MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 3
3.MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 4
4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
6. Ý NGHĨA CỦA KHOÁ LUẬN 5
7. KẾT CẤU KHOÁ LUẬN 6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 7
1.1. VÀI NÉT VỀ QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐÓI NGHÈO 7
1.1.1. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 7
1.1.2. HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ ĐÓI NGHÈO 8
1.2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ MỤC ĐÍCH CỦA CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 11
1.2.1 ĐỐI TƯỢNG 11
1.2.2. NỘI DUNG VÀ MỤC ĐÍCH CỦA CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 12
1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 14
1.3.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI 14
1.3.2 NGHÈO ĐÓI TUYỆT ĐỐI VÀ NGHÈO ĐÓI TƯƠNG ĐỐI 15
1.4. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 17
1.4.1. VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI 17
1.4.2. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 18
1.5. SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 19
1.5.1. KHÁI NIỆM CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 19
1.5.2. VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 20
1.5.3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 22
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LẠNG SƠN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 25
2.1 KHÁI QUÁT VỀ TỈNH LẠNG SƠN VÀ TÌNH HÌNH ĐÓI NGHÈO Ở LẠNG SƠN 25
2.1.1 VÀI NÉT VỀ KINH TẾ – XÃ HỘI Ở LẠNG SƠN 25
2.1.2 THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở LẠNG SƠN HIỆN NAY 27
2.1.3 NGUYÊN NHÂN CỦA ĐÓI NGHÈO 28
2.2 TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LẠNG SƠN 31
2.2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 31
2.2.2 QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH 33
2.2.3 TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH 34
2.3 CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN 37
2.3.1 GIẢI PHÁP TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG 37
2.3.2 GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN VỐN CHO CHƯƠNG TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 39
2.4 KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH, DỰ ÁN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO THUỘC CHƯƠNG TRÌNH 143 VÀ DỰ ÁN HẠ TẦNG CƠ SỞ THUỘC CHƯƠNG TRÌNH 135 40
2.4.1 KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH, DỰ ÁN THUỘC CHƯƠNG TRÌNH 143 40
2.4.2. KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN CƠ SỞ HẠ TẦNG CHƯƠNG TRÌNH 135 48
2.4.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 2001-2005 50
2.5. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CỦA TỈNH LẠNG SƠN 53
2.5.1.TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI KINH TẾ – XÃ HỘI 53
2.5.2. TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI 54
2.5.3. TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI AN NINH QUỐC PHÒNG. 56
2.5.4. TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VĂN HOÁ - TINH THẦN 57
2.6. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LẠNG SƠN 58
2.6.1. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA TỈNH TRONG THỜI GIAN TỚI 58
2.6.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LẠNG SƠN TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 60
2.6.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 67
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
PHỤ LỤC 74
77 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 7527 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ yếu theo kinh nghiệm của bản thân, thiếu sự ứng dụng khoa học trong sản xuất dẫn đến năng suất kém.
Tình trạng nghèo còn do nguyên nhân về dân số: các gia đình nghèo thường là gia đình đông con, nhất là các hộ gia đình dân tộc ít người, trung bình khoảng 3 đến 4 con/hộ. Nguyên nhân cơ bản của những hộ gia đình này là quá ít đất đai và vốn, hoặc quá ít việc so với số lao động, ngoài ra có thể do người trụ cột trong gia đình bị chết, già yếu, ốm đau hay tàn tật. Sức khoẻ và tình trạng nghèo nàn thường có mối quan hệ qua lại với nhau. Nghèo đói làm cho sức khoẻ tàn tạ (vì người nghèo phải thường sống trong điều kiện vệ sinh kém và ăn không đủ chất dẫn đến thiếu dinh dưỡng) ngược lại sức khoẻ kém là nguyên nhân của sự nghèo khổ (vì người yếu không thể làm việc một cách hiệu quả được). Vòng luẩn quẩn này đòi hỏi phải giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: giảm đói nghèo và tăng cường sức khoẻ.
Thiếu vốn cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản của những hộ nghèo. Mặc dù đã có những chính sách, chủ trương hỗ trợ vốn cho người nghèo của Ngân hàng nông nghiệp, nhưng nguồn vốn này còn có hạn chế là chủ yếu trông chờ vào nguồn ngân sách của Nhà nước.
Ngoài những nguyên nhân chủ quan nêu trên thì vấn đề nghèo đói còn những nguyên nhân sau: do lười lao động, ăn tiêu lãng phí, họ không có ý thức tiết kiệm và dành dụm…
Như vậy thực trạng đói nghèo ở Lạng Sơn (17,06%) vẫn đang ở mức cao so với các nước, đặc biệt trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay ở Lạng Sơn và cũng như các địa phương khác sự phân hoá giàu nghèo là khó tránh khỏi, đây là vấn đề cần được quan tâm và giải quyết. Một mặt phải có chính sách tiếp tục phát huy tiền năm đất nước phát triển về kinh tế, khuyến khích mọi người làm giàu, mặt khác phải có chính sách xã hội hướng vào việc xoá đói giảm nghèo. Điều này cần tổng hợp các biện pháp, giải pháp cụ thể và tích cực.
2.2 Tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn
2.2.1 Khái quát chung về tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo
Chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh giai đoạn 2001-2005 được triển khai thực hiện trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn.
*Thuận lợi:
Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn (1996-2000), rút ra những bài học kinh nghiệm có giải pháp phù hợp thực hiện có giải pháp phù hợp thực hiện có hiệu quả hơn cho nên bước vào giai đoạn 2001-2005, công tác thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo có những thuận lợi sau:
-Nền kinh tế của tỉnh luôn tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, bình quân hàng năm là 9,84% [18;7 ], cao hơn mức bình quân giai đoạn 1996-2000 (là 9,25%) gần đạt mục tiêu đề ra (10-10.5%); cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỉnh đã và đang từng bước khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh; nền kinh tế thị trường tạo điều kiện thuận lợi hơn để huy động mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo được nhiều việc làm cho người lao động.
Kết cấu hạ tầng cơ sở: Điện, đường, trường học, trạm y tế, hệ thống thuỷ lợi, thông tin liên lạc, điện thoại…được chú trọng xây dựng và mở rộng, từng bước, phát huy được tác dụng, đáp ứng yêu cầu thực tế của nhân dân.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Bước đầu tổng kết được kinh nghiệm công tác xoá đói giảm nghèo.
Chương trình xoá đói giảm nghèo được triển khai trong điều kiện tình hình kinh tế – chính trị – xã hội ổn định.
*Khó khăn:
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới và còn là một tỉnh nghèo, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, thời tiết diễn biến thất thường, trình độ dân trí thấp, việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế.
Nguồn vốn huy động, đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế so với nhu cầu cần thiết của chương trình cũng như nhu cầu của người dân.
Đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo về năng lực, trình độ còn nhiều hạn chế, không đồng đều lại thường xuyên thay đổi, nhất là ở cấp xã dẫn đến việc tổ chức, điều hành, nắm, theo dõi, tham mưu đề xuất về công tác xoá đói giảm nghèo còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn nhất là những xã vùng sâu, vùng xa có sự chênh lệch ngày càng lớn.
Những khó khăn trên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình, hiệu quả và tính bền vững của chương trình xoá đói giảm nghèo.
2.2.2 Quan điểm chỉ đạo của tỉnh
Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh đã xác định xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, do đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và liên tục công tác thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của tỉnh theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Giai đoạn 1996-2000, thực hiện Nghị quyết Đại hội XXI Đảng bộ tỉnh và nghị quyết 05/NQ-TW ngày 28/3/1997 của Ban Thường vụ tỉnh uỷ khoá XII về thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã được ổn định và nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 19,67% năm 1996 và xuống còn 11% năm 2000 (theo chuẩn nghèo cũ).
Sang giai đoạn 2001-2005, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành tiêu chí mới về xác định hộ nghèo, theo tiêu chí này hộ nghèo của tỉnh còn ở mức khá cao, một bộ phận hộ đã thoát nghèo nhưng chưa bền vững; còn nhiều hộ nghèo chưa được cải thiện nhà ở, trong đó có một số hộ thuộc diện chính sách người có công với cách mạng.
Với quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng và đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng bộ tỉnh đề ra. Từ việc xác định rõ nguyên nhân của tình trạng đói nghèo, thấy rõ những ưu khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện của cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể đối với chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1996-2000, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định xoá đói giảm nghèo là việc làm trọng tâm cấp bách trong giai đoạn 2001-2005.
Ngày 18/7/2001 Ban chấp hành đảng bộ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-TƯ về “Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005” với một số nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu sau:
*Về nhiệm vụ:
Các cấp uỷ, chính quyền các cấp phải xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, 5 năm và trong chiến lược phát triển – xã hội của ngành mình, địa phương mình.
Thực hiện xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn.
*Về mục tiêu:
Hết năm 2002 xoá hộ nghèo diện chính sách người có công với cách mạng, đảm bảo mức sống các hộ chính sách người có công phải bằng và cao hơn mức sống trung bình so với các hộ ở nơi cư trú.
Hết năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống dưới 7% (theo chuẩn nghèo mới). Bình quân mỗi năm giảm từ 1,0-1,2%.
2.2.3 Tình hình triển khai chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
Để có thể triển khai được các chương trình, dự án nhằm xoá đói giảm nghèo một cách có hiệu quả và đúng đối tượng, đúng mục đích thì Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo của các cấp cùng với c ác thành viên trực thuộc đã thực hiện một số công việc sau:
Trước tiên, là khảo sát, điều tra nắm danh sách, địa chỉ và hoàn cảnh cụ thể của từng hộ đói nghèo.
Chủ thể trực tiếp thực hiện công tác này là Sở lao động – Thương binh và xã hội, Uỷ ban nhân dân các cấp phối hợp để thực thi các nội dung sau:
Quán triệt mục đích yêu cầu và tập huấn nghiệp vụ điều tra hộ đói nghèo cho cán bộ phụ trách công tác xoá đói giảm nghèo các huyện thị.
In ấn hệ thống biểu mẫu cấp phát đến tận thôn, bản xã, phường, thị trấn. Tập huấn phương pháp xác định và tổng hợp hộ đói nghèo cho cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo ở các cấp.
Tiến hành tổ chức điều tra, phân loại hộ đói nghèo trên phạm vi toàn tỉnh.
Cấp giấy chứng nhận hộ đói nghèo, cấp giấy miễn giảm một phần viện phí theo Nghị định 95/CP của Chính phủ trên cơ sở số liệu đã điều tra.
*Mục đích:
Phục vụ trực tiếp cho Ban đại diện Hội đồng quản trị ngân hàng nông nghiệp các huyện thị làm căn cứ để xây dựng chiến lược kinh tế – xã hội của tỉnh, đặc biệt đó là căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở các xã, phường, thị trấn trong từng giai đoạn.
*Kết quả:
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương nhất là ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ huyện, thị đến xã, phường, thị trấn đã khắc phục mọi khó khăn để thu nhập thông tin tổng hợp, đảm bảo chất lượng số liệu và tiến độ thời gian, điển hình là các huyện Hữu Lũng, Chi Lăng, Văn Lãng, Cao Lộc và thành phố. Kết quả cuộc điều tra đã phản ánh sát tình hình thực tế báo cáo theo đúng hệ thống biểu mẫu quy định.
Thứ hai, nhằm khẳng định trách nhiệm cao đối với công tác xoá đói giảm nghèo, ban chỉ đạo đã thực hiện ký cam kết xoá đói giảm nghèo giữa Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh với Uỷ ban nhân dân các cấp; giữa Uỷ ban nhân dân các cấp với các thôn bản, khối phố.
Kết quả: việc tổ chức ký cam kết xoá đói giảm nghèo đã được thực hiện nghiêm túc từ tỉnh đến huyện, thị. Tuy nhiên việc tổ chức đến từng hộ gia đình chưa được thực hiện tốt, một số xã chưa tổ chức ký cam kết xoá đói giảm nghèo với huyện, thị theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, vận động, chủ thể thực hiện công tác này là các cơ quan thông tin đại chúng: báo, đài phát thanh và truyền hình tỉnh, huyện. Ngoài ra còn có sự phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận tổ quốc, các thành viên trong Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ tỉnh đến các huyện, thị và đã đến tận xã, phường để tuyên truyền vận động nhằm nâng cao nhận thức, động viên kịp thời, sự đồng tình ủng hộ, hưởng ứng của các chi hội cơ sở, cũng như các hội viên tham gia tích cực góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đề ra.
Bên cạnh đó Uỷ ban nhân dân tỉnh đã cụ thể hoá Nghị quyết của tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh bằng việc ban hành Quyết định số 11/2002 UB-QĐ ngày 4/3/2002 về phê duyệt “Chương trình xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005”. Chương trình đã xác định rõ mục tiêu và các giải pháp cụ thể. Từng nhóm giải pháp được xây dựng kèm theo kế hoạch kinh phí và phân công cụ thể cho các ban ngành chức năng để tổ chức triển khai thực hiện. Trên cơ sở đề án đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Ban chỉ đạo chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành chức năng xây dựng chương trình hành động cụ thể của địa phương, của ngành mình gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội với chương trình xoá đói giảm nghèo cho từng năm, cho cả giai đoạn; tham gia kiểm tra sơ kết đánh giá tình hình thực hiện hệ thống cơ chế chính sách của tỉnh giai đoạn 1991-2001, loại bỏ cơ chế chính sách cũ, bổ sung những cơ chế chính sách mới cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế; xây dựng quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo tỉnh.
Cho đến nay (2005) các huyện, thành phố đều có Nghị quyết chuyên đề thông qua, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cụ thể hoá Nghị quyết bằng việc chỉ đạo xây dựng và phê duyệt chương trình xoá đói giảm nghèo cho cả giai đoạn 2001-2005 và hàng năm. Được sự chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể của Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các huyện, công tác xoá đói giảm nghèo cấp xã cũng được triển khai khá đồng bộ (226/226 xã, phường, thị trấn). Công tác xoá đói giảm nghèo được đưa và Nghị quyết Hội đồng nhân dân cấp xã, trong đó có 168/226 xã, phường, thị trấn có Nghị quyết chuyên đề về chương trình xoá đói giảm nghèo cụ thể của từng địa phương.
2.3 Các giải pháp đã được thực hiện
2.3.1 Giải pháp tuyên truyền vận động
Tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia xoá đói giảm nghèo được xác định là giải pháp quan trọng được các cấp, các ngành thực hiện khá đồng bộ, từng bước nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và toàn xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
Hình thức tuyên truyền chủ yếu là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài phát thanh truyền hình địa phương trong đó tập trung nêu những gương điển hình vượt khó trong việc xoá đói giảm nghèo; phổ biến, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống, nêu những mô hình làm ăn có hiệu quả …Tuyên truyền các đợt phát động, vận động quần chúng của các tổ chức chính trị, từ tỉnh đến cơ sở.
Uỷ ban Mặt trận tổ quốc tỉnh với phong trào toàn dân ủng hộ quỹ “Ngày vì người nghèo”, ngày 19/5, sinh nhật Bác Hồ hàng năm…Đến nay toàn tỉnh đã huy động được trên 2.5 tỷ đồng. Toàn bộ quỹ huy động được cùng với nguồn vốn của trung ương, đã hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo phát triển sản xuất kinh doanh, trong những năm gần đây toàn tỉnh đang tập trung mục tiêu hỗ trợ xây dựng nhà đại đoàn kết, ưu tiên các hộ nghèo là trẻ em mồ côi, người già cô đơn không nơi nương tựa, hộ nghèo là người tàn tật không còn khả năng lao động; Hội phụ nữ với phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế ; “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”. Phong trào được các cấp hội hưởng ứng tham gia và được duy trì với các biện pháp sáng tạo, hiệu quả như hỗ trợ cho phụ nữ nghèo theo địa chỉ; Hội nông dân các cấp với phong trào “Nông dân thi đua phát triển kinh tế - xoá đói giảm nghèo”, cùng với hoạt động đứng ra tín chấp cho vay, giúp nhau áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, Hội còn vận động nông dân tham gia trồng mới các loại cây ăn quả, cây lâu năm có giá trị kinh tế cao, khai thác tiền năng đất đai, giúp đỡ hội viên nghèo xoá đói giảm nghèo; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ xung kích”, “Thanh niên tình nguyện”… Từ các hoạt động của những phong trào trên đã giúp đoàn viên thanh niên nắm và hiểu rõ hơn đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, thấy được trách nhiệm của tuổi trẻ trong công tác xoá đói giảm nghèo; Hội Cựu chiến binh với phong trào “phát huy tinh thần anh bộ đội cụ Hồ trong trận tuyến chống đói nghèo”; giúp nhau xoá đói giảm nghèo vươn lên làm giàu chính đáng. Điển hình trong công tác hội tham gia xoá đói giảm nghèo là huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Văn Quan, Bắc Sơn và thành phố Lạng Sơn. Qua các phong trào hoạt động của các tổ chức hội đã ngày càng thu hút được hội viên tham gia giúp nhau xoá đói giảm nghèo vì vậy đã tạo được niềm tin cho hội viên vào đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước cùng với các tổ chức đoàn thể, công tác tuyên truyền của các cơ quan ban, ngành, thành viên Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo của tỉnh triển khai khá nhịp nhàng, đồng bộ thông qua các hội nghị, các lớp tập huấn. Đặc biệt là các Sở : Sở kế hoạch và đầu tư, Sở Lao động- Thương binh xã hội, Sở Văn hoá - Thông tin, Sở Y tế…Nhân ngày lễ hội tại các địa phương đã phối hợp thực hiện nhiều cuộc tuyên truyền, lồng ghép giữa biểu diễn văn nghệ với tuyên truyền các chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo, kế hoạch hoá gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, sức khoẻ cộng đồng…được nhân dân tham gia hưởng ứng nhiệt tình.
Ngoài ra còn tuyên truyền bằng các hình thức biên soạn, in ấn phát hành trên một vạn tờ chương trình, áp phích về các tiêu chuẩn xây dựng gia đình văn hoá, làng bản, khối phố văn hoá, cơ quan, đơn vị có nếp sống văn hoá… Đã góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo trong công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
2.3.2 Giải pháp huy động các nguồn vốn cho chương trình xoá đói giảm nghèo
Nguồn vốn huy động tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo được trên 901,898 tỉ đồng, cụ thể như:
Nguồn vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo – việc làm là 36,14 tỷ (Năm 2001 là 9,75 tỷ đồng, năm 2002 là 8,05 tỷ đồng, năm 2003 là 5,12 tỷ đồng, năm 2004 là 6,62 tỷ đồng, năm 2005 là 6,6 tỷ đồng).
Nguồn vốn từ các chương trình, dự án mục tiêu quốc gia tham gia góp phần xoá đói giảm nghèo là 608,140 tỷ đồng. Cụ thể (năm 2001: 73,975 tỷ đồng, năm 2002: 82,95 tỷ đồng; năm 2003: 139,138 tỷ đồng; năm 2004: 174,642 tỷ; năm 2005: 137,434 tỷ đồng).
Nguồn vốn từ ngân hàng chính sách xã hội cho vay hộ nghèo (2001-2005) là 257,598 tỷ đồng. Trong đó: vốn từ ngân hàng Trung ương cấp là 234,509 tỷ đồng; nguồn từ ngân sách địa phương uỷ thác cho vay là 23,089 tỷ đồng
Nguồn vốn đầu tư có trọng điểm tập trung cho các xã đặc biệt khó khăn để xây dựng các hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu, cho hộ nghèo vay để phát triển sản xuất kinh doanh.
*Kết quả giúp đỡ của các đơn vị được phân công:
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, sự phân công của tỉnh về giúp đỡ các xã nghèo, vùng nghèo. Trong 5 năm qua, đã có một số đơn vị thuộc các Bộ, ngành, Trung ương và tỉnh tự nguyện giúp đỡ các xã nghèo xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu và hỗ trợ lãi suất cho vay. Cụ thể:
Bộ Thương mại đã giúp tỉnh Lạng Sơn xây dựng nhà chợ chính và hệ thống cung cấp nước sạch của hai trung tâm cụm xã Hội Hoan (Văn Lãng), Ba Xã (Văn Quan) và 5 cửa hàng dịch vụ tại một số xã đặc biệt khó khăn. với tổng số vốn là 3 tỷ đồng.
Tổng công ty thuốc lá Việt Nam chi nhánh tại Lạng Sơn và Lộc Bình làm đường giao thông vào vùng nguyên liệu thuốc lá với tổng số vốn là 560 triệu đồng.
Ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh tại Lạng Sơn giúp huyện Bắc Sơn vay lãi 12,5 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Lạng Sơn giúp xã Bình La (Văn Lãng) xây dựng trường học trị giá 197 triệu đồng.
Công ty tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn thiết kế miễn phí một số công trình cho một số xã đặc biệt khó khăn.
Công ty tư vấn xây dựng thuỷ lợi giúp xã Tam Gia (Lộc Bình) xây dựng phòng học trị giá 30 triệu đồng.
Bưu điện tỉnh Lạng Sơn giúp xã Cao Minh (Tràng Định) xây dựng phòng học trị giá 35 triệu đồng.
Thành phố Lạng Sơn giúp xã Bính Xá (Đình Lập) đầu tư công trình nước sạch, trị giá 50 triệu đồng
2.4 Kết quả thực hiện các chính sách, dự án xoá đói giảm nghèo thuộc chương trình 143 và dự án hạ tầng cơ sở thuộc chương trình 135
2.4.1 Kết quả thực hiện các chính sách, dự án thuộc chương trình 143
Các giải pháp chính sách cũng được thực hiện khá đồng bộ, có tác động tích cực đến kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo. Trong những năm qua tỉnh đã nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để ban hành và tổ chức triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Một số chính sách chủ yếu là :
*Chính sách cho vay tín dụng ưu đãi hộ nghèo:
Hỗ trợ vốn giúp người nghèo phát triển sản xuất kinh doanh với lãi suất thấp được xem là giải pháp hỗ trợ trực tiếp giúp hộ nghèo chủ động trong sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống. Nguồn vốn được huy động từ trung ương, phân bổ, trích từ ngân sách tỉnh, huy động từ cộng đồng, tài trợ của các tổ chức phi chính phủ. Tổng nguồn vốn hiện có trên 257 tỷ đồng quay vòng cho vay hộ nghèo.
Đến nay qua 5 năm (2001-2005) đã cho 68,791 lượt hộ nghèo được vay vốn, tổng vốn dư nợ trên 283,6 tỷ đồng. Phương thức cho vay thông qua tổ chức tín chấp lớn nhất, vốn cho vay với quy trình, thủ tục gọn nhẹ, linh hoạt; mức vay bình quân/hộ, ngày càng tăng từng bước đáp ứng được nhu cầu, thời gian cho vay đảm bảo phù hợp với chu kỳ sản xuất từng loại cây con. Vốn vay được các tổ chức tín chấp cam kết sử dụng đúng mục đích, trả nợ đúng kỳ hạn, ợịnh kỳ hàng năm Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp kiểm tra, giám sát và có biện pháp chỉ đạo sử dụng vốn có hiệu quả; đề xuất giải quyết xoá nợ hoặc khoanh nợ những món vay không may gặp rủi ro, bất khả kháng. Tình trạng vốn bị xâm tiêu, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ nhỏ.
Hỗ trợ vốn giúp người nghèo phát triển sản xuất kinh doanh với lãi xuất thấp được xem là giải pháp hỗ trợ trực tiếp, giúp hộ nghèo chủ động trong sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống. Nguồn vốn được huy động từ Trung ương phân bổ, trích từ ngân sách tỉnh, huy động từ cộng đồng, tài trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài. Tổng nguồn vốn hiện có trên 257 tỷ đồng để quay vòng cho vay hộ nghèo.
Đến nay qua 5 năm đã cho 68,791 lượt hộ nghèo được vay vốn, tổng vốn dư nợ trên 283,6 tỷ đồng. Phương thức cho vay thông qua tổ chức tín chấp và các tổ chức tín chấp và các tổ chức đoàn thể, trong đó Hội phụ nữ, Hội nông dân có vốn tính chất lớn nhất.
Hàng năm có khoảng 1000 hộ được thoát nghèo từ vốn vay tín dụng ưu đãi, góp phần ổn định đời sống và giảm nhanh tỷ lệ nghèo đói toàn tỉnh.
*Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế
Để đảm bảo công bằng trong y tế chăm sóc sức khoẻ toàn dân, đặc biệt là cho người nghèo, trong những năm qua tỉnh đã có nhiều giải pháp như củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đưa dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu có chất lượng tới gần hộ nghèo, vùng nghèo, triển khai tốt các chương trình, mục tiêu quốc gia (phòng chống sốt rét, phong, lao, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, HIV/AIDS, khám chữa bệnh nhân đạo…) áp dụng nhiều hình thức chi trả như mua thẻ bảo hiểm y tế, cấp thuốc miễn phí, miễn giảm viện phí cho người nghèo, góp phần đáng kể trong việc giúp người nghèo có điều kiện thuận lợi tiếp cận các dịch vụ y tế khi cần thiết.
Năm 2001-2002 thực hiện khám chư bệnh cho người nghèo bằng việc mua và cấp thẻ bảo hiểm y tế. Toàn tỉnh đã cấp được 60.331 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, kinh phí mua thẻ 1,55 tỷ. Hàng năm khám và điều trị cho trên 1.500 lượt bệnh nhân nghèo, với kinh phí bình quân 800 triệu đồng/năm.
Từ năm 2003 thực hiện quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng chính phủ về chế độ khám chữa bệnh cho người nghèo. Tỉnh đã thành lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo. Thành lập Ban quản lý quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo tỉnh; xây dựng đề án và các văn bản hướng dẫn thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo theo quyết định 139/CP kết quả hai năm thực hiện (2004-2005) toàn tỉnh đã cấp được 250.878 thẻ khám chữa bệnh cho 139 người nghèo đạt 95% so với tổng số đối tượng cần được cấp thẻ. Ngoài ra tỉnh còn cấp thẻ khám chữa bệnh cho người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên được 519 thẻ. Người nghèo đã được chăm sóc sức khoẻ, điều trị miễn phí ngay từ tuyến xã, số lượt người nghèo và kinh phí cho khám, điều trị bệnh tăng hơn nhiều lần so với trước. Kinh phí khám chữa bệnh bình quân 5 tỷ đồng/năm.
Chính sách hỗ trợ con em hộ nghèo trong giáo dục đào tạo cùng với chủ trương kiên cố hoá lớp học thì việc thực hiện trợ giúp đối với con em hộ nghèo cũng được quan tâm trú trọng. Hàng năm có trên 10.000 học sinh được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp với kinh phí trên 500 triệu đồng mỗi năm, trên 20.000 lượt học sinh được cấp vở viết, học phẩm với kinh phí hàng năm gần 1 tỷ đồng. Việc thực hiện chính sách này góp phần tích cực đến tăng tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học thuộc diện nghèo được đến trường, góp phần xoá tái mù chữ, nâng cao dân trí. Kết quả 5 năm toàn tỉnh đã tiến hành phổ cập chương trình giáo dục trung học cơ sở đạt 64%.
*Hỗ trợ người nghèo về cải thiện nhà ở
Với điều kiện ngân sách của tỉnh, tỉnh đã thực hiện cơ chế theo từng giai đoạn; giai đoạn 2001-2004 tổ chức hỗ trợ cho số hộ nghèo thuộc diện chính sách người có công; giai đoạn 2005-2010 sẽ tiếp tục hỗ trợ số hộ nghèo còn lại, đặc biệt tập trung vào các hộ nghèo thuộc các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh.
Trong 3 năm (2001-2003) toàn tỉnh đã hỗ trợ, cải thiện nhà ở cho hộ nghèo phải ở nhà tạm, dột nát tổng số được hỗ trợ là 819 hộ với kinh phí thực hiện là 4,54 tỷ đồng trong đó:
-Hộ nghèo chính sách người có công 597 hộ với kinh phí 3,34 tỷ đồng
-Hộ nghèo chính sách xã hội 222 hộ với kinh phí 1,2 tỷ đồng.
Hết năm 2003 cơ bản không còn hộ nghèo diện chính sách người có công còn ở nhà dột nát.
Năm 2004 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 về chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào thiểu số, đời sống khó khăn. Theo cơ chế nhân dân tự làm, nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ. Đã góp phần đẩy nhanh thực hiện chính sách hỗ trợ cho người nghèo. Để thực hiện chính sách này Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, huyện, thành phố triển khai kế hoạch tổng thể các dự án của từng huyện với kinh phí dự kiến là 392 tỷ đồng thực hiện trong 2 năm (2005-2006).
Với chính sách này toàn tỉnh sẽ hỗ trợ cho :
Hỗ trợ cải thiện nhà ở : 4.177 hộ
Hỗ trợ đất ở cho : 635 hộ
Hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán: 5.982 hộ
Hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung cho 40.297 hộ được hưởng lợi.
Theo kế hoạch thì chương trình hỗ trợ, cải thiện nhà ở có thể đạt mục tiêu kế hoạch đặt ra, riêng mục tiêu hỗ trợ đất sản xuất gặp nhiều kó khăn do quỹ đất không còn nhiều.
*Chính sách trợ cước, trợ giá.
Trong 5 năm tỉnh được Trung ương hỗ trợ trên 48,8 tỷ đồng theo các chương trình mục tiêu như trợ giá giống cây lương thực, các mặt hàng chính sách, vận chuyển sản phẩm địa phương…Ngoài ra tỉnh đã trích ngân sách từ 3-4 tỷ đồng để được trợ cước, trợ giá vận chuyển giống cây con cho đồng bào vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Đơn vị thực hiện công tác này là công ty cổ phần Giống cây trồng Lạng Sơn, hàng năm chủ động khai thác và vận chuyển đảm bảo cung ứng kịp thời giống cây trồng phục vụ cho sản xuất của bà con nông dân, góp phần đưa nhanh tỷ lệ giống mới, khuyến khích
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2188.DOC