Mục lục
Tác động xã hội của hội nhập kinh tếquốc tếvà gia nhập
WTO ởViệt Nam
MỞ ĐẦU. 3
TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA HỘI NHẬP KINH TẾQUỐC TẾVÀ GIA NHẬP WTO ỞVIỆT NAM. 4
1.1. Hội nhập KTQT đã và đang góp phần đổi mới thểchếvà nâng cao hiệu lực của bộmáy nhà nước
và trởthành một động lực cho quá trình phát triển đất nước : . 4
1.2. HNKTQT làm gia tăng mức sống của các nhóm dân cưvà hỗtrợcông cuộc giảm nghèo. 6
1.3. HNKTQT đang làm gia tăng sựphân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội. 9
1.4. Vấn đềviệc làm, quan hệlao động, di cưtrong quá trình HNKTQT: . 12
MỘT SỐGỢI Ý CHÍNH SÁCH: . 18
2.1 - Lựa chọn ưu tiên các mục tiêu phát triển: . 18
2.2 Cần tiếp tục đổi mới thểchếvà nâng cao năng lực và hiệu quảquản lý nhà nước phù hợp với
tốc độtăng trưởng kinh tế, biến đổi xã hội và với điều kiện của một nền kinh tếthịtrường. 19
2.3 - Xây dựng hệthống an sinh xã hội toàn dân phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tếsang
nền kinh tếthịtrường theo định hướng XHCN và quá trình HNKTQT. 19
2.4. Xã hội hóa các dịch vụxã hội cơbản, nhưng đảm bảo việc tiếp cận dễdàng đối với các nhóm xã
hội yếu thế. 20
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước tăng chi tiêu ngân sách cho các
lĩnh vực xã hội, (chiếm 30% tổng ngân sách), trong đó có các dịch vụ xã hội cơ bản như y
tế, giáo dục, hay XĐGN, hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn. Riêng Chương trỡnh 135 hỗ trợ
9/23
2.374 xã đặc biệt khó khăn, trong giai đoạn 1999-2004, được ngân sách trung ương đầu
tư 7.227,7 tỷ đồng, đã xây dựng được 22 ngàn công trình CSHT, 528 trung tâm cụm xã,
góp phần giảm tỷ lệ nghèo của các xã này từ 60% năm 1999 xuống 23,5% năm 2004 .
Nguồn vốn ODA trong quá trình hội nhập quốc tế cŨng góp phần quan trọng vào
giảm nghèo. Với 24,7 tỷ USD đã ký hiệp định, giải ngân được 15,8 tỷ USD, hoạt động
ODA tập trung vào phát triển hạ tầng KTXH, hoàn thiện thể chế, xóa đói giảm nghèo. Vì
vậy một bộ phận người nghèo, những nhóm xã hội yếu thế đã được hưởng lợi, nâng cao
được ý thức và năng lực quản lý, cải thiện và bảo vệ môi trường. ODA đÓ GÚP PHẦN
QUAN TRỌNG THỲC đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm
nghèo.. thông qua các dự án, trong đó nguồn vốn ODA đÓ GIỲP NỤNG DÕN NGHèo tiếp
cận nguồn tín dụng để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch,
phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học...Nguồn vốn ODA đÓ HỖ TRỢ PHỎT
TRIỂN CỎC TỈNH Và THàNH PHỐ, NHẤT Là HỖ TRỢ XOỎ đói giảm nghèo, phát triển
hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có
các dự án hệ thống cấp nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số
dự án thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ.(9, 2006; 11, 2005; 12,2006)
Đương nhiên, cũng như bất kỳ lĩnh vực nào khác, thành tựu giảm nghèo của Việt
Nam là do một tổ hợp các nhân tố tác động tạo thành. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế
như là một tác nhân xuyên suốt, trực tiếp và gián tiếp tạo nên kết quả chủ yếu của tăng
trưởng, giảm nghèo và phát triển xã hội nói chung ở Việt Nam trong suốt 2 thập kỷ qua.
1.3. HNKTQT đang làm gia tăng sự phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã
hội
Phân tầng xã hội phản ánh cấu trúc xã hội bất bình đẳng trong quá trình vận động
và phát triển của xã hội. Đối với một xã hội có nền kinh tế chuyển đổi và đang trong quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như nước ta, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao, liên tục trong thời gian dài, thì nhiều khả năng phân tầng xã hội ngày càng
gia tăng, trở thành một vấn đề xã hội có tính cấp thiết, thu hút sự quan tâm rộng rãi của
toàn xã hội, từ giới lãnh đạo đến những người dân nghèo khổ nhất. Vấn đề này lại càng
quan trọng khi nước ta xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mà công bằng xã hội là mục tiêu hàng đầu.
Phân tầng xã hội trong quá trình Đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng,
dù rằng xã hội Việt Nam đang phát triển tương đối công bằng, so với các nước khác có
cùng trình độ phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế (với những đóng góp quan trọng của
FDI và ODA) đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, cho đa số người dân ở
mọi vùng đất nước, trong đó có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Nhưng vẫn còn
những khác biệt, sự không công bằng, khi có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều
hơn và những nhóm hửơng lợi ít hơn, thậm chí bị rủi ro, mất mát. Hệ số Gini tăng tương
đối ít trong một thời gian dài (từ 0,34 năm 1993, tăng lên 0,35 năm 1998 và 0,37 năm
2004) và dường như bất bình đẳng tương đối ở Việt nam không khác nhiều với các nước
có cùng mức thu nhập bỡnh quõn đầu người dựa trên sức mua tương đương.
Tuy nhiên, bất bình đẳng tuyệt đối đang tăng, nếu so sánh khoảng cách chi tiêu
dùng giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất. Nếu năm 1993, chi tiêu dùng của các
hộ giầu nhất gấp 5 lần so với các hộ nghèo nhất, thì năm 2004, khoảng cách này đã tăng
lên 6,3 lần. Tỷ lệ của nhóm giầu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ 41,8% năm
1993, tăng lên 44,7% năm 2004, trong khi đó tỷ lệ này của nhóm nghèo nhất lại giảm
tương ứng từ 8,4% xuống còn 7,1% cùng thời kỳ(3,2007)
10/23
Bất bình đẳng giữa các vùng trong quá trình tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng
gia tăng. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng Tây bắc, Tây nguyên ( hai vùng tập trung đồng bào
dân tộc thiểu số), Bắc trung bộ, đồng bằng sông Cửu long gấp 4,5 lần tỷ lệ hộ nghèo
chung của cả nước.
Nếu so sánh bất bình đẳng về tài sản (nếu đo lường được, trong điều kiện hiện tại)
thì nhiều khả năng khoảng cách giữa nhóm giầu nhất và nghèo nhất có thể gia tăng gấp
nhiều lần so với đo lường bằng các chỉ báo chi tiêu hay thu nhập ở các nghiên cứu đã có.
Trong giai đoạn 1993-2004, gia tăng bất bình đẳng chung chủ yếu là sự gia tăng
bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn, mặc dù tầm quan trọng của nó trong bất bình
đẳng chung ngày càng giảm dần và sự bất bình đẳng nội vùng ngày càng cao và lớn hơn
sự bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn. Phân tích hệ số bất bình đẳng Theil L cho thấy:
nếu trong giai đoạn 1993-1998, 96% gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam là do gia tăng bất
bình đẳng giữa các vùng thành thị và nông thôn và chỉ có 4% là do bất bình đẳng trong nội
vùng nông thôn hoặc thành thị thì đến giai đoạn 1998-2004, tỷ lệ tương ứng là 39% so với
61% (3, 2007)
Tuy nhiên, phân tầng xã hội cũng tạo ra những cơ hội và kích thích những người
có năng lực, biết nắm bắt các cơ hội thị trường, vươn lên thành đạt hơn trên các thang bậc
xã hội. Nhiều doanh nhân trẻ, người lao động, trí thức... đã trở nên giầu có, có vị thế xã
hội cao hơn trong quá trình HNKTQT và phát triển nền kinh tế thị trường. Tại các đô thị,
đã hình thành một nhóm xã hội giầu có, gắn với hiện tượng cư trú tách biệt và tập trung
tích tụ tài sản. Từ thực trạng sở hữu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, VnExpres
ngày 23/1/2007, căn cứ vào các bảng cáo bạch của gần 150 công ty, đã cho biết: ”Tổng
giỏ trị tài sản của 650 cỏ nhõn sở hữu cổ phiếu, bao gồm các cổ đông sáng lập, những
người nằm trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban tổng giám đốc, và bà con ruột thịt,
tính theo giá cổ phiếu cuối ngày 29/12/2006, đạt trên 37,2 nghỡn tỷ đồng, tương đương
hơn 4% GDP của Việt Nam”. Hiện tượng cư trú tách biệt, chủ yếu dựa trên yếu tố kinh tế,
đã xuất hiện ở những thành phố lớn và các đô thị xung quanh, chỉ trong khoảng 10 năm
hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Đầu tư nước ngoài đã phát triển mô hình mẫu này
như Phú Mỹ Hưng, Villa Riviera, Ciputra kích thích làn sóng tiêu dùng nhà ở cao cấp của
các nhóm xã hội giầu có. Tuy nhiên, sự tập trung đầu tư của các doanh nghiệp nước
ngoài và trong nước vào các khu vực bất động sản dành cho “nhà giàu”, có thể lại kéo
theo sự sụt giảm tương đối của việc phát triển nhà ở dành cho người thu nhập thấp ở
thành thị do thiếu nguồn lực tài chính, đất đai. Điều đó làm tăng thêm sự bất bình đẳng xã
hội tại các đô thị lớn đang có xu hướng gia tăng trong quá trình đô thị hóa nhanh, trong bối
cảnh đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, và có thể kéo theo sự bất ổn xã hội.
Hiện tượng bất bình đẳng nêu trên chịu tác động trực tiếp của hội nhập quốc tế và
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vốn FDI tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 57,2% tổng vốn
FDI đăng ký và 49,6% vốn thực hiện của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
chiếm khoảng 26% tổng vốn FDI đăng ký và 28,7% vốn thực hiện. FDI trong giai đoạn Đổi
mới vừa qua đã được tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (62,4% tổng vốn
FDI đăng ký), dịch vụ (31,4% tổng vốn FDI đăng ký), mà phần lớn ở các thành thị. Điều
này góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm với thu nhập cao cho
nhóm lao động ở các lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài, làm gia tăng thêm mức sống ở
đô thị. Từ đó làm dãn rộng bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng
khác, giữa nông thôn và thành thị, giữa các nhóm lao động, giữa các ngành nghề, các khu
vực kinh tế.
Bất bình đẳng giữa các vùng có thể được đo bằng tốc độ tăng chi tiêu dùng thực tế
giữa các vùng. Nếu vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng (là hai vùng kinh
tế trọng điểm) tăng chi tiêu dùng ở mức 133% và 111% trong giai đoạn 1993-2004 thì tốc
11/23
độ này ở vùng Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long và Nam Trung bộ thấp hơn nhiều, chỉ
là 52%, 63% và 67%. Hay, tỷ lệ tăng chi tiêu dùng ở thành thị so với nông thôn tăng từ
1,91 năm 1993 lên 2,24 năm 2004.
Tác động của FDI về mặt xã hội còn được thể hiện trong vấn đề sử dụng đất (phần
lớn là đất nông nghiệp). Kết quả là một bộ phận không nhỏ nông dân bị mất đất canh tác,
hay một bộ phận dân đô thị mất sinh kế quen thuộc, phải chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tái
định cư.
Hiện nay diện tích đất do người nước ngoài (trong đó có các doanh nghiệp FDI) sử
dụng chiếm khoảng 35.105 ha. Tuy nhiên, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến vấn đề sử
dụng đất lớn hơn con số này rất nhiều. Hội nhập quốc tế kích thích tăng trưởng kinh tế,
mở rộng đô thị, phát triển mạnh mẽ hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, gia tăng số
lượng các khu công nghiệp, khu đô thị.
Hộp 2
Theo thống kờ cuả Cục Hợp tỏc xó và Phỏt triển nụng thụn ( Thuộc Bộ Nụng
nghiệp và Phỏt triển nụng thụn ) hiện nay, trung bỡnh mỗi hộ nụng dõn cú 1,5 lao
động và mỗi hecta đất bị thu hồi sẽ ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động
nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp và đất ở trong 5 năm qua đó
tỏc động tới đời sống của 627.495 hộ gia đỡnh, khoảng 950 ngàn lao động và 2,5
triệu người. Trong đó, vùng Đồng Bằng sông Hồng có số hộ bị ảnh hưởng đất lớn
nhất, với khoảng 300 000 hộ; Đông Nam Bộ với khoảng 108 000 hộ. (Molisanet 7-
8-07)
Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn có làm gia tăng bất bình đẳng xã hội?
Sau khi gia nhập WTO, quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ngày một sâu rộng
hơn, chẳng hạn vốn FDI trong 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 9,6 tỷ USD, xấp xỉ năm 2006
và dự kiến sẽ đạt 13 tỷ USD vào cuối năm nay. Điều đó sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
nhanh hơn, với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm nay đạt 8,3%, cao nhất trong
10 năm qua. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tất yếu sẽ làm thay đổi nhiều về mặt
xã hội, trong đó có thể làm gia tăng bất bình đẳng xã hội bởi sự chênh lệch trong đầu tư
FDI giữa các vùng, bởi cơ hội việc làm và thu nhập là khác nhau giữa nhiều nhóm xã hội,
sự khác biệt về quyền lực, vốn xã hội, về vốn vật chất, vốn tài nguyên, vốn tài chính, vốn
con người giữa các nhóm này, tạo ra các cơ hội sinh kế khác nhau giữa họ. Các nhóm
nông dân thiếu đất hay bị mất đất canh tác, bị tổn thương bởi thiên tai, dịch bệnh, hay các
rủi ro cá nhân, đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, người di cư tự do vào
các đô thị, người nghèo và cận nghèo, người khuyết tật... là các nhóm dễ rơi xuống đáy
của các thang bậc xã hội và lâm vào cảnh bần cùng hơn.
Hiện trạng bất bình đẳng xã hội gia tăng ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế như vậy có một nguyên nhân là do sự tập trung nguồn lực kinh tế, bao gồm cả FDI,
ODA (phát triển CSHT), Nhà nước (ngân sách, các doanh nghiệp nhà nước) và cả khu
vực tư nhân, vào các vùng kinh tế trọng điểm, trong những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng
nhanh nhằm giảm nguy cơ tụt hậu và trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Mặc dù
Nhà nước đã có nhiều chính sách xã hội (tạo việc làm, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ
bản, an sinh xã hội, XĐGN...) để khắc phục tình trạng này, nhưng vẫn không đủ nguồn lực
để hạn chế sự gia tăng hiện tượng bất bình đẳng xã hội.
Những chính sách kinh tế và xã hội có thể làm giảm thiểu hiện tượng bất bình
đẳng xã hội, làm gia tăng cơ hội và mức sống của các nhóm yếu thế, hạn chế thiệt hại bởi
12/23
các rủi ro cho các nhóm dễ bị tổn thương và điều tiết thu nhập của các nhóm giầu có, khá
giả để tăng nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Câu hỏi thảo luân:
Xu hướng phân cấp gia tăng có làm tăng thêm khoảng cách chênh lệch về phát
triển giữa các vùng giàu và nghèo hay không ? và
Xã hội hóa các dịch vụ xã hội cơ bản có làm gia tăng sự bất bình đẳng xã hội ?
Những giải pháp cơ bản nào làm hạn chế bất bình đẳng xã hội, đặc biệt giữa các
vùng giàu và vùng nghèo, giữa vùng đô thị phát triển và vùng tập trung đồng bào
DTTS và làm giảm thiểu bất bình đẳng nội vùng ?
1.4. Vấn đề việc làm, quan hệ lao động, di cư trong quá trình HNKTQT:
* Vấn đề việc làm trong quá trình HNKTQT:
Giải quyết việc làm đang là một vấn đề cấp thiết của xã hội nhưng cũng là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội,
đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Hiện nay, ở khu vực thành thị thường xuyên có khoảng 588 nghìn người thất
nghiệp và trên 33 triệu lao động ở khu vực nông thôn chỉ có việc làm trong khoảng bốn
phần năm thời gian lao động. Hằng năm Việt nam phải giải quyết việc làm cho khoảng
trên 1,5 triệu người, trong đó khoảng hơn 1 triệu việc làm mới.
Một tác động tích cực quan trọng nhất về mặt xã hội của FDI là tạo việc làm và cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề
việc làm và nâng cao chất lượng lao động ở nước ta. Đến nay, đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 1 triệu lao động và khoảng 3-4 triệu lao động gián
tiếp, thu hút khoảng 5% số lao động mới hàng năm (trong khoảng trên 1,2 triệu lao động
mới được giải quyết việc làm hàng năm), nếu tính cả lao động gián tiếp có thể đạt khoảng
20%, so với trung bình nhiều nước khoảng 10%, thì Việt Nam đạt loại trung bình khá (7,
2006)... Hàng vạn cán bộ, nhân viên kỹ thuật Việt Nam được nâng cao kỹ năng chuyên
môn hay có thể thay thế nhân viên nước ngoài trong quản lý điều hành sản xuất kinh
doanh, cũng như làm chủ công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên cơ hội việc làm được phân bố không đồng đều do FDI tập trung vào
những ngành Việt Nam có ưu thế về lao động và thị trường như dệt may, da giầy, du lịch,
xe máy hoăc những ngành nước ta chưa hay không có ưu thế cạnh tranh về vốn và công
nghệ như khai thác dầu khí, viễn thông, ô tô, điện tử. Tình trạng thiếu lao động trong các
doanh nghiệp FDI tại các khu công nghiệp, các thành phố lớn đang diễn ra, do sự phân bố
không đồng đều FDI , sự cơ cấu lại về kinh tế của các địa phương và trình độ của lực
lượng lao động.
Vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang là một trở ngại lớn trong quá trình phát
triển kinh tế, thu hút đầu tư nuớc ngoài và giải quyết việc làm.
Chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu và thu hút đầu tư nước
ngoài dựa vào lợi thế nhân công rẻ có thể giúp giải quyết vấn đề việc làm trước mắt,
nhưng có thể không phát huy được vai trò trong trung và dài hạn, thậm chí có thể tạo ra
những trở lực cho phát triển.
13/23
Câu hỏi thảo luân:
Những giải pháp cơ bản nào có thể thúc đẩy việc giải quyết vấn đề việc làm trước mắt và
trung, dài hạn ?
* Quan hệ lao động dưới tác động của hội nhập quốc tế:
Một hiện tượng xã hội mới xuất hiện trong những năm Đổi mới và hội nhập quốc
tế: hàng nghìn cuộc đình công đã diễn ra, mà nguyên nhân chủ yếu từ việc giới sử dụng
lao động vi phạm quyền lợi của người lao động được qui định trong Bộ Luật lao động.
” Thực tế trong tổng số hơn 1.500 cuộc đỡnh cụng xảy ra từ năm 1995 đến nay, có tới
90% nguyên nhân do chủ nhân vi phạm pháp luật lao động (càng vi phạm thỡ người sử
dụng lao động càng có lợi)“ (6, 2007)
Những nguyên nhân của các cuộc đình công có thể là:
- Do thiếu hiểu biết về pháp luật, nhất là pháp luật về lao động, về quan hệ lao
động.
- Do khác biệt giữa văn hóa của người quản lý và người lao động, mâu thuẫn
giữa phong cách người quản lý và tập quán của người lao động.
- Do xung đột lợi ích giữa giới chủ và người lao động.
Những qui định về đình công hiện tại trong Luật Lao động không có tính khả thi, do
các qui đinh đình công khá phức tạp, khó thực hiện. Dường như trong việc soạn thảo Luật
Lao động và tổ chức thực thi luật này còn thể hiện sự lưỡng lự giữa chủ trương khuyến
khích thu hút đầu tư, đặc biệt là FDI, dựa trên ưu thế giá nhân công rẻ và việc bảo vệ
quyền lợi người lao động, trong đó thiên về ưu tiên cho việc thu hút đầu tư để phát triển.
Nhìn rộng hơn, các chính sách phát triển nguồn nhân lực dường như chưa thể
hiện một tầm nhìn chiến lược cho vấn đề này. Để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam cần sớm có một Chiến lược phát triển hợp lý nguồn nhân lực quốc gia.
Tuy nhiên, một Chiến lược như vậy để bảo đảm sự cho sự phát triển bền vững nguồn
nhân lực lâu dài của đất nước hầu như vẫn chưa sẵn có. Dường như chúng ta vẫn chưa
đầu tư đầy đủ các nguồn lực để có một nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những
đòi hỏi của quá trình CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Đây không chỉ là mô hình phát triển và tăng trưởng kinh tế mà còn là chính sách đối
với con người. Nếu áp lực việc làm cũng như những đòi hỏi khác của những người lao
động không giảm xuống, cả hiện nay và trong tương lai, thì nhiều hậu quả xã hội như bất
bình đẳng xã hội, mâu thuẫn, xung đột xã hội, tội phạm và tệ nạn xã hội,... có thể sẽ gia
tăng mà tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đến đâu cũng không thể bù đắp nổi những tổn thất
và hệ lụy xã hội nói trên.
Câu hỏi thảo luân:
Vấn đề đặt ra là làm sao có thể phát triển một thị trường lao động ổn định và cả
người lao động cũng như giới sử dụng lao động đều có thể thỏa mãn về quan hệ lao động
giữa họ ? Có thể xây dựng các thể chế pháp lý và dân sự nào để bảo vệ lợi ích của họ
trong quan hệ với giới chủ, trong điều kiện Việt Nam ?
14/23
* Di cư dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế:
Quá trình hội nhập quốc tế (với sự gia tăng và tập trung nguồn lực FDI, ODA, kiều
hối, xuất khẩu lao động) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra lực hút mạnh mẽ từ các đô
thị, các vùng kinh tế trọng điểm, đã và đang kéo theo dòng người di cư đông đảo vào các
khu vực này. Di cư đang trở thành một “sinh kế” hay một bộ phận quan trọng trong chiến
lược sống của đông đảo người lao động nông thôn.
Khoảng 2,2 triệu người di cư đủ điều kiện đăng ký thường trú (tạm trú liên tục từ 1
năm trở lên và có chỗ ở hợp pháp) tại các thành phố lớn, trong đó chủ yếu là thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 cho thấy 89,1% các loại di cư đều có việc làm,
trong đó 98-99% người di cư, với lý do chuyển đến vì việc làm và lý do cải thiện điều kiện
sống, đã có việc làm. Gần một nửa lực lượng di cư hoạt động lao động giản đơn, 27%
hoạt động kinh doanh và nghề thủ công, 10,7% làm các công việc vận hành máy móc,
4,7% là chuyên gia và lãnh đạo các cấp hay 1,3% trồng trọt... Khu vực kinh tế quan trọng
thu hút nam di cư là khu vực tư bản tư nhân, tập thể và nhà nước, kinh tế có vốn nước
ngoài. Còn đối với nữ di cư 45% tham gia khu vực kinh tế cá thể / tiểu chủ và một phần tư
cho khu vực FDI.
Đại đa số người di cư đều đạt mục tiêu kinh tế. Hai phần ba người di cư có thu
nhập cao hơn so với trước khi di cư, 12% cao hơn nhiều và 13% thu nhập không đổi, tỷ
lệ có thu nhập thấp đi rất nhỏ. Riêng nhóm di cư làm trong khu vực FDI, 88,1% có thu
nhập cao hơn và cao hơn nhiều so với trước di cư. Nguồn tiền gửi về của người di cư
đã góp phần quan trọng vào giảm nghèo và phát triển kinh tế ở nông thôn.
Người lao động được pháp luật bảo vệ quyền làm việc cũng như các lợi ích
khác, thông qua hợp đồng lao động. Chỉ có hai phần năm (42%) người di cư có hợp
đồng lao động trong 6 tháng trước thời điểm điều tra năm 2004. Trong khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như khu vực tư bản tư nhân và khu vực nhà nước có tỷ
lệ người di cư được ký hợp đồng lao động cao, với tỷ lệ tương ứng là 86,9%, 59,8%,
93,6%. Trong khi đó khu vực kinh tế cá thể/tiểu chủ, chỉ có 3,5% người di cư đựoc ký
hợp đồng lao động. Trong khu vực kinh tế nước ngoài, 91,8% người di cư được nhận
một số lợi ích từ nơi làm việc như tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, tiền ăn giữa ca....
Đa số những người di cư đang làm việc tại các khu đô thị và công nghiệp không
muốn thay đổi công việc hiện tại, chỉ có 13%-21% tuy từng khu vực muốn có sự thay
đổi, mà chủ yếu là vì muốn có thu nhập cao hơn. Trong khu vực có vốn nước ngoài,
những người di cư không muốn thay đổi công việc vì 66,9% hài lòng với công việc, một
phần ba cho rằng có thu nhập tốt.
Tuy nhiên, 45% người di cư vẫn gặp nhiều khó khăn khi chuyển đến và việc thiếu
chỗ ở thích hợp được cho là khó khăn lớn nhất với khoảng ba phần năm người di cư, sau
đó là thiếu điện, nước và việc làm (khoảng một phần năm ở mỗi lĩnh vực). Khoảng 42%
người di cư không có hộ khẩu và một bộ phận quan trọng trong số này gặp phải các khó
khăn phát sinh về vay vốn, tìm kiếm việc làm, đăng ký xe máy, thuê nhà và học hành của
con cái. (8, 2006)
Nếu nhìn nhận nghèo khổ không chỉ là nghèo về thu nhập và chi tiêu, mà còn là
thiếu khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, không có đầy đủ và bình đẳng các
cơ hội trong cuộc sống, thiếu tiếng nói... thì một bộ phận lớn người di cư đang là một
nhóm „nghèo mới“ có số lượng ngày càng tăng ở các đô thị. Vấn đề nghèo khổ đô thị sẽ
là vấn đề xã hội có tính cấp thiết ngày càng cao trong quá trình tăng trưởng kinh tế, hội
nhập quốc tế, cùng với sự bùng nổ của các dòng di dân nông thôn vào đô thị.
15/23
Câu hỏi thảo luân:
Vấn đề đặt ra là làm sao điều tiết các dòng di cư như một sự dịch chuyển lực lượng
lao động để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo ở nông thôn và tạo cơ hội bình đẳng
và sự ổn định cuộc sống cho người di cư ở các đô thị và khu CN?
1.5 . Phát triển con người:
Việt Nam đang phát triển trong tiến trình hội nhập và chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với mục tiêu trọng tâm là vì con người. Phát triển con
ngưòi VN đã đạt được những thành tựu nhất định, song cũng còn không ít vấn đề cần
phải tiếp tục giải quyết.
Trên bình diện quốc gia, các chỉ số phát triển con người trong giai đoạn 1999-2004,
giai đoạn mở rộng hội nhập quốc tế, bao gồm HDI, HPI, GDI đều đã được cải thiện đáng
kể. Các chỉ số cấu thành của HDI, HPI đều được cải thiện. Chỉ số HDI của Việt nam đã
tăng liên tục từ 0,611 năm 1992, lên 0,689 năm 1999 và 0,731 năm 2004. Chỉ số GDP
bình quân đầu người của Việt Nam tăng nhanh nhất 19%, đóng góp 4,3 điểm % và đóng
góp hai phần ba vào tốc độ tăng của HDI.
Bảng 3: Tốc độ tăng HDI, giảm HPI và đóng góp của các chỉ số cấu thành
Chỉ
số
Chỉ số cấu
thành
1999 2004 Tốc độ tăng
HDI/giảm
HPI
Đóng
góp
(điểm%)
Đóng
góp(%)
GDP(PPP) 0,467 0,556 +19,02 4,30 70,54
Tuổi thọ 0,765 0,782 +2,22 0,82 13,49
Giáo dục 0,835 0,855 +2,41 0,97 15,97
HDI
HDI 0,689 0,731 +6,1
P1 9,7 6,3 -35,5 -1,1 0,04
P2 9,7 7,8 -19,6 -0,6 0,02
P3 29,8 21,3 -28,7 -26,9 0.94
HPI
HPI 21,1 15,1 -28,6
P1- % số người không kỳ vọng sống đến 40 tuổi
P2-Tỷ lệ người lớn không biết chữ
P3- Bần cùng về vật chất (trung bình của tỷ lệ người không được tiếp cận với nước sạch và tỷ lệ trẻ
em có cân nhẹ hơn so với độ tuổi)
Nguồn: Viện KHXH Việt Nam (5 , 2006)
16/23
FDI đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và qua đó tác động tích cực
đến sự gia tăng của HDI. Bên cạnh đó, FDI đã đóng góp lớn vào việc tăng ngân sách nhà
nước (từ 0,2 triệu USD năm 1995 lên trên 1.000 triệu USD năm 2005) và qua đó góp phần
làm tăng chi tiêu cho các lĩnh vực xã hội như giáo dục, y tế, bảo hiểm, XĐGN, ASXH lên
30% tổng chi ngân sách... (7, 2006).
Việc tăng đầu tư về mặt xã hội góp phần làm tăng các chỉ số cấu thành khác của
HDI: tuổi thọ và giáo dục. Đồng thời các hoạt động đầu tư của ODA, sự tăng cường hợp
tác với các tổ chức quốc tế, các quốc gia về y tế (tiêm phòng, trang bị y tế, đào tạo cán
bộ...), phòng chống HIV/AIDS, dân số và KHHGĐ, giáo dục, nước sạch và VSMT... đã góp
phần làm cải thiện tình hình giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân, làm tăng các chỉ số
về giáo dục và tuổi thọ.
Ba chỉ số cấu thành của HPI đều được cải thiện trong giai đoạn 1999-2004. Tỷ lệ
bần cùng về vật chất (P3) giảm mạnh nhất 8,5% xuống còn 21,3%. Đó là do giảm mạnh
cả tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, lẫn tỷ lệ người không được dùng nước sạch.
Mức độ nghèo khổ của Việt nam, qua chỉ số HPI đã giảm từ 21,1% năm 1999 xuống
15,1% năm 2004, khiến cho giảm nghèo trở thành lĩnh vực thành công nổi bật nhất của
Việt Nam trong hơn 2 thập kỷ qua. Hai chỉ số về tỷ lệ người không kỳ vọng sống đến 40
tuổi và tỷ lệ người lớn không biết chữ thì giảm ở mức độ chậm hơn .
Việc giảm mạnh tỷ lệ bần cùng về vật chất là do có sự đóng góp của các hỗ trợ
quốc tế qua các chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn, cũng như các chương
trình chăm sóc y tế đối với trẻ em. Tỷ lệ người dùng nước sạch ở cả nước tăng gấp đôi
trong 10 năm (1993-2002) từ 26,2% lên 48,5% (10, 2003). Riêng tỷ lệ người dùng nước
sạch nông thôn tăng từ 18,1% năm 1993 lên 39,6% năm 2002 và 54%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam.pdf