tấm, lá cán nóng, cán nguội). Chưa có cơ sở tập trung chuyên sản xuất đặc biệt phục vụ chế tạo cơ khí. Hiện nay chỉ mới sản xuất 1 số chủng loại thép đặc biệt với quy mô nhỏ ở một số nhà máy cơ khí và nhà máy thép của tổng công ty thép Việt Nam.
Nhìn chung, do hạn chế về vốn đầu tư và do thị trường tiêu thụ thép trong nước còn quá nhỏ bé, ngành hép Việt Nam mới chỉ tập trung đầu tư và sản xuất các sản phẩm thép dài để đáp ứng nhu cầu cấp bách trong nước. Đây là các sản phẩm có thuận lợi về thị trường cần vốn đầu tư ít, thời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả đầu tư tương đối cao, thu hút được nhiều đối tác nước ngoài bỏ vốn liên doanh. Đối với các sản phẩm thép dẹt do nhu cầu thị trường thấp, trong khi để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất nhà máy phải đủ lớn, cần vốn đầu tư lớn, hiệu quả đầu tư chưa cao nên ít hẫp dẫn các đối tác nước ngoài đầu tư liên doanh, bản thân ngành thép hiện nay thiếu đồng bộ, mất cân đối giữa phôi thép và cán thép, giữa cơ cấu mặt hàng ( thép xây dựng và thép phục vụ chế tạo cơ khí ) và cơ cấu chất lượng sản phẩm.
Trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị
Ngành thép Việt Nam hiện nay có năng lực sản xuất thực tế khoảng 2,6 triệu tấn thép cán/năm (thép xây dựng ); 0,5 – 0,6 triệu tấn phôi thép bằng lò điện (phôi thép vuông và cả thỏi đúc cỡ nhỏ ). Về trình độ công nghệ chia làm 4 mức sau:
Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán thép liên tục của 2 công ty liên doanh VINA KYOEI, VPS và một số dây chuyền cán thép mới sẽ xây dựng trong thời gian gần đây.
Loại trung bình: Bao gồm các dây chuyền cán bán liên tục như Vinausteel, NatSteelvina, Tây Đô, Biên Hoà, Thủ Đức (SSC), Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO) và các công ty cổ phần, công ty tư nhân (Vinatafong, Nam Đô, HảI Phòng…)
Loại lạc hậu: bao gồm các dây chuyền cán thủ công mini của các nhà máy Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép Miền Trung Và các cơ sở khác ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
Loại rất lạc hậu: Gồm các dây chuyền cán thép mini có công suất nhỏ (<20.000 tấn/năm).
Nguyên vật liệu
Để tiến hành sản xuất, những nguyên liệu cần thiết bao gồm qặng sắt là nguyên liệu chính, các tổ hợp các bon, cùng một số các nhiên liệu như điện, chất đốt (chủ yếu là than cốc ). ở Việt Nam các nguồn nguyên liệu này không hiếm song khả năng khai thác thì lại bị hạn chế, dẫn đến chúng ta vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào. Việt Nam chưa tự sản xuất được phôi thép, thép cán dẹt, phần lớn phải nhập khẩu.
Rõ ràng về tiềm lực phát triển, ngành thép Việt Namvẫn hơn hẳn nhiều nước trên thế giới. Lại có nguồn nhân công rẻ, nhưng chúng ta vẫn chưa có năng lực khai thác được hết khả năng vốn có của mình.
Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm cán thép xây dựng của Tổng công ty thép Việt Nam và khối liên doanh nhìn chung không thua kém sản phẩm nhập khẩu.Chỉ có các sản phẩm của cơ sở sản xuất nhỏ (<20.000 tấn/năm), đặc biệt là các cơ sở có khâu luyện thép thủ công chất lượng kém và không đạt yêu cầu.
Đánh giá thực trạng sản xuất thép Việt Nam
Những năm qua tuy ngành thép đã được đầu tư đáng kể và có bước phát triển tương đối khá mạnh (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh), đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, có tiềm lực gấp hàng chục lần so với năm 1990 và đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm. Song ngành thép vẫn còn trong tình trạng kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thể hiện qua các mặt:
Trang thiết bị có qui mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình độ công nghệ và mức độ tự động hoá thấp. Trong khi trình độ công nghệ sản xuất thép trên thế giới đã đạt được trình độ công nghệ Fastmelt. Fastmelt là công nghệ quay lò khép kín với ưu điểm là tiết kiệm năng lượng và tận thu thép trong quặng và không cần dùng than cốc. Đây được coi là một trong những mô hình luyệ thép hiện đại nhất hiện nay.
Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu (mới chỉ cán các sản phẩm dài cỡ nhỏ và vừa với mác thép phổ biến là cácbon thấp). Lại chủ yếu là các sản phẩm thép phục vụ xây dựng, dẫn đến thừa một cách tương đối các sản phẩm này trên thi trường. Trong khi các dòng sản phẩm thép khác lại lâm vào tình trạng thiếu trầm trọng, gây mất cân đối cơ cấu sản phẩm của ngành. Đây là một trong những yếu điểm trong quá trinh phát triển ngành thép .
Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán thép còn phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản phẩm cán dẹt trong nước chưa tự sản xuất được mà hoàn toàn phải dựa vào nhập khẩu.
Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động quá đông, giá thành không ổn định (do lệ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu)nên tính cạnh tranh không cao. Khả năng sản xuất sản phẩm thép còn rất hạn chế.
Nhìn một cách tổng quan, ngành thép Việt Nam vẫn ở trong tìnhtrạng sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán , nặng về gia công chế biến từ phôi và bán thành phẩm nhập khẩu. Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều thiết bị hiện đại tự động cao, cần phảI được đầu tư nhiều đẻ cải tạo phát triển, thay thế đàn các thiết bị cũ lạc hậu, mới có thể đảm bảo được tính cạnh tranh trong khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhu cầu thị trường trong nước đối với ngành thép
Thép là một trong những sản phẩm thiết yếu cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hàng trăm, hàng nghìn công trình xây dựng đã và đang được tiến hành cần tới thép xây dựng. Chính vì thế, nhu cầu về thép xây dựng đang trở thành một yêu cầu cấp bách đặt ra đối với ngành thép.
Bên cạnh các sản phẩm thép xây dựng, thép công nghiệp, nhu cầu thép chế tạo máy cũng đang dần tăng cao.
Hệ thống phân phối thép
Ngành thép Việt Nam ra đời và phát triển đã được gần 50 năm, song hệ thống phân phối của nó chưa thực sự phát triển.
Có hai hình thức phân phối chủ yếulà :
- phân phối qua hệ thống chi nhánh cửa hàng trực thuộc của công ty
- phân phối qua nhà phân phối
Trong khi công ty thép Thái Nguyên thông qua hệ thống các chi nhánh, cửa hàng trực thuộc với lượng thép tiêu thụ trên 70%. Phần còn lại được bán trực tiếp cho ngưới tiêu dùng (thường là các công trình lớn). Thép Miền Nam và các liên doanh bán sản phẩm thông qua nhà phân phối. Hệ thống buôn bán cấp 1 bao gồm 30 doanh nghiệp như Thái Hưng, Sơn Trường, Xuân Hoà…Trong đó, VSC cũng phân phối thông qua nhà phân phối với 5 công ty, gồm 36 chi nhánh, xí nghiệp và 50 cửa hàng.
Doanh nghiệp tư nhân Hoà Phát có 3 đại lí chính ở Hà Nội và mỗi tỉnh, thành khác có ít nhất một nhà phân phối. Mỗi đại lí cấp 1 này lại có khoảng 18 – 20 cửa hàng nhỏ.
Thép Việt ý bán hàng qua nhà phân phối trực thuộc công ty, các côn trình và đại lí với hơn 300 cửa hàng. Một liên doanh khác là VinaKyoei giao hàng thông qua 15 tổng đại lý.
Các hệ thống phân phối này chỉ mang tính chất trung gian mà chưa giữ đúng vai trò của nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Các nhà sản xuất không kiểm soát được các hệ thống phân phối ( phần lớn các doanh nghiệp chỉ kiểm soát được đến đại lí cấp 3 ) dẫn đến không kiểm soát được giá bán cuối cùng. Sản phẩm qua nhiều khâu trung gian mới đến được tay người tiêu dùng cuối cùng.
Nguyên nhân của tình trạng trên:
Thứ nhất là do các nhà sản xuất không có kế hoạch phát triển các nhà bán buôn nhỏ vì đây là đối tượng khách hàng không thường xuyên của nhà sản xuất, khi hàng thiếu các nhà buôn mới trực tiếp đến công ty để mua, hơn nữa họ hay thường yêu cầu trả chậm trong khi vốn ứ động là rất lớn.
Thứ hai, các nhà sản xuất không muốn thành lập nhà phân phối cấp 3 vì phải huy động nhiều nhân công chi phí lớn, còn để bên ngoài đảm nhiệm thì không mấy hiệu quả vì khả năng tài chính của những cửa hàng này thường rất yếu.
Kết quả là thép đến tay người tiêu dùng cuối cùng với giá cao mà người được lợi không phải là người sản xuất mà là các khâu trung gian. Và thực tế đã cho thấy có những giai đoạn giá thép tăng cao vượt ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp sản xuất.
Với một hệ thống phân phối không hoàn hảo như hiện nay, ngành thép khó có thể xây dựng một thương hiệu tốt, nhất là khi kinh tế mở cửa, ngành thép chắc chắn sẽ phải đối mặt với các sản phẩm thép nhập khẩu
tác động của việc gia nhập wto tới ngành thép việt nam
Thị trường trong nước bị thu hẹp
Hội nhập tức là mở cửa thị trường trong nước, nó tạo điều kiện cho hàng hoá nước khác dễ dàng được nhập khẩu vào thị trường Việt Nam và ngược lại. Đó cũng là một xu hướng tất yếu đối với ngành thép. Khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, các sản phẩm thép Việt Nam chắc chắn sẽ phải đối mặt với các sản phẩm thép thành phẩm từ nước ngoài, đặc biệt là các nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, WTO, Nhật Bản, các nước ASEAN… Trong thèp Việt Nam đang chịu phải sức ép không nhỏ từ các sản phẩm thép của Trung Quốc.
Ngay từ những năm 1999 – 2000, thép Trung Quốc đã có mặt trên thị trường Việt Nam. Những năm gần đây, Trung Quốc đã trở thành một quốc gia có sản lượng, và mức tiêu thụ thép lớn nhất thế giới với trên 400 triệu tấn/năm, chiếm tỷ trọng 30% sản lượng thép toàn cầu. Mặc dù chi phí sản xuất thép tại Trung Quốc rất lớn , sản lượng thép dư thừa gấp khoảng trên 10 lần sản lượng thép Việt Nam những năm gần đây. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ hạn chế đầu tư cán thép, hoặc xoá bỏ nhà máy có công nghệ sản xuất lạc hậu, nằm giảm tiêu tốn năng lượng và bảo vệ môi trường. Còn các nhà máy được chạy theo công suất thiết kế, sản lượng dư thừa được khuyến khích xuất khẩu với chính sách hỗ trợ giá thích ứng, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thép mở rộng thị trường mà không chịu nhiều sức ép về chi phí, đủ sức cạnh tranh về giá.
Và Việt Nam là một lựa chọn rất tốt cho giải pháp thị trường tiêu thụ của thép Trung Quốc. Lý do chính để Trung Quốc lựa chon thi trương Việt Nam là:
Thực tế, ngành công nghiệp thép Việt Nam đủ lớn để đáp ứng được nhu cầu thép trong nước, nhưng giá thánh sản phẩm tương đối cao. Từ trước năm 1990, sản xuất thép của Việt Nam chưa bao giờ vượt qua 100.000 tấn, những năm đầu thập kỉ 90, Việt Nam phải nhập khẩu thép từ Liên Xô cũ với số lượng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng thép trong nước không ngừng gia tăng lúc bấy giờ. Sau 15 năm đổi mới là thời gian ngành thép có cơ hội phát triển, đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, cũng giống như các quốc gia đang phát triển khác, do không hội đủ các điều kiện về năng lực tài chính, các chính sách đầu tư thượng nguồn…nên các lò luyện phôi thép không thể ra đời, sản xuất thép chủ yếu tập trung vào hạ nguồn, cung ứng các sản phẩm thép dây, thép cây cho xây dựng, do đó nguồn nguyên liệu vẫn phảI nhập khẩu từ 80% - 90%, với mức thuế xuất nhập khẩu 10%. Đây chính là nguyên nhân khiến giá thép trong nước cao giảm tính cạnh tranh so với thép Trung Quốc nhập khẩu được trợ giá mọi mặt.
Theo hiệp hội thép Việt Nam, mức tiêu thụ thép xây dựng nội địa năm 2006 khoảng 3,6 triệu tấn/năm vào năm 2006, tăng 10% năm 2007 nâng mức tiêu thụ lên 3,8 – 3,9 triệu tấn/nămvà tiếp tục gia tăng vào các năm tiép theo. Đây là thị trường tiềm năng, bên cạnh các sản phẩm thép xây dựng đã có trên thị trường còn một phần lớn thị trường thép chế tạo, thép cơ khí chưa được khai thác. Bên cạnh đó, lợi thế về mặt vị trí địa lí (Việt Nam là nước láng giềng ), sẽ rút ngắn được độ dài quãng đường vận chuyển , do đó tiết kiệm được chi phí.
Môi trường cạnh tranh của ngành thép Việt Nam không lành mạnh. Các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng mọi cơ hội để huỷ diệt nhau cho mục dích tranh giành thị trường nội địa. Đây là cơ hội để sản phẩm thép Trung Quốc nhảy vào cùng cạnh tranh.
Thép Trung Quốc vào thị trường Việt Nam, đẩy ngành thép Việt Nam trước nguy cơ thị trường nội địa bị thu hẹp, trong khi công suất một số loại thép còn đang dư thừa như thép xây dựng (từ 5 – 5,5 triệu tấn/năm). Thực tế trong số 3,6 triệu tấn thép tiêu thụ tại thị trường Việt Nam đã có khoảng 1,8 triệu tấn thép nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc.
Tình thế đặt ra đối với thép nội địa là các ngành thép phải cùng đoàn kết , thống nhất trong chiến lược phát triển vì lợi ích chung trong điều kiện hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện , ngành thép còn chưa được hưởng những ân huệ như trước, tránh tình trạng “ gà mẹ chớ hoài đá nhau”.
Ngành thép Việt Nam lao đao vì nguyên liệu nhập khẩu.
Từ khi thành lập đến nay, ngành thép Việt Nam vẫn chưa chủ động đượcnguồn nguyên liệu.
Tính đến năm 2005, phôi thép sản xuất trong nước đạt 25% so với nhu cầu. Trước đây, ngành thép phải nhập khẩu phôi thép từ Ukraina, Nga sau đó chuyển sang nhập khẩu khoảng 60% lượng phôi thép từ Trung Quốc.
Do không chủ động được nguồn phôi thép nên ngành thép Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn của những biến động thị trường thế giới , đặc biệt những biến động về giá phôi thép.
Tuy đã chuyển hướng nhập khẩu phôi thép sang người láng giềng Trung Quốc để giảm chi phí vận chuyển , song từ tháng 6 năm 2007, Trung Quốc đã tăng thuế nhập khẩu phôi lên 15% và dự kiến đầu năm 2008 sẽ tăng lên tới mức 25%. Việc tăng thuế nhập khẩu đồng nghĩa với việc giá thép thành phẩm sẽ tăng cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của thép thành phẩm.
Không chỉ bị ảnh hưởng bởi giá phôi,mà giá các nguyên liệu đầu vào khác cũng có ảnh hưởng lớn đến ngành thép Việt Nam. Bởi khi giá của các nguyên liệu này tăng cao trực tiếp ảnh hưởng đến giá của phôi thép. Các nguyên liệu đầu vào đó chủ yếu là quặng sắt và than (nhiên liệu đốt).
Theo dự báo của Bộ nông nghiệp và tài nguyên Ôxtralia, giá các nguyên liệu đầu vào của ngành thép đang có xu hướng gia tăng. Với mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự báo đạt khoảng 4,6% trong năm 2008, nhu cầu tiêu thụ thép tăng cao, dẫn đến nhu cầu về nguyên liệu đầu vào gia tăng, là một trong những nguyên nhân làm cho giá nguyên liệu đầu vào cũng tăng cao. Nhu cầu quặng sắt toàn cầu năm 2007 tăng 8%, dự báo năm 2008 tăng 7%. Riêng giá quặng sắt trong năm tài chính 2007 -2008 của Nhật Bản đã tăng 9,5%, lên 82,73 UScent/tấn đối với quặng tinh và tăng 104,30 UScent/tấn đối với quặng cục. Còn giá than cốc ở một số nước có xu hướng giảm, song nó chỉ là tình thế trong một khoảng thời gian ngắn. Nhìn chung, nguyên liệu đầu vào của ngành thép thế giới nói chung đang có xu hướng gia tăng.
Mỗi khi giá phôi thép tăng cao là một lần ngành thép Việt Nam lại lao đao. Điển hình là vào những tháng đầu năm 2007, do chính sách trợ giá cho phôi thép cũng như thép thành phẩm xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc , giá phôi thép nhập khẩu của Trung Quốc vào Việt Nam có hơn giá nhập khẩu thép sản phẩm (thép cuộn) 50USD/tấn, đã là mối đe doạ đối với doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng, vì nó làm giảm khả năng cạnh tranh của thép thành phẩm nội địa. Một số doanh nghiệp do muốn tránh lỗ đã giảm tỷ trọng thép cuộn và tăng tỷ trọng thép thanh. Nhưng vô hình dung lại tạo điều kiện cho thép nhập khẩu Trung Quốc tràn vào. Như vậy ngành thép đã lâm vào tình trạng khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Đó là không kể đến một số doanh nghiệp đã nhập khẩu thép thành phẩm từ Trung Quốc, sau lấy thương hiệu của mình để bán ra thị trường. Việc làm này của các doanh nghiệp Việt Nam đã tạo cơ hội cho thép Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam .
Một nền công nghiệp mà phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu thì khó có khả năng chủ động về giá cũng như chất lượng sản phẩm. Vì thế một yêu cầu đặt ra là ngành thép Việt Nam phải từng bước khắc phục được sự lệ thuộc này mới mong có thể đứng vững ngay trên thị trường nội địa trong thời kì hội nhập.
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới –giá thép bắt đầu tăng cao
quy luật giá cả khi hội nhập
Việc mở cửa thị trường, một xu thế tất yếu là hàng hoá nhập khẩu tràn vào và kết quả mà nó mang lại là giá cả thị trường của các sản phẩm dịch vụ sẽ rẻ đi một cách tương đối, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Nguyên nhân dẫn đến xu hướng đó là do, phần lớn các sản phẩm nhập khẩu đều có một năng lực canh tranh nhất định so với sản phẩm nội địa. Lợi thế chủ yếu các sản phẩm đó đạt được là giá cả thấp.
Do họ có được trình độ công nghệ cao hơn chúng ta ở một mức độ nào đó dẫn đến giá thành thấp hơn. Một thực tế phải thừa nhận là các ngành công nghiêp của các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều rất thấp. Và để có thể cạnh tranh được với các sản phẩm nhập khẩu, sản phẩm nội địa cũng có xu hướng giảm giá để tăng khả năng cạnh tranh. Điều đó buộc các doanh nghiệp có chi phí sản xuất cao phải tìm cách hạ giá thành sản phẩm. Trong đó, việc ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật mới sẽ mang lại hiệu quả cao và đảm bảo sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp.
Ngành thép Việt Nam đi ngược lại với quy luật ấy:
Thực tế cho thấy, ngành thép Việt Nam đi ngược lại với quy luật ấy. Giá thép bắt đầu có xu hưóng gia tăng từ đầu năm 2003. Tháng 10 năm 2007, giá bán lẻ các loại thép xây dựng liên tục tăng, trong khi sức tiêu thụ lại không có dấu hiệu giảm, đã tạo ra cơn sốt giá và khan hiếm nguồn cung, nhất là các loại thép cuộn.
Theo trung tâm Thông tin – Bộ Công Thương, giá bán các loại thép tại thời điểm đó dao động từ 10,050 – 11,875 triệu đồng/tấn, tăng khoảng 170.000 – 400.000 đồng/ tấn. Đến đầu năm 2008, giá thép vẫn tiếp tục tăng cao. Các doanh nghiệp đã tăng từ 100.000 – 400.000 đồng/tấn. Hiện giá thép của các doanh nghiệp thuộc tổng công ty Thép từ 11.600.000 – 11.800.000 đồng/tấn chưa có VAT, còn với các doanh nghiệp khác đã trên 12.000.000 – 13.000.000 đồng/tấn. Công ty thép Việt ý cho biết giá thép bán ra của họ đã là 13.000.000 đồng/tấn chưa kể VAT. Còn giá thép trên thị trường còn vượt ngưỡng 15.000.000 đồng/tấn.
Nguyên nhân của tình trạnh giá thép tăng cao
Một là do giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng cao. Giá phôi thép cuối năm 2007 daođộng ở mức 600 – 618 USD/tấn. Đến đầu năm 2008, giá phôI thép Trung Quốc chào bán tại Việt Nam đã tăng lên 710 – 720 USD/tấn. Nguồng phôi nhập khẩu từ Ucraina hay Nga cũng ở mức 670 – 690 USD/tấn nhưng chi phí vận chuyển cao do đường xa. Mặc dù giá phôi thép cao xong các doanh nghiệp Trung Quốc cho biết nguồn phôi thép cũng rất khan hiếm, nhiều nhà cung cấp đã tạm ngừng và giảm xuất khẩu phôi. Các nguyên liệu đầu vào khác như quặng sắt sẽ tăng giá 30%/tấn, than mỡ tăng 20% và dầu…
Hai là do nhu cầu về thép đặc biệt là thép xây dựng tăng cao. Mặc dù các công ty thép đồng loạt tăng giá, nhưng nhiều người vẫn đổ xô đi mua. Nhiều đại lí không còn hàng để bán. Nhu cầu thép cho các công trình xây dựng chiếm phần lớn lượng thép tiêu thụ. Việc nhu cầu thép tăng cao tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ tăng giá. Trong khi giá xuất xưởng của các nhà sản xuất chỉ koảng 10.600- 11.200 đồng/kg, thì ở các đại lí đã bị đẩy đến 13.500- 14.000/kg. Theo nhiều chuyên gia nhận định, nguyên nhân tăng giá, cháy hàng nhiều khi do các nhà đấu cơ đồng loạt tung tiền ra mua hàng, trước thông tin già thép vẫn còn tiếp tục tăng cao trong thời gian tới
Ngành thép thu hút đầu tư
Môi trường đầu tư được cải thiện rõ rệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO và GDP tăng trưởng ổn định là nguyên nhân dẫn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có ngành thép Việt Nam.
Quy hoạch của chính phủ
Ngày 4 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 145/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đọan 2007 – 2015, có xét đến năm 2025. Trên cơ sở dựa vào dự báo nhu cầu thép thành phẩm Việt Nam năm 2010 là 11-12 triệu tấn; năm 2015 là 15-16 triệu tấn; năm 2025 khoảng 24-25 triệu tấn, quy hoạch đưa ra mục tiêu giai đoạn 2007-2015 cần đầu tư khoảng 8 tỷ USD phát triển ngành thép, đến năm 2015 Việt Nam xuất khẩu 0,5 triệu tấn thép các loại. Mục tiêuđến năm 2010, Việt Nam sẽ luyện được 3,5 triệu tấn phôi/năm, và sẽ đạt đến 12-15 triệu tấn/năm vào năm 2025. Đặc biệt, sản xuất thép thành phẩm dự kiến sẽ đạt 6,3 -6,5 triệu tấn vào năm 2010; 11-12 triệu tấn năm 2015; 19-22 triệu tấn năm 2025.
Để thực hiện thành công mục tiêu trên, bản quy hoạch nhấn mạnh tới việc tập trung đầu tư vào 6 dự án lớn của ngành thép giai đoạn 2007-2015. Đó là: liên hợp thép Hà Tĩnh ( công suất dự kiến 4,5 triệu t ấn/năm, dự kiến đI vào sản xuất năm 2011); liên hợp thép Dung Quất ( công suất trên 5 triệu tấn/năm, bắt đầu giai đoạn 2 vào năm 2011); dự án nhà máy cán thép nóng, nguội, mạ kẽm chất lượng cao công suất 3 triệu tấn/năm do POSCO (Hàn Quốc) làm chủ đầu tư; dự án nhà máy thép cuộn, thép cán nóng chất lượng cao công suất 2 triệu tấn/năm do liên doanh ESSA của ấn Độ phối hợp với một số công ty trong nước thực hiện; Dự án mở rộng Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Dự kiến vốn đầu tư cho ngành thép giai đoạn 2007-2015 lên tới 10-12 tỷ USD, trong khi giai đoạn 2007-2015 cần khoảng 8 tỷ USD.
Ngoài ra, bản quy hoạch nhấn mạnh tới việc phát triểm sản xuất gang lào cao với quy mô vừa và nhỏ tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hà Giang, Yên Bái, Bắc Kạn với tổng công suất 1 triệu tấn/năm và hoàn thành các dự án thép dẹt…
Nhìn chung, quy hoạchphát triển ngành thép của chính phủ tập chung chủ yếu vào các sản phẩm thép cán, thép cuộn (những thành phẩm thép mà hiện nay chưa sản xuất được hoặc sức cạnh tranh kém). Trong bản quy hoạch của chính phủ không đề cập đến dự án đầu tư vào dự án và thép cây và thép cuộn vì công suất đẫ vượt gấp đôi nhu cầu.
Các công trình và dự án đầu tư nghành thép được công bố từ đầu năm 2007 đến nay.
Công trình của nước ngoài và liên doanh với nước ngoài:
Nhà máy cuộn cán nòng liên doanh giữa Tổng cong ty thép Việt Nam và Tập đoàn ESSAR (ấn Độ) tại Bà Rịa – Vũng Tàu công suất 2 triệu tấn, tổng đầu tư trên 500 triệu USD.
Nhà máy cán nguội 1,2 triệu tấn/năm và cuộn cán nòng 3 triệu tấn/năm tổng đầu tư trên 1 tỷ USD của Tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) tại Phú Mỹ, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Nhà máy Liên hợp thép Hà Tĩnh liên doanh giữa Tập đoàn TATA(ấn Độ) với Tổng công ty thép Việt Nẩmn xuất thép cuộn cán nóng, cán nguội, thép tấm… với công suất dự kiến 4.5 – 5 triệu tấn/năm, tổng đầu tư khoảng 3,5 tỷ USD.
Nhà máy thép liên hợp liên doanh giữa Tập đoàn thép POSCO (Hàn Quốc) với tập đoàn Vinashin công suất dự kiến 5 triệu tấn/năm sản xuất thép tấm, thép cuộn cán nóng, cán nguội.
Liên hợp thép giữa Công ty Thép Jinna (Trung Quốc) với Tycoon (Đài Loan – Trung Quốc) công suất 5 triệu tấn phôi/năm đầu tư trên 1 tỷ USD ở Dung Quất (Quảng Ngãi).
Công trình đầu tư trong nước:
Nhà máy luyện kim công suất 300.000 tấn/năm Cửu Long – Vináhin, khởi công xây dựng tại Yên Bái.
Nhà máy lò cao, lò điện ở Hải Phòng của Công ty Cp Thép Vạn Lợi, công suất dự kiến 500.000 tấn/năm.
Nhà máy liên doanh giữa Công ty Thép Vạn Lợi và Công ty Thương mại và Khoáng sản Hà Tĩnh sản xuất phôI thép.
Nhà máy thép Vạn Lợi ở Bắc Kạn sản xuất 500.000 tấn phôi/năm.
Chỉ trong khoảng mấy tháng đầu năm 2007, đầu tư vào ngành thép Việt Nam tăng đột biến, không chỉ bao gồm các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài mà còn có rất nhiều các doanh nghiệp trong nước đã chứng tỏ mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư vào Việt Nam nói chung và ngành thép nói riêng.
Các doanh nghiệp thương mại được lợi nhiều hơn doanh nghiệp sản xuát
Nửa đầu năm 2007, nhiều doanh nghiệp đã trúng lớn bằng việc nhập khẩu thép thành phẩm từ Trung Quốc vế bán. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội thép Việt Nam, nếu như cả năm 2006, Việt Nam nhập khẩu thép cuộn của Trung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11169.doc