Môi trường liên quan đến công nghệ. Các quy định về quy trình công nghệ sản xuất liên quan đến việc chứng nhận một sản phẩm có thân thiện với môi trường không đã trở thành một điều kiện tham gia vào thị trường. Nếu doanh nghiệp nước ta không cải tiến công nghệ, vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm thì sẽ gặp rào cản khi tham gia thị trường quốc tế.
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý chất lượng môi trường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háy hơn là phòng ngay từ đầu. Do đó, vấn đề QLMT hiện nay được giải quyết một cách hệ thống hơn do một số nguyên nhân. Trước hết, vấn đề chi phí thực hiện bảo vệ môi trường là một yếu tố rất quan trọng. Người ta cho rằng, chi phí về vấn đề môi trường sẽ tỷ lệ thuận với thu nhập của công ty (2% lợi nhuận doanh nghiệp). Vì vậy, ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến việc thực hiện nghiêm túc các quy định về môi trường nhằm hạn chế những phí tổn có thể phát sinh, thông thường doanh nghiệp trích 20% vốn đầu tư doanh nghiệp sẽ phải dành cho các dự án môi trường. Các tổ chức tài chính bây giờ cũng rất thận trọng, nhạy cảm đối với vấn đề môi trường và đã quan tâm xem xét những vấn đề đó trong việc cho vay. Ngày nay trên thế giới không chỉ có xu hướng quốc tế hoá kinh tế mà còn có xu hướng toàn cầu hoá vấn đề môi trường để vươn tới sự phát triển bền vững.
Hiện nay, người ta đã nghiên cứu tạo lập một phương thức mới trong việc QLMT, làm cho nó chuyển từ chức năng phù hợp sang chức năng mới, hoà nhập với quá trình xây dựng chiến lược và hoạt động. Việc QLMT không thể chỉ phụ thuộc vào việc kiểm soát ở giai đoạn cuối như trước mà việc ngăn ngừa ô nhiễm và những vấn đề môi trường khác cần phải được xem xét trên mọi phương diện của các quá trình thiết kế, chế tạo và phân phối.
1.3. Tại sao doanh nghiệp phải quan tâm đến QLMT?
QLMT là một phương thức hệ thống để chăm lo tới mọi khía cạnh có liên quan tới môi trường trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của một tổ chức. Nó phải được xem như là một bộ phận gắn liền trong hoạt động và chiến lược kinh doanh của tổ chức. Việc doanh nghiệp phải quan tâm đến quản lý môi trường là do:
-Pháp luật và những sự ép buộc khác đối với doanh nghiệp.
-áp lực về nhận thức, về danh tiếng, quan hệ cộng đồng.
-Tính cạnh tranh và hoạt động tài chính.
2. Hệ thống quản lý môi trường
2.1. ISO và sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO 14000
Tổ chức tiêu chuẩn hoá (ISO) là một tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá. Hiện nay, ISO có trên 120 thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc gia, Việt Nam tham gia là thành viên đầy đủ của ISO từ năm 1977 và đang có sự tham gia tích cực vào hoạt động của tổ chức này.
Trong những năm 1980 ISO đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ tiêu chuẩn hoá một vấn đề quản lý quan trọng của doanh nghiệp là quản lý chất lượng. Ban kỹ thuật TC 176 về đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng được thành lập để xây dựng các tiêu chuẩn đầu tiên về quản lý chất lượng.Đến năm 1981 bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã được ban hành. Đây là một bộ tiêu chuẩn mang lại tiếng tăm và sự thành công nhất trong lịch sử của ISO, đa số các quốc gia trên thế giới đã chấp nhận các tiêu chuẩn ISO 9000 thành các tiêu chuẩn quốc gia để đưa vào áp dụng một cách rộng rãi.
Trong cùng thời kỳ, khi mà ISO đang gặt hái được các kết quả khả quan trong việc đưa ra áp dụng các tiêu chuẩn ISO 9000 thì trên diễn đàn môi trường thế giới đang diễn ra nhiều sự kiện gây xôn xao nhiều giới chức của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế. Sự huỷ hoại tầng ôzôn, sự nóng lên toàn cầu, sự phá rừng nghiêm trọng và các vấn đề môi trường khác được xem như là các vấn đề mang tính toàn cầu. Đại diện của nhiều quốc gia có quan tâm đã gặp nhau tại Montreal - Canada vào năm 1987 để soạn thảo các thoả thuận nhằm ngăn cản sự sản xuẩt ra các hoá chất gây hại như CFC. Một yếu tố khác vào thời điểm này đã gây nhiều sự quan tâm quốc tế chưa có một chỉ số tổng hợp để đánh giá sự cố gắng nỗ lực của một doanh nghiệp trong việc đạt được thành quả bảo vệ môi trường một cách liên tục và đáng tin cậy. Chính loại chỉ số này đã hình thành nên tiêu chuẩn ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường. Tóm lại, sự thành công của ISO 9000 và sự nổi lên của các vấn đề môi trường toàn cầu đã đẫn đến việc ISO thực sự bắt đầu các công việc xem xét đến diễn đàn môi trường.
Tuy nhiên chỉ đến năm 1991, ISO mới thực chất khởi sự công việc này. Vào giữa những năm 1991, trên cơ sở các yêu cầu của ban tổ chức UNCED, ISO đã kêu gọi các thành viên tình nguyện tham gia nhóm tư vấn chiến lược về môi trường (SAGE) SAGE đã quyết định vào giữa năm 1992 là thời điểm ISO bắt tay vào xây dựng các tiêu chuẩn về QLMT. Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (6/1992) tại Rio và Hội nghị Bàn tròn Uruguay (GATT) là sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ nhất đến quyết định của ISO về vấn đề tiêu chuẩn hoá trong lĩnh vực quản lý môi trường.
Căn cứ vào khuyến nghị của SAGE, năm 1993, ISO đã quyết định thành lập Ban kỹ thuật ISO/TC 207 về QLMT, với nhiệm vụ đặt ra là soạn thảo các tiêu chuẩn Quốc tế về QLMT bao gồm các tiêu chuẩn về hệ thống và công cụ QLMT, về các phương pháp xác định tác nhân gây ô nhiễm môi trường, giá trị giới hạn đối với chất thải, tác động của công nghệ, sản phẩm đối với môi trường. Các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực QLMT được tập hợp theo số đăng ký chung thành Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000.
2.2. Sự cần thiết phải áp dụng tiêu chuẩn ISO 14000
Hiện nay, hàng ngàn các tổ chức, cơ sở trên toàn thế giới đang đầu tư thời gian và tiền bạc vào việc áp dụng các tiêu chuẩn ISO 14000. Và hàng chục ngàn các tổ chức, cơ sở này sẽ tiến tới được đăng ký, chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn trong vài thập kỷ tới. Những người theo chủ nghĩa hoài nghi có thể sẽ hỏi: tại sao họ lại phải đầu tư thời gian và tiền bạc cho việc áp dụng một tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng như vậy?Hoặc điều đó mang lại gì? Nhưng ở đây ta chỉ xét đến các nguyên nhân cơ bản từ đó khách quan dẫn đến việc các tổ chức cơ sở áp dụng ISO 14000.
Một là, việc tăng cường sử dụng những tiêu chuẩn tự nguyện đã được tăng cường hơn trước. Thoả thuận chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) đã chính thức tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng những tiêu chuẩn quốc tế thông qua thoả thuận về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT).
Hai là, tinh giản thủ tục, hạn chế trùng lặp. Việc áp dụng một tiêu chuẩn quốc tế quy nhất có thể làm giảm bớt những công việc kiểm định do khách hàng, các nhà chức trách tiến hành. Một khi tránh được những yêu cầu không nhất quán, các tập đoàn đa quốc gia có thể tiết kiệm được chi phí thanh tra, xác nhận và các yêu cầu không nhất quán khác.
Ba là, yêu cầu thực tế. Việc thực hiện một EMS phù hợp với các tiêu chuẩn ISO 14000 và hoàn thành thủ tục đăng ký 3 bên rất có thể trở thành nhu cầu thực tế trong kinh doanh xu hướng chung hiện nay là các công ty muốn giao dịch với những công ty có ý thức về vấn đề môi trường.
Bốn là, chấp thuận của chính phủ chủ trương của chính phủ là một nhân tố quan trọng khác đối với ISO 14000. Chính phủ của các nước phát triển với những quy định chặt chẽ về môi trường đã quan tâm tới ISO 14000 như một phương thức mới thay cho những quy định chỉ huy và kiểm soát phức tạp và đòi hỏi nhiều kinh phí. Các nước đang phát triển thì chú ý tới ISO 14000 và coi nó như một giải pháp để xây dựng các quy chế chưa có hoặc chưa đầy đủ về mặt QLMT. Nói chung, việc đăng ký ISO 14000 có thể đã hỗ trợ các chính phủ để tăng cường hiệu quả của hệ thống pháp quy.
Năm là, đáp ứng nhu cầu của cổ đông. Các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu của đông đảo các cổ đông bao gồm các nhà đầu tư, công chúng và các nhóm chuyên trách về môi trường. Việc đăng ký ISO 14000 có thể đáp ứng được nhu cầu của công chúng về trách nhiệm của doanh nghiệp, đồng thời tạo niềm tin, uy tín trên thương trường đối với các nhà đầu tư.
Sáu là, giảm thiểu chi phí bảo hiểm và tăng cường khả năng tích luỹ việc thực hiện một EMS hữu hiệu có thể tạo điều kiện tiết kiệm kinh phí trong tương lai thông qua việc giảm bớt chi phí bảo hiểm. Một số nhà đầu tư có thiết chế lớn như các quỹ trợ cấp đã bắt đầu thực hiện chủ trương quyết định đầu tư trên cơ sở thành tích bảo vệ môi trường của một tổ chức. Điều đó khiến cho việc QLMT được gắn kiền với mức độ tích luỹ của một công ty.
Bảy là, lợi ích nội bộ ISO 14000 có thể cung cấp một cơ chế để kiểm soát các phương pháp quản lý hiện có, hợp nhất những hệ thống riêng rẽ hoặc xây dựng những hệ thống mới. Nó cũng giúp cho các công ty theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện của mình. Nó cũng hỗ trợ việc đào tạo các nhân viên về trách nhiệm của họ đối với việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Một EMS hữu hiệu có thể hợp nhất những hệ thống quản lý hữu hiệu để tiết kiệm kinh phí và giảm bớt tình trạng chồng chéo công việc.
Tám là, đề phòng ô nhiễm. Mấu chốt của việc đề phòng ô nhiễm là ở chỗ tiến hành thành công việc kết hợp các vấn đề môi trường, chiến dịch kinh doanh và hoạt động tác nghiệp. Đồng thời nó có tác dụng làm giảm kinh phí thông qua việc tiết kiệm nguyên vật liệu và năng lượng.
Chín là, thành tích tốt đẹp trong việc bảo vệ môi trường. Sức ép của các cổ đông, sự cạnh tranh thị trường, sự khuyến khích và thừa nhận của các cơ quan Nhà nước đang tạo nên những điều kiện ưu tiên cho nhiều công ty có thể đạt được những thành tích tốt đẹp trong việc bảo vệ môi trường.
Tóm lại, các tiêu chuẩn ISO 14000 sẽ là một nhân tố quan trọng trong việc phát triển và thương mại. Bởi vì, bản thân các tiêu chuẩn quốc tế được ban hành để hỗ trợ cho thương mại và gỡ bỏ hàng rào thương mại; cải thiện kết quả hoạt động môi trường trong phạm vi toàn cầu; xây dựng trên cơ sở thoả thuận có tính toàn cầu rằng có nhu cầu với việc quản lý môi trường.
2.3. Các nguyên tắc của bộ tiêu chuẩn ISO 14000
Bộ tiêu chuẩn hoá ISO 14000 được xây dựng với những nguyên tắc cơ bản sau:
- Thúc đẩy việc QLMT thông qua việc xúc tiến các kỹ thuật quản lý hiệu quả, hiệu suất và thống nhất.
- Xây dựng một tiêu chuẩn về QLMT dựa trên cơ sở khoa học và thực tế, phản ánh các thực hành tốt nhất hiện nay về QLMT.
- Xây dựng một tiêu chuẩn linh hoạt,không theo lề thói cũ và có hiệu quả về mặt chi phí, làm tăng giá trị của tổ chức có sử dụng tiêu chuẩn này.
- Không khuyến khích sử dụng bộ tiêu chuẩn về QLMT như một rào cản thương mại.
-Hài hoà tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống QLMT với các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực (địa phương).
-Tránh lập các mức cho các kết quả hoạt động môi trường đặc thù các mục tiêu, các chỉ tiêu, chính sách môi trường hoặc là mức cải thiện môi trường.
-Tạo ra một tiêu chuẩn về QLMT có thể sử dụng cho nội bộ công ty và cho các cơ quan chứng nhận bên thứ ba ở bên ngoài công ty (cơ quan chứng nhận, đăng ký)
-Tránh có bất kỳ tiêu chuẩn về QLMT nào đưa ra các yêu cầu công ty phải tiết lộ các mục đích, chính sách hoặc là chỉ tiêu môi trường của mình cho công chúng.
-Xây dựng các tiêu chuẩn môi trường thông qua dự thoả thuận của các bên có quan tâm để các tổ chức chịu sự tác động đến quyền lợi của tất cả các bên chấp nhận một cách tự nguyện.
-Hài hoà và giảm thiểu các tiêu chuẩn QLMT để tránh trùng lặp và các chi phí không cần thiết.
2.4. Một số nét cơ bản về Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000
Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000 đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc QLMT nhằm thiết lập hệ thống QLMT và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như kiểm tra đánh giá môi trường, nhãn môi trường, phân tích chu trình sống của sản phẩm các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn về sản phẩm.
Bộ ISO 14000 đề cập đến 6 lĩnh vực sau:
Hệ thống quản lý môi trường (Environmental Management Sysems).
Kiểm tra đánh giá môi trường (Environmental Auditing - EA)
Đánh giá kết quả hoạt động môi trường (Environmental Perfoemance Evahiation - EPE).
Đánh giá chu trình sống của sản phẩm (Life Cycle Assessment - LCA)
Các khía cạnh môi trường trong các tiêu chuẩn về sản phẩm (Environmental Aspects in Product Standards - EAPS)
2.5. Lợi ích của việc áp dụng hệ thống QLMT theo ISO 14000
Một doanh nghiệp cần thực hiện một hệ thống QLMT có hiệu quả để giúp bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường khỏi các tác động tiềm tàng của những hoạt động, sản phẩm và dịch vụ của mình giúp cho việc duy trì và cải thiện chất lượng môi trường. Những lợi ích tiềm tàng gắn liền với một hệ thống QLMT có hiệu quả bao gồm:
-Đảm bảo cho khách hàng những cam kết về QLMT
-Duy trì được những quan hệ tốt với quần chúng, cộng đồng.
-Thoả mãn chuẩn cứ của người đầu tư và cải tiến sự tiếp cận với vốn
-Có được hợp đồng bảo hiểm với chi phí hợp lý.
-Tăng cường uy tín và thị phần.
-Đáp ứng được chuẩn cứ chứng nhận của người cung cấp.
-Cải tiến việc kiểm soát chi phí.
-Giảm được các rắc rối về pháp lý.
-Chứng tỏ được sự quan tâm hợp lý.
-Bảo toàn được nguyên vật liệu và năng lượng đầu vào.
-Làm dễ dàng cho việc có được giấy phép và sự uỷ quyền.
-Tăng cường sự phát triển và chia sẻ các giải pháp về môi trường.
-Cải thiện các mối quan hệ giữa công nghiệp - Chính phủ.
2.6 Khó khăn khi áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000
Bên cạnh những lợi ích mà ISO 14000 đem lại, khi áp dụng hệ thống QLMT, các doanh nghiệp gặp một số khó khăn như sau:
-Việc thực hiện một hệ thống QLMT toàn diện đòi hỏi một kinh phí đáng kể
-Lãnh đạo của một số doanh nghiệp chưa hiểu được vai trò áp dụng hệ thống ISO 14000
-Sử dụng không đúng đắn các tiêu chuẩn có thể gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh toàn cầu thông qua những hàng rào thương mại kỹ thuật.
2.7 Mối quan hệ giữa bộ tiêu chuẩn ISO 14000 và ISO 9000
Như ở mục 2.1 ta đã biết lịch sử hình thành của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là do tác động của sự thành công bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và các hoạt động bảo vệ môi trường. Ngày nay, hai bộ tiêu chuẩn này tồn tại song song và hỗ trợ lẫn nhau đối với công tác quản lý một doanh nghiệp. Cả hai bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá như là một công cụ quản lý có hiệu quả trong việc kiểm tra và đánh giá mức độ hiệu quả của các chính sách của tổ chức khi quản lý chất lượng môi trường. Vì vậy,một doanh nghiệp áp dụng thành công hai bộ tiêu chuẩn này sẽ đem lại những lợi ích kinh tế lớn.
Các tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 đều có cùng phương pháp cấu trúc. Tuy nhiên người ta thường phê phán ISO 9000 ở chỗ chủ yếu hướng tới việc thiết lập và vận hành một hệ thống quản lý được văn bản hoá tốt,chưa hướng tới hệ thống đảm bảo cho việc sản xuất ta sản phẩm có chất lượng cao. Còn đối với ISO 14000 sự phê phán là: bộ tiêu chuẩn này chưa hướng trọng tâm vào việc đảm bảo mức chất lượng môi trường.
Phần ii: thực trạng tiêu chuẩn về chất lượng và hệ thống quản lý môi trường tại các doanh nghiệp công nghiệp việt nam hiện nay
I- Thực trạng môi trường các doanh nghiệp công nghiệp
Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam (DNCNVN) hiện nay không chỉ chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn rất quan tâm đến vấn đề môi trường.Vấn đề môi trường là mối nguy hại lớn nhất của Việt Nam hiện nay.ở nước ta hiện có 3311 cơ sở sản xuất kinh doanh đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Ngành sản xuất thực phẩm có tới 1217 đơn vị chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ sở sản xuất với 36,7 %.Tiếp theo là các ngành hóa chất,vật liệu xây dựng như xi măng,sắt thép thể hiện qua bảng sau:
STT
Ngành
Tỷ lệ (%)
1
2
3
4
5
6
7
8
Công nghệ thực phẩm
Công nghiệp hóa chất
Vật liệu xây dựng
Thủ công nghiệp
Công nghiệp nhẹ
Công nghiệp nặng
Dịch vụ
Công nghiệp điện,điện tử
36,76
13,81
13,05
12,26
10,84
9,03
3,71
0,54
Cộng
100
Theo báo cáo hiện trạng môi trường năm 2000 có gần 90% cơ sở sản xuất chưa có thiết bị xử lý nước thải,trong khi chỉ có 5 trong tổng số khu công nghiệp cả nước có hệ thống xử lý tập trung. Chẳng hạn, xí nghiệp dệt 8-3(Hà Nội) một ngày có 4500 mét khối nước thải, thì lượng ô nhiễm tính theo kg/ngày riêng BOD là 365,COD là 868. Và Dệt Kim Đông Xuân có 2700 mét khối nước thải thì tải lượng ô nhiễm tính theo kg/ngày riêng BOD là 172, COD là 1620. Hầu hết các nhà máy chỉ tiến hành xử lý sơ bộ rồi thải thẳng ra sông.Theo số liệu thống kê, tất cả các con sông ở phía Bắc không có con sông nào chất lượng nước mặt đạt tiêu chuẩn loại A(nước dùng cho sinh hoạt). Ô nhiễm hữu cơ ở các sông phía Nam ở mức nặng hoặc axit hoá, kim loại hoá.
Bên cạnh đó tổng chất thải rắn công nghiệp trên toàn quốc hàng năm khoảng 7.750.226 tấn. Cho đến thời điểm hiện nay Việt Nam chưa quản lý chặt chẽ chất thải rắn công nghiệp nguy hại, phần lớn được thu gom và chôn lẫn với rác thải sinh hoạt. Theo số liệu điều tra tại Hà Nội, tỷ lệ chất thải nguy hại trên tổng chất thải ngành điện, điện tử là 89,5%, hoá chất 64%, cơ khí luyện kim là 52,4%...
Một vấn đề đang ở mức báo động là tình trạng ô nhiễm không khí tại các khu công nghiệp. Môi trường không khí ô nhiễm chủ yếu do các ngành công nghiệp hoá chất, luyện kim, vật liệu xây dựng…Chẳng hạn,tại các khu công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh sản xuất vật liệu xây dựng hàng năm thải vào môi trường không khí 624 tấn SO2, 12.973 tấn bụi, 153 tấn CO, 1636 tấn NO2 và 40 tấn hydrocabon.
Mặt khác,bức tranh toàn cảnh về hạ tầng bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn thiếu và ở mức thô sơ, ở đây chỉ đề cập đến hệ thống quan trắc và phân tích môi trường; hệ thống cấp nước sạch, tiêu thoát và xử lý nước thải, hệ thống thu gom, vận chuyển xử lý và thải bỏ chất thải rắn. Chẳng hạn cả nước có 3 cơ sở sản xuất phân bón từ rác, 6 lò đốt rác.
Nói chung môi trường các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay đang ở mức ô nhiễm trầm trọng. Sau đây là một số nguyên nhân chủ yếu:
- áp lực khai thác tài nguyên thiên nhiên.
-Các thành phần môi trường như đất, nước, không khí bị ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường xảy ra thường xuyên, chát lượng môi trường giảm.
-Các doanh nghiệp được thành lập trên một cơ sở hạ tầng thấp.
-Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, chuyên môn thấp.
-Nguồn đầu tư thiếu về công nghệ xử lý ô nhiễm, chất thải.
-Luật bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản dưới luật đang được hoàn thiện, công bằng.
-Ngành công nghiệp môi trường chưa phát triển.
-Hệ thống cơ quan quản lý môi trường từ trung ương đến địa phương rất mỏng.
-Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn chưa đầy đủ.
II- Thực trạng quản lý môi trường tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay.
Hoạt động QLMT trong các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự được các nhà lãnh đạo quan tâm. Phần lớn các doanh nghiệp còn chưa có phòng chuyên trách về môi trường. Do đó cán bộ chuyên môn về môi trường đào tạo ít và chưa chuyên sâu. Trong đó đặc biệt các doanh nghiệp may, cao su, thực phẩm… đa phần chua có công tác quản lý môi trường mặc dù các ngành này có tỷ lệ chất thải, khí thải,nước thải khá lớn.
Do chưa có sự quan tâm của các nhà lãnh đạo nên cán bộ công nhân viên chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động quản lý môi trường. Vì vậy vấn đề môi trường là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý, lãnh đạo ở Việt Nam vì môi trường nước ta đang suy thoái trầm trọng như đã nói ở trên. Vậy làm thế nào để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm do các doanh nghiệp gây ra mà vẫn đảm bảo được sụ phát triển bền vững? Phải chăng áp dụng ISO 14000 vè quản lý môi trường là thách thức và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam.
III- Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay
1- Sự cần thiết áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam cần quan tâm về bảo vệ môi trường trong một nền kinh tế mở cửa để Việt Nam hội nhập thương mại quốc tế bởi vì:
Môi trường liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.Việt Nam là một nước hướng về xuất khẩu nên phải áp dụng ISO 14000 là một tất yếu, đây là yếu tố quan trọng để duy trì sức cạnh tranh mang tính toàn cầu. Nước ta cũng nhập khẩu chủ yếu các nguyên liệu và công nghệ mà trong nước không sản xuất được. Tuy nhiên công nghệ nhập khẩu đôi khi kém hiện đại, lạc hậu do có những tiêu cực đã gây tác động xấu đến môi trường trong quá trình vận hành.
Môi trường liên quan đến công nghệ. Các quy định về quy trình công nghệ sản xuất liên quan đến việc chứng nhận một sản phẩm có thân thiện với môi trường không đã trở thành một điều kiện tham gia vào thị trường. Nếu doanh nghiệp nước ta không cải tiến công nghệ, vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm thì sẽ gặp rào cản khi tham gia thị trường quốc tế.
Môi trường và thương mại liên quan đến chất lượng sản phẩm. Chiến lược sản phẩm không chỉ giới hạn ở quản lý chất lượng thông thường mà còn bao hàm cả chất lượng môi trường. Các sản phẩm thân thiện với môi trường có thể tạo cơ hội cho công ty hạ giá thành sản phẩm thông qua việc giảm thiểu chất thải và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Môi trường và thương mại liên quan đến thị trường. Việc quan tâm đến môi trường và sự phát triển bền vững cũng là một chiến lược quan trọng hỗ trợ cho sự thành công trong kinh doanh của các công ty. Mặc dù xu thế thế giới hiện nay là hội nhập nhưng một số thị trường như EU, Nhật… thường tạo ra những hàng rào phi thuế quan mới thông qua những quy định về môi trường đối với hàng hoá nhằm hạn chế nhập khẩu.
Hệ thống QLMT trong các doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO 14001 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Nhiều hợp đồng thương mại, giao dịch thương mại đã đưa vấn đề chứng nhận ISO 14001 thành điều kiện ràng buộc hai bên. Đậc biệt, trong quá trình hội nhập khi các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ thì “hàng rào môi trường ISO 14001” hình thành và cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tóm lại, việc áp dụng hệ thống QLMT và ISO 14000 là rất hữu ích, nó cải thiện kết quả hoạt động môi trường của các doanh nghiệp, làm thuận lợi hoá hoạt động thương mại.
2- Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam hiện nay
Những năm gần đây, phong trào xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 ngày càng phát triển mạnh mẽ trong các doanh nghiệp. Tính đến nay, cả nước đã có gần 500 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000. Thế nhưng, hệ thống QLMT xem ra vẫn còn mới mẻ, ít được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư xây dựng. Theo thống kê hiện nay, đã có gần 20 doanh nghiệp ở Việt Nam đạt chứng chỉ ISO 14000. Đây là con số thật khiêm tốn so với gần 500 chứng chỉ ISO 9000.
Theo kết quả điều tra mới nhất của vụ chính sách kinh tế Đa Biên(Bộ thương mại), không ít các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa hiểu biết đầy đủ về các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Đối với họ, các tiêu chuẩn về vệ sinh kiểm dịch, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm và bao gói sản phẩm, đều thuộc khái niệm “chất lượng sản phẩm”. Nhiều khi các hoạt động cải tiến chất lượng sản phẩm chỉ mới tập chung vào việc nâng cao giá trị sử dụng, mẫu mã, chưa tập chung đúng mức vào các khiúa cạnh kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch(SPS) và môi trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chỉ nhìn nhận cách tốt nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm là áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000, chưa thấy được vai trò to lớn của bộ tiêu chuẩn ISO 14000, mặc dù điều này được quan tâm hơn ở các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu. Các doanh nghiệp hầu như không có thông tin về các hiệp định môi trường đa phương hoặc các quy đinh của WTO liên quan đến môi trường. Vấn đề môi trường mới chỉ được các doang nghiệp đề cập đến dưới góc độ bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất ví dụ như vấn đề xử lý chất thải… Tại thị trường nội địa, người tiêu dùng phần lớn chưa có nhận thức về hệ thống QLMT, nên hiện tại chưa có áp lực từ phía họ đối với nhà sản xuất, nhu cầu chứng nhận hệ thống quản lý môi trường là rất thấp.
Tuy nhiên, qua một thời gian tiếp cận với các thông tin về hệ thống QLMT theo ISO 14000 thông qua các lớp tập huấn đào tạo cũng như tiếp xúc với các hoạt động thực tế, một bộ phận của công nghiệp đã nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc áp dụng hệ thông QLMT, không chỉ đối với việc thực hiện các nghĩa vụ về môi trường theo pháp luật mà còn vì sự phát triển của công ty. Bộ phận này là các doanh nghiệp có tiềm năng về kinh tế như các doanh nghiệp nước ngoài …và có giao lưu quốc tế, thực sự quan tâm và có trình độ kỹ thuật cao.
3- Một số doanh nghiệp Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000.
Theo thống kê mới nhất, hiện nay nước ta có gần 20 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14000,trong đó phần lớn đều là các công ty liên doanh hoặc 100% vốn của nước ngoài như:khu công nghiệp Nội Bài, công ty TOYOTA Việt Nam, công ty Tae Kwang VINA, công ty FuJitsu, khách sạn Hà Nội Daewoo, công ty Sony Việt Nam, công ty Sanyo Việt Nam, công ty Lever-Haso … Sau đây là tình hình áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 trong ba công ty:
*Công ty SANYO Việt Nam:
Ngày 23/4/2000 công ty SANYO Việt Nam tổ chức lễ đón mừng hai chứng chỉ phù hợp là hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và hệ thông QLMT ISO 14000. Với ISO 14001, công ty đã xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 14001: 1998. Chỉ sau sáu tháng, công ty đã được trung tâm chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn (Quacert). Hiện nay, sản phẩm tủ lạnh của công ty không còn sử dụng chất CFC có khả năng phá hỏng tầng ozon, các loại hoá chất được kiểm soát và lưu giữ an toàn. SANYO Việt Nam là đơn vị đầu tiên được cấp một lúc hai giấy chứng nhận đạt ISO 9000 và ISO 14000, là đơn vị thứ ba ở Đồng Nai và thứ 7 trong nước được cấp ISO 14001. Đây là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Nhật Bản, có vốn pháp định 44 triệu USD và sản phẩm chính là tủ lạnh, máy giặt…
* Công ty NISSIN Việt Nam:
Công ty sản xuất phanh NISSIN Việt Nam là công ty 100% vốn của nước ngoài đầu tư thành lập theo giấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35204.doc