Mục lục
Lời nói đầu 1
I. Tiền đề ra đời và tồn tại của tài chính 2
II. Bản chất của tài chính 2
III. Chức năng của tài chính 4
1. Chức năng phân phối của tài chính 4
2. Chức năng giám đốc của tài chính 5
IV. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 6
1. Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN 6
2. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 9
V. Vai trò của tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường 11
1. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của Nhà nước 11
2. Vai trò tài chính có trọng lượng trong điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã được xác định 11
VI. Các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp 12
1. Ngân sách nhà nước 12
2. Thuế 17
3. Tiền tệ - tín dụng 24
4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm 28
Kết luận 32
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1914 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òng, ngoại giao, xây dựng kết cấu hạ tầng cho kinh tế – xã hội (đường giao thông, liên lạc, giáo dục phổ cập, đào tạo cán bộ) cũng như giải quyết một số vấn đề xã hội…
b. Thực trạng NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng, NSNN đã có những chuyển biến tích cực, xứng đang là một khâu tài chính chủ đạo trong hệ thống tài chính, đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước và là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Những thành tựu đạt được của NSNN thể hiện chủ yếu như sau:
Do có sự tăng trưởng kinh tế và đổi mới chính sách thuế, chúng ta đã chuyển từ một ngân sách chủ yếu dựa vào ngoại viện, thu trong nước không đủ chi thường xuyên; tiến tới thu trong nước đã đảm bảo chi thường xuyên và có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, hỗ trợ dắc lực cho mục tiêu chống lạm phát.
Vốn đầu tư từ NSNN đã chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt; phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, thực hiện các chương trình mục tiêu, từng bước giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội.
Chi NSNN từng bước được cơ cấu lại theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, xoá bao cấp, tránh dàn trải trong chi tiêu, đáp ứng các nhu cầu xoá đói, giảm nghèo, y tế, giáo dục, củng cố an ninh quốc phòng và giũ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Những thành công trong quản lý thu, chi ngân sách trực tiếp hỗ trợ cho việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Luật NSNN đã được ban hành và thực hiện khá tốt đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu đúng, thu đủ và kịp thời các nguồn thu. Việc chi NSNN cũng được kiểm tra, kiểm soát khá chặt chẽ. Nhà nước tiếp tục thực hiện nguyên tắc cân đối NSNN theo hướng thu từ thuế và phí phải lớn hơn chi thường xuyên, do đó có điều kiện tích luỹ cho đầu tư phát triển, dành chi đầu tư lớn hơn chi thường xuyên và chi NSNN. Việc bội chi NSNN được kiềm chế trong phạm vi Quốc hội cho phép, góp phầnkích thích tăng trưởng kinh tế.
Quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đã đựoc xử lý theo hướng tăng quyền chủ động của ngân sách địa phương. Tập trung hoàn thiện hệ thống thuế thông qua việc tiến hành cải cách thuế cấp III thưo hướng vừa đảm bảo nhu cầu chi của ngân sách, vừa tạo mội trường tài chính thuận lợi. Rà soát và chấn chỉnh việc ban hành và thu các loại phí, lệ phí trái quy định.
Nhà nước từng bước cắt giảm các khoản chi hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp Nhà nước. Giảm mạnh các đối tượng bao cấp cả NSNN; có cơ chế huy động thêm các nguồn lực ngoài ngân sách để đảm bảo mục tiêu phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá.
Nhìn chung, chính sách động viên của Nhà nước vào NSNN là nhất quán, hướng tới sự công bằng, chú trọng bồi dưỡng nguồn thu lâu dài, đảm bảo cho NSNN đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước. Chính sách động viên đã bám sát quan điểm của Đảng là phải có tầm nhìn dài hạn trong chính sách thu, giải quyết hợp lý quan hệ gữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tập trung vào NSNN và khả nưng tích tụ vốn, tái đầu tư của các doanh nghiệp. Chính sách khai thác các nguồn lực ngoài NSNN được chú trọng, thực hiện xã hội hoá đầu tư, xã hội hoá một số khoản chi NSNN nhằm đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá. Những cơ chế, chính sách và pháp luật về NSNN đã tạo điều kiện thuận lợi để thức đẩy chuyển dịch cở cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng tiến độ và có hiệu quả, khuyến khích đầu tư xã hội, mở rộng thị trường, phục vụ có hiệu quả cho chiến lược con người, phát triển khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hoạt động NSNN vẫn đứng trước những khó khăn và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định trong quá trình hội nhập và phát triển. Điều đó thể hiện tập trung ở mấy điểm sau:
Thứ nhất, cơ sở, nền tảng để động viên GDP vào NSNN chưa thật vững chắc. Cụ thể là cơ cấu nguồn thu trong nước tăng chậm do hiệu quả kinh tế còn thấp; nguồn thu của NSNN chưa thật sự bắt nguồn từ kết quả sản xuất, kinh doanh, từ hiệu quả chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế mà vẫn bi chi phối bởi các khoản thu có tính bấp bênh, thiếu chắc chắn, phụ thuộc yếu tố bên ngoài (như thu từ bán dầu thô, thu thuế xuất nhập khẩu…) đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổn thu NSNN; ngân sách địa phương phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ đất, từ xổ số kiến thiết và trợ cấp của ngân sách cấp trên.
Thứ hai, chính cách thuế đang tiếp tục hoàn thiện và còn nhiều vấn đề cần giải quyết, nhất là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế quyền sử dụng đất. Chính sách động viên chưa khuyến khích sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kết cấu hạ tầng… Việc làm cho các chính sách thuế đơn gian, rõ ràng, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, kiểm soát vẫn chưa đạt được. Việc hướng dẫn các văn bản pháp lật còn máy móc, thiếu thực tế nên thường xuyên diễn ra tình trạng trùng chéo, không rõ ràng, vừa gây khó khăn cho người thực hiện, vừa gây cản trở cho công tác thanh tra, giám sát.
Thứ ba, công tác quản lý và điều hành thu NSNN còn tồn tại tình trạng thất thu, trốn thuế, lậu thuế, nhất là việc thoái trả thuế giá trị gia tăng. Kiểm soát thu nhập cá nhân để làm cơ sở thu thuế thu nhập chưa thực hiện được.
Thứ tư, công tác quản lý và giám sát tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lỏng lẻo dẫn đến chất lượng công trình không cao và tình trạng tiêu cực, thất thoát, lãng phí diễn ra khá phổ biến. Nợ xây dựng cơ bản lớn (năm 2003 là trên 11.000 tỷ đồng) và kéo dài có nguyên nhân do công tác lập dự án, chuẩn bị đầu tư, quản lý vốn còn hạn chế trong điều kiện phải đi vay vốn, từ đó dẫn đến việc xử lý nợ không dứt điểm, không triệt để, tạo ngánh nặng phải trả nợ cho NSNN.
Thứ năm, sức ép tăng chi NSNN vẫn còn lớn do nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế – xã hội ngày càng cao, trong khi sự phân bố NSNN còn dàn trải, chưa chú ý hiệu quả kinh tế – xã hội. Do sự hạn hẹp của NSNN mà định mức chi NSNN mới chỉ thực hiện được nhiệm vụ duy trì mà chưa mang tính thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh tế – xã hội.
Thứ sáu, chủ trương xã hội hoá một số khoản chi (như giáo dục, y tế, văn hoá) chưa được nhận thức đầy đủ, quán triệt kịp thời, phổ biến rộng rãi, dẫn đến triển khai chậm, quản lý chưa tốt. Công tác quản lý và giám sát tài chính thiếu tập trung, chưa chặt chẽ. Quan hệ giữa NSNN và doanh nghiệp Nhà nước còn lẫn lộn giữa bao cấp và tài trợ hợp lý dẫn đến sự bảo hộ quá mức của NSNN, tạo ra tư tưởng thụ động, ỷ lại, trong chờ, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập.
Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên, chủ yếu là chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa tỷ lệ động viên GDP vào NSNN đang có xu hướng giảm, trong khi nhu cầu chi NSNN luôn đòi hỏi rất lớn, tốc độ tăng chi có xu hướng doãng dần so với tốc độ tăng thu, thuế xuất nhập khẩu bị giảm do thực hiện các cam kết trong qúa trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thất thu lớn, vấn đề “hậu kiểm” chưa được quan tâm đúng mức, nộp ngân sách chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang thực hiện ưu đãi cho nhiều dự án… là những nhân tố tiềm ẩn gây căng thẳng trong cân đối ngân sách Nhà nước.
Việc chi NSNN vẫn dành bao cấp cho một số lĩnh vực (bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp), cho một số khoản chi không thuộc phạm vi bảo đảm của NSNN (như chi cho các hiệp hội quần chúng, hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước, chi sự nghiệp trong các tổng công ty Nhà nước…). Tỷ trọng chi dành co lương quá lớn do bộ máy quản lý cồng kềnh nên mức lương bình quân cho mỗi cán bộ công nhân thấp. Ngân sách phải chi cho các đối tượng thuộc diện trợ cấp xã hội còn lớn, trong khi chính sách xã hội hoá các nguồn lực để đầu tư cho một số lĩnh vực (giáo dục, y tế, văn hoá…) tiến hành còn chậm.
c. Giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN
Mục tiêu năng cao hiệu quả sử dụng NSNN không thể tách rời mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Đặc biệt là, tăng cường nền tảng của thu NSNN phải đi đôi với tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, loại bỏ dần những nguy cơ mất ổn định của NSNN. Để từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, chính sách thu NSNN cần phải được hoạch định theo hướng động viên hợp lý các nguồn lực của nền kinh tế. Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước – doanh nghiệp và xã hội, củng cố quốc phòng và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế; tạo động lực cần thiết cho các doanh nghiệp trập trung vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách thu NSNN phải chú trọng đến xu hướng hội nhập kinh tế và hợp tác quốc tế, nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu nguồn thu để vừa thực hiện tốt các cam kết quốc tế, vừa đảm bảo nguồn thu NSNN.
Hai là, việc chi NSNN cần được cơ cấu lại theo hướng tiết kệm, hiệu quả, có lộ trình hợp lý, cắt giảm dần các khoản chi bao cấp, bao viện. Việc bố trí chi NSNN phải được cân nhắc trên cơ sở phối hợp giữa vốn của NSNN với các nguồn lực tài chính khác trong toàn xã hội để đảm bảo tính thiết thực và hiệu quả. Từ đó, góp phần phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia công bằng và hợp lý giữa các vùng, miền trong cả nước. Thực hiện cân đối NSNN tích cực theo nguyên tắc thu từ thuế, phí phải lớn hơn chi thường xuyên, có tích luỹ cho đầu tư phát triển.Bội chi ngân sách phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, không phát hành thêm tiền, hạn chế tối đa vay thương mại nước ngoài để bù đáp bội chi NSNN. Cân đối thu, chi ngân sách địa phương theo nguyên tắc chi phải cân bằng với thu, tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên; bảo đảm tiết kiệm chi thường xuyên để tạo tích luỹ nội bộ từ NSNN cho đầu tư phát triển.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành NSNN; hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSNN; tổ chức nghiên cứu ban hành mới hệ thống định mức chi tiêu NSNN; đổi mới quy trình phân bố ngân sách, thực hiện cấp phát, thanh toán trực tiếp qua kho bạc cho người thụ hưởng ngân sách để xoá bỏ việc cấp phát qua nhiều khâu; nghiên cứu sửa đổi chế độ kế toán, quyết toán và kiểm toán ngân sáhc, thực hiện công khai và minh bạch hoá ngân sách các cấp; ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấpngân sách để phát huy tính tự chủ, năng động của hcính quyền địa phương trong quản lý và điều hành ngân sách phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương trong khuôn khổ chung của Luật NSNN.
Bốn là, tiếp tục hoàn thành chính sách thuế theo hướng giảm dần thuế suất, giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất, giảm dần các ưu đãi, miễn giảm thuế, mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế, bảo đảm nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong và nước ngoài, góp phần đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh. Đồng thời điều chỉnh lại các sắc thuế và thuế suất cho phù hợp với yêu cầu phát triển, mở cửa, hội nhập kinh tế và thực hiện các cam kết quốc tế. Sửa đổi và hoàn thiện các loại thuế gián thu; nâng dần tỷ trọng của thuế gián thu trong tổng thu NSNN theo bước đi thích hợp, trong đó đặc biệt chú trọng đến triển khai áp dụng thống nhất chế độ thuế thu nhập cá nhân để xác định thói quen đóng thuế trong nhân dân, tạo dựng môi trường bình đẳng, thống nhất cho việc thiết lập các chế độ thuế và các chính sách tài chính khác, góp phần cải thiện sự công bằng bình đẳng trong xã hội và tăng nguồn thu cho NSNN.
Năm là, rá soát lại các chế độ thu ngân sách hiện hành theo hướng bao quát tất cả các lĩnh vực hoạt động, phù hợp với điều kiện chung của nền kinh tế, điều kiện riêng của từng ngành, khuyến khích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm, khuyến khích suất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng của Nhà nước; tiếp thục hoàn thiện chính sách thu phí, lệ phí và chế độ huy động các khoản đóng góp của nhân dân. Tăng cường các biện pháp chống gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế bằng việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính.
Về chi NSNN cần đảm bảo duy trì sự hoạt động của bộ máy Nhà nước, củng cố quốc phòng – an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hoá, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Chi đầu tư từ nguồn NSNN phải được thực hiện tập trung, dứt điểm theo từng công trình, đáp ứng yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả, định hướng đầu tư xã hội, thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Chú ý tập trung chi đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm để tạo động lực phát triển cho cả nền kinh tế, tạo cơ sở giải quyết tốt yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; bố trí hợp lý các khoản dự phòng, dự trữ tài chính và trả nợ.
Sáu là, tiếp tục đổi mới các hcính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho việc thúc đẩy xuất khẩu, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường mới. Mở rộng hệ thống bảo hiểm và an ninh xã hội nhằm huy động sự tham gia của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội. Cơ chế quản lý thống nhất, chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, chú trọng đổi mới quản lý các khoản chi từ nguồn vốn nước ngoài, vốn sự nghiệp kinh tế, vốn chương trình mục tiêu quốc gia. Mở rộng phạm vi xã hội hoá một số khoản chi NSNN, thực hiện cơ chế tự trang trải chi tiêu, xây dựng mô hình tự lo chi phí ở một số đơn vị hành chính sự nghiệp cung cấp các dịnh vụ công cộng, thay thế phương thức cấp kinh phí trực tiếp bằng việc Nhà nước mua sản phẩm theo giá cả phù hợp với chất lượng và tiến độ.
Bảy là, cải cách cơ bản chế độ tiền lương, giải quyết dứt điểm những bất hợp lý trong chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ yếu, kết hợp vói các hình thức phân phối khác nhằm bảo đảm phân phối công bằng trong xã hội. Củng cố và sắp xếp lại hệ thống các quỹ hiện có nhằm đổi mới phương thức quản lý, nâng cao khả năng bảo toàn, phát triển vốn và chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn; bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư và an toàn tài chính. Đa dạng hoá các công cụ hoạt động và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ, các quỹ đầu tư nhằm động viên sự tham gia đóng góp của cộng đồng và của nước ngoài hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ.
Tám là, tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế quản lý và điều hành NSNN. Đổi mới quy trình thành lập, chấp hành và quyết toán NSNN các cấp theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bao đảm tính kịp thời, đầy đủ, chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện đại hoá hệ thống thống kê, kế toán, dự báo nhằm nâng cao hiệu quả của công tác điều hành NSNN. Chủ động và sử dụng linh hoạt các giải pháp tài khoá “nới lỏng” hay “thắt chặt” cho phù hợp với diễn biến và tình hình thực tế. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn cũng như cơ chế phối hợp, kết hợp giữa các cơ quan có liên quan đến thu và chi NSNN. Cải thiện môi trường pháp lý về NSNN để quản lý và điều hành nền tài chính quốc gia bằng pháp luật và ban hành các cơ chế, chính sách dựa trên cơ sở chủ yếu là Luật NSNN đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 2, thông qua.
2. Thuế
a. Khái niệm, ý nghĩa và tầm quan trọng của thuế trong điều chỉnh vĩ mô của nhà nước.
Thuế là một hình thức phân phối lại được Nhà nước sử dụng để động viên một phần thu nhập của các pháp nhân và thể nhân, là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh mà Nhà nước bắt buộc mọi người dân hoặc các tổ chức kinh tế phải nộp cho NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình.Khoản nộp về thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả dưới dạng gián tiếp thông qua các trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng. Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan, xuất hiện và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của Nhà nước và sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư. Để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của mình và của xã hội, Nhà nước phải dùng quyền lực để tham dự vào việc phân phối một phần sản phẩm xã hội, đặt ra chế độ thuế buộc mọi người dân phải đóng góp. Phương thức động viên tài chính đầu tiên xuất hiện trong lịch sử, đó là thuế.
Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội, sự phát triển ngày càng cao của kinh tế hàng hoá, tiền tệ, sự gia tăng mạnh mẽ của quyền lực Nhà nước đã phát sinh những chi tiêu to lớn và làm nảy sinh những biến đổi mới về thuế, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và phát triển có tính hệ thống. Với những bước tiến của lịch sử, chỉ dùng thuế không đủ, Nhà nước còn phải phát hành công trái hoặc phát hành thêm giấy bạc, nhưng thuế vẫnlà phương thức đông viên tài chính chủ yếu của Nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau. Hiện nay, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước ta, chiếm xấp xỉ 85% tổng số thu NSNN. Nó đã đảm bảo được các khoản chi thường xuyên và trả nợ của NSNN. Điều này đã chứng minh vai trò và ý nghĩa quan trọng của thuế đối với nền tài chính nước ta.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường thì sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu khách quan, không thể là sự can thiệp tuỳ tiện bằng mệnh lệnh hành chính, mà là tìm tòi những phương thức và công cụ có hiệu quả để quy luật giá trị và các quy luật khác của nền sản xuất hàng hoá có điều kiện phát huy đầy đủ tác dụng, khắc phục tính tự phát của thị trường. Nhà nước điều chỉnh thị trường bằng chiến lược và kế hoạch định hướng, bằng chính sách và công cụ kinh tế như giá cả, lãi suất, thuế là chủ yếu. Sự điều chỉnh của Nhà nước phải nhanh nhạy và linh hoạt để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, có hiệu quả và công bằng xã hội. Nhà nước điều khiển thị trường và thị trường định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp. Trong nhiều công cụ kinh tế được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thì thuế là một phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt. Một chính sách thuế được ban hành hợp lý, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thì nó sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ và lạc hậu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, ổn định và lâu dài. Ngược lại, một chính sách thuế không phù hợp sẽ trở thành một vật cản, gây trở ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có thể gây nên khủng hoảng kinh tế chính trị.
b. Vai trò của Thuế trong điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, thuế có ba vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, thuế là công cụ để huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN. Huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN là vai trò chủ yếu của nhiều chính sách thuế. Bất kỳ Nhà nước nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Thuế là nguồn vật chất quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của bộ máy quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, thuế góp phần điều chỉnh kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu tư và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế. Căn cứ vào tình huống cụ thể, Nhà nước có thể chủ động điều hành về thuế. Lúc hoàn cảnh kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng thuế sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự phát triển kinh tế. Lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút, sản suất suy thoái thì việc hạ thấp thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu tổng thể, nhờ đó mà xúc tiến phục hưng kinh tế. Thuế có tác động trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ và đầu tư.
Việc quy định thuế lợi tức, thuế ưu đãi đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích như sản xuất nhiều hàng hoá xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu cần thiết, đầu tư vào những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, không thuận lợi…là nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách đồng bộ trong cả nước theo hướng có lợi.
Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng thiét yếu, phổ thông Nhà nước tác động làm cho giá cả hạ, tiêu dùng tăng lên đáng kể, cũng qua đó cho phép doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế cao. Áp dụng thuế suất cao đối với hàng hoá xa xỉ, dịch vụ cao cấp sẽ tác động làm cho giá cả tăng, giảm mức tiêu dùng sản xuất. Như vậy thuế không những có ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ý muốn.
Đối với thuế xuất nhập khẩu, thông qua việc xác định các mặt hàng chịu thuế tương ứng với các mức thuế suất có phân biệt, Nhà nước đã phát huy tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thúc đẩy các hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu theo định hướng đã đề ra.
Thứ ba, thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung, tạo hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu có lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc sống vẫn không được cải thiện. Tình trạng trên chẳng những liên quan tới vấn đề đạo đức công bằng mà còn tạo nên sự đối lập giai cấp, và làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước. Trong thực tiễn sự, phát triển kinh tế của một quốc gia; là kết quả nỗ lực cộng đồng của toàn dân, mội thành viên trong xã hội đều có ngững đóng góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế, nếu không chia sẻ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế.
Việc điều hoà thu nhập được thể hiện qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh cao vào những mặt hành dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của người giàu, hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc cá nhân có thu nhập. Nhìn chung đối tượng càng có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, có thu nhập thấp thì nộp ít, thu nhập chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình thường thì không phải nộp thuế. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng xã hội. Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển dịch thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp, để rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
c. Thực trạng
Sau gần ba năm thực hiện chiến lược cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2001 – 2010, đến nay chúng ta đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ:
Vai trò huy động nguồn thu cho NSNN đã được thực hiện và phát huy mạnh mẽ trong thực tiễn cuộc sống. Thuế đã dược ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh, tính pháp lý của chính sách thuế đã được nêu lên rõ rệt nên đã có tác dụng nâng cao quyền lực của Nhà nước trong việc thu thuế và ý thức trách nhiệm của người nộp thuế. Nguồn thu về thuế đã tăng lên đáng kể, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN và đáp ứng dược yêu cầu chi thường xuyên và trở nợ nước ngoài của NSNN, góp phần chống lạm phát và ổn định vật giá.
Chúng ta đã thực hiện được một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Điều này không những phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, mà còn đặt ra đòi hỏi cácc doanh nghiệp quốc doanh phải vươn lên hoạt động có hiệu quả, khắc phục dần hiện tượng ỷ lại vào Nhà nước, hạn chế được những lợi dụng mức chênh lệch về thuế trước đây để trốn, lậu thuế dưới hình thức núp bóng quốc doanh, tập thể.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế hiện hành còn tồn tại nhiều hạn chế sau:
Hệ thống thuế chưa bao quát được hết nguồn thu. Với sự phát triển của kinh tế thị trường, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh mới, đối tượng thu mới đã và đang xuất hiện, cho đến nay ta vẫn chưa có chính sách thu hoặc chưa nghiên cứu định hướng thu cho phù hợp như: hoạt động kinh doanh bất động sản, hoạt động sản xuất kinh doanh của doang nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư ở nước ngoài, dịch vụ môi giới đầu tư, công ty cổ phần… Động viên về thuế hiện hành cũng chưa đề cập đến việc phân phối lại một phần vào tích luỹ của quá khứ như thuế tài sản, thuế thừa kế… Hoặc ngay trong từng sắc thuế, diện thu thuế cũng còn bị hạn chế chưa được nghiên cứu mở rộng, như chưa thực hiện thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu, dịch vụ cao cấp…hoặc một số mặt hàng nhập khẩu nhằm hạn chế để bảo vệ sản xuất nội địa và thúc đẩy phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu.
Chính sách thuế của ta còn phức tạp, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với điều kiện, trình độ của người thu và nộp thuế. Tính chất gián thu và trực thu còn lẫn lộn trong các chính sách thuế, chưa có sự phân biệt rõ ràng. Do mỗi sắc thuế hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cùng một lúc nên cơ cấu thuế suất thường phức tạp, có nhiều thuế suất khác nhau. Thậm chí trong cùng một ngành nghề cũng phân biệt thuế suất khá chênh lệch.
Nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không xá định rõ những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ áp dụng các mức thuế khác nhau nên đã gây khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, dễ gây tuỳ tiện và tiêu cực khi thực hiện. Biểu thuế suất, thuế nhập khẩu hiện có tới 50.000 mặt hàng khác nhau, có nhiều loại không thể xếp vào loại , chương, n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC2105.doc