MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
B. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 3
I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế nhà nước 3
II. Vai trò của kinh tế nhà nước 4
1. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường 4
2. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. 5
3. Kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo 7
III. Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 7
1. Tình hình 7
2. Nguyên nhân: 9
3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. 11
IV. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 12
1. Đối với kinh tế và nước. 12
2. Đối với doanh nghiệp nhà nước 14
CỤ THỂ NHỮNG GIẢI PHÁP 20
C. KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
Năm 2000, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng góp 39,5% GDP, 39,2% tổng thu ngân sách, trên 50% kim ngạch xuất khẩu; nộp thuế thu nhập trong 10 năm (1999 đến 2000) gần 64.000 tỷ và có khoảng 250 đơn vị được cấp chứng chỉ ISO, được người tiêu dùng bình chọn đạt chất lượng sản phẩm cao 5 năm liền...
Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém và hiện nay đang nổi cộm bốn vấn đề gay gắt trong cạnh tranh của kinh tế thị trường định hướng XHCN như sau:
- Quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp nhà nước có nhiều điểm chưa hợp lý. Doanh nghiệp nhà nước phát triển còn chồng chéo, trùng lập về ngành nghề, sản phẩm. Nguồn vốn hạn hẹp nhưng lại đầu tư hình thành và phát triển nhiều DNNN có quy mô và quá nhỏ bé. Không đủ lực để tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là một sự lãng phí lớn trong đầu tư phát triển.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản đối với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh các sản phẩm trên thương trường. Nhiều loại vật tư, nguyên liệu tồn kho từ thời kỳ bao cấp đã lỗi thời, phẩm chất đó giảm không tiêu thụ được nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn "treo" lại, chờ nhà nước có biện pháp xử lý. Do đó, doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn, dẫn đến tình hình tài chính doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hiệu quả sản xuất doanh nghiệp nhà nước giảm dần. Nợ nần nhiều, quan hệ phải thu, phải trả ngày càng lớn, tình hình tài chính thiếu lành mạnh. Nhà nước phải giúp đỡ hỗ trợ ngày càng nhiều trong khi ngân sách nhà nước còn co hẹp tỷ lệ vay nợ trong và ngoài nước ta.
- DNNN cũng là một trong những "địa chỉ" của tệ lãng phí, tham nhũng, gây thất thoát, tổn thất ngoài tài lực của nhà nước.
Trong 3 năm gần đây số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đa dạng sở hữu gần như dận chân tại chỗ; nhiều bộ Ngành, địa phương lại thành lập thêm DNNN dù chưa đủ cơ sở và điều kiện phần lớn những doanh nghiệp mới được thành lập không thuộc ngành mũi nhọn, then chốt, mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, xây dựng; sản xuất hàng tiêu dùng.... là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có nhiều lợi thế hơn.
Các tổng Công ty 91 tuy là những doanh nghiệp có nhiều lợi thế và tiềm lực, nhưng tình hình cũng chưa sáng sủa so với thực trạng chung của doanh nghiệp nhà nước. Về vốn; 17 doanh nghiệp này nắm giữ tới 80.000 tỷ đồng /126.000 tỷ đồng chiếm tới 63,5% tổng số vốn ngân sách tại các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ các sản phẩm quan trọng nhất và luôn được hưởng những chính sách ưu đãi của chính phủ mỗi khi gặp khó khăn thế nhưng số lãi trước thuế của 17 tổng Công ty trong 6 tháng đầu năm 2001 chỉ đạt 92% so với cùng kỳ, chỉ bằng 47% kế hoạch cả năm, vẫn còn 23% số các doanh nghiệp thành viên bị thua lỗ.
2. Nguyên nhân:
Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan và được đúc rút trong 4 nguyên nhân chính sau:
- Hệ thống thể chế, chính sách đối với DNNN chưa được cải tién kịp quá trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền KTTT. Hệ thống thể chế, chính sách hiện nay vừa thể hiện lối tư duy cũ, nặng cơ chế xin - cho, ban phát, bảo trợ đến mức tối đa từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của cơ quan hành chính, quản lý cấp trên, để không chênh lệch hướng và mong muốn nó làm được vai trò then chốt, cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Do vậy, quyền tự chủ, tự quyết định của DNNN trên thương trường bị tước bỏ; quyền tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định, quyết đoán cũng không còn..... Điều đó còn gây tâm lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nước, vừa triệt tiêu động lực, vừa không khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của mình.
- Hai là tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa hợp lý. Với bộ máy quản lý hiện nay, hệ thống DNNN đã phải gánh chịu hai gọng kìm bất cứ lúc nào cũng đến kiểm tra mà giúp đỡ thì ít, hạch sách thì nhiều. Một bên là bộ, ngành, cấp chủ quản của doanh nghiệp và một bên là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý chuyên ngành với hệ thống ngành dọc từ trên xuống dưới.Tức là, tất cả các bộ, ngành với hệ thống dọc, ngay đều có quyền thực hành chức năng của mình tại doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát, thanh tra, kiểm tra,.... trên thực tế, nhiều khi đó là sự nhũng nhiễu phiền hà và gây tổn thất cho doanh nghiệp, hiệu quả thấp và không rõ rệt.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo DNNN chưa được phát huy và thể hiện được năng lực, bản lĩnh cần phải có. Yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện mới không chỉ có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh mà cần phải có óc sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹ trong việc thu nhập và xử lý thông tin, sáng suốt trong dự báo các tình huống trên thương trường với sự năng động, chủ động trong kinh doanh, có phẩm chất vững vàng trong quá trình đối mặt với tiền - hàng, coi tài sản của quốc gia như của chính mình với ý thức "vì nhân dân phcụ vụ", làm giàu cho dân, cho nước, cho mình. Trách nhiệm không chỉ thuộc bản thân của từng giám đốc, mà lớn hơn, cao hơn thuộc về hệ thống tổ chức và cán bộ trong việc theo dõi đề bạt, bổ nhiệm giám đốc nói riêng và đội ngũ cán bộ chủ chốt trong từng doanh nghiệp nói chung.
- Mô hình và cơ chế lãnh đạo của Đảng trong DNNN còn nhiều bất cập, nên chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của thủ trưởng doanh nghiệp, mặt khác DNNN còn là cái "túi" chứa đựng nhiều loại lao động. Đây là nỗi khổ tâm của không ít giám đốc doanh nghiệp muốn cải tổ, cải cách. Đổi mới, sắp xếp lại nhân sự trong doanh nghiệp.
Từ sự phân tích nhiều mặt như trên, càng cho thấy việc thua lỗ kém hiệu quả thậm chí phá sản của một bộ phận DNNN không phải do thuộc tính, bản chất của DNNN mà chủ yếu do con người: từ khâu hoạch định thể chế, chính sách cơ chế tổ chức bộ máy quản lý cho đến việc quản trị, điều hành trong từng doanh nghiệp cũng như cả hệ thống.
3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tại hội Nghị trung ương đã dành phần lớn thời gian để thoả thuận và thông qua Nghị quyết " tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước ". Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của Đảng. Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: " kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kt nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, " kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp. Hội nghị của Trung ương lần này cũng bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng; bảo đảm doanh nghiệp nhà nước có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm nâng cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa nước ta trở thành một nước phát triển.
IV. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
1. Đối với kinh tế và nước.
Để phat huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VII đã nhấn mạnh: " Chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng.
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở nước ta. Các hành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở và hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước các thành phần kinh tế phải được cải biến dựa vào những tiền đề khách quan; thứ nhất, xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên thực tế, thứ hai là xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp; thứ ba, xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lýkt của nhà nước XHCN và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Vấn đề không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản chất của từng thành phần và sử dụng chúng để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, dựa trên một số hình thức sở hữu nhất định về lực lượng sản xuất và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tạo và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp khả năng sản xuất chỉ rõ vai trò của triển vọng của mỗi thành phần kt trong nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để bảo đảm nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN trong quá trình vận động, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới. Xã hội XHCN.
Để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực sự giữ vai trò chủ đạo, xứng đáng là phương thức sản xuất chi phối, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ chủ yếu dưới đây:
- Tập chung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu mà các thành phần kinh tế khác không có đủ điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh.... nhà nước chỉ nên nắm một số trong đa số những ngành, lĩnh vực chính trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then chốt, yết hầu, thông qua đó mà điều tiết chi phối, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp.
- Đổi mới dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất; liên kết, liên doanh với các thành phần kinh tế khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội.
- Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nước phải có cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt.
- Tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với yêu cầu sản xuất - kinh doanh trong điều kiện mới.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
2. Đối với doanh nghiệp nhà nước
Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với kinh tế quốc doanh, Đại hội đã chỉ rõ là: " phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho Xí nghiệp và cho nhà nước.
Song, sau 10 năm đổi mới ngoài những thành tựu thu được chúng ta đã vấp phải những thử thách khó khăn mà Đảng và nhà nước ta đã rút ra được nhiều bài học quý báu, từ những cuộc đổi mới sắp xếp doanh nghiệp nhà nước là:
- Một là, đó là sự quán triệt đầy đủ chủ trương của Trung ương, sự nhất trí và quyết tâm cao của cấp uỷ và chính quyền các cấp trong việc triển khai thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực tế ở một số nước như: thành phố Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh... cho thấy là sau khi quán triệt đầy đủ, nhất trí cao và có quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan Đảng và Nhà nước ở địa phương đã ban hành những văn bản cụ thể để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện.
Ngược lại, ở một số bộ, ngành, địa phương, do chưa nhận thức đúng và thống nhất về vị trí vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay, chưa quán triệt đầy đủ chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước nên kết quả còn hạn chế.
- Hai là, công tác tổ chức học tập, tuyên truyền, giải thích, vận động thực hiện chủ trương chính sách sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được coi trọng ngay từ đầu và suâts trong quá trình tổ chức thực hiện phương án. Các cấp uỷ Đảng, liên đoàn lao động, Ban tuyên giác tỉnh uỷ đã tổ chức học tập và giới thiệu các văn bản của nhà nước về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, Đài phát thanh truyền hình, Báo địa phương, đa bám sát chủ đề này để tuyên truyền, giải thích, vận động, biểu dương, ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở đến từng doanh nghiệp để giải quyết về cơ chế chính sách và giới thiệu kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã cồ phần hoá, về sự thay đổi tác phong người thợ làm công ăn lương sang người chủ thực sự có cồ phần trong Công ty để cán bộ doanh nghiệp và công nhân yên tâm và quyết tâm đi vào cổ phần hoá.
- Ba là, khi xây dựng phương án, tổ chức thực hiện phương án sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ từ cơ sở cho đến các sở, ngành, huyện, thành phố và tỉnh việc phát huy dân chủ sẽ thống nhất giữa cấp dưới và cấp trên, phát huy được trí tuệ tập thể người lao động trong doanh nghiệp cho việc đổi mới chính doanh nghiệp của họ. Đồng thời với việc tuân thủ, nguyên tắc dân chủ, phải thực hiện tập chung. Những vấn đề còný kiến khác nhau, nhất là khi xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì chủ tịch tỉnh sẽ là người quyết định cuối cùng. Doanh nghiệp nhà nước là do nhà nước đầu tư thành lập, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của nhà nước là do nhà nước (gồm cả trung ương và địa phương) quyết định. Trong nhiều địa phương, một số giám đốc không thực hiện kế hoạch đã giao thì người quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ bãi miễn giám đốc và cử người khác lên thay.
- Bốn là; thực hiện đúng, đủ các chế độ chính sách và giải quyết việc làm đối với người lao động trong doanh nghiệp thực hiện tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá, để người lao động yên tâm phấn khởi. Quyền lợi ưu đãi, công nhân nghèo mua cổ phần trả chậm đã được công khai thảo luận dân chủ. Nguồn vốn chủ yếu để giải quyết quyền lợi cho số lao động dôi dư này là quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và một phần ngân sách của tỉnh.
- Năm là; tính sáng tạo và phát huy tối đa sáng kiến của địa phương, để trên cái nền chính sách chung của nhà nước mà cụ thể hoá cách làm cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Thí dụ, tình hình chung của Nam Định là đại đa số công nhân còn nghèo, thu nhập thấp nên khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã áp dụng giải pháp bán cổ phần làm nhiều đợt để đạt được tỷ lệ đã duyệt trong phương án cổ phần hoá.
- Sáu là; các địa phương đạt kết quả cao trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Còn là do đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp quyết tâm thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá. Đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quyết dịnh sự thành bại của công tác này. Tại nhiều nơi có tình hình trì trệ trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà một nguyên nhân quan trọng là sự không hưởng ứng tích cưcụ, sự nứu kéo, tù hãm với mọi lý do và biện minh của đội ngũ này. Nhưng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định thì không phải vậy. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của doanh nghiệp nhà nước đều đi đâu trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đóng góp rất nhiều công sức, từ việc nghiên cứu học tập các chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để xây dựng phương án cổ phần hoá, điều lệ công ty, đến việc tổ chức cho công nhân học tập, thảo luận. Do đó ở Nam Định hầu hết giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của 22 doanh nghiệp đã cồ phần hoá đều được Đại hội cổ đông sáng suốt lựa chọn bầu vào hội đồng quản trị và đa số trong đó được cử làm giám đốc Công ty cổ phần.
- Bảy là; một yếu tố không kém phần quan trọng là vai trò của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh và việc chọn được các cán bộ có tâm huyết, có tri thức và nhiệt tình cho công tác này. Trong quá trình thực hiện sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh chỉ đạo sâu sát thường xuyên, phối hợp chặt chẽ, hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành. Thêm vào đó, về phía doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệp, tỉnh cũng yêu cầu phải thành lập các ban đổi mới doanh nghiệp ở sở, ngành, quân, huyện do một đồng chí lãnh đạo làm trưởng ban doanh nghiệp có giám đốc làm trưởng ban. Như vậy, công tác cổ phần hoá đã triển khai đồng bộ cả bề rộng và chiều sâu, hầu như không có cơ quan nào đứng ngoài cuộc.
Từ những bài học kinh nghiệm được đúc kết rút từ thực tế kể trên chúng ta cần phải tìm những giảipháp phương án nhằm vượt qua những khó khăn để đạt mục tiêu đã định như sau: 5 giải pháp.
(1) Tận dụng và sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn lực vật chất to lớn, của kinh tế nhà nước để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp - dịch vụ với tốc độ nhanh hơn. Trong đó mục tiêu ưu tiên hàng đầu là củng cố các DNNN đã có các cơ sở kinh tế vững chắc, đồng bộ, đã và đang có những tiềm lực về năng suất, chất lượng, hiệu quả làm nòng cốt để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng. Trước mắt, cần phải tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong việc hình thành đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường: Vốn, lao động, đất đai, địa ốc, thông tin, khoa học và công nghệ... Đồng thời, để thực hiện được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu nông nghiệp - nông thôn nói riêng, phải đổi mới cơ chế và phương hướng đầu tư của nhà nước cải cách thực hiện hệ thống tài chính - ngân hàng theo hướng tập trung đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tôn trọng các cam kết với các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế.
Cần tổ chức chỉ đạo triển khai cải cách đồng bộ, có hiệu quả ở 4 lĩnh vực then chốt: cải cách thể chế; cải cách hành chính, bộ máy tổ chức, nhân sự; cải cách hoạt động tài chính - ngân hàng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Trong đó cải cách chế độ, chính sách tiền lương phải được coi là khâu đột phá để xoay chuyển toàn bộ tình hình, tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện cải cách ở các lĩnh vực khác.
(2) Vấn đề cải cách thể chế kinh tế cần được nhà nước chỉ đạo khẩn trương, đồng bộ, đạt được sự thống nhất chung giữa các bộ, ngành và các cấp quản lý nhằm khắc phục được những tồn tại hiện nay để tạo đông lực phát triển. Vấn đề quan trọng đặt ra đối với cải cách thể chế DNNN là cần phải đạt được những yêu cầu cải cách các loại thể chế, bao hàm đầy đủ các nội dung sau:
- DNNN có mặt đúng trận tuyến then chốt, bảo đảm được định hướng và sự ổn định xã hội, an ninh nhân dân bất kỳ trong tình huống nào. Không phát triển DNNN tràn lang sang các lĩnh vực, ngành nghề mà các thành phần kinh tế khác có thể làm.
- Tạo lập cho được những cơ sở, những điều kiện tối thiểu, cần thiết ban đầu cho DNNN đủ sức hoạt động với thế mạnh về cạnh tranh. Và các nguồn lực trên một sân chơi bình đẳng, các DNNN cũng cần cạnh tranh với nhau để phát triển.
- Không có sự can thiệp quá sâu của nhà nước với tư cách là chủ sở hưu để quản lý trực tiếp về phương án sản xuất kinh doanh, vốn, nhân sự, tiền lương, phân phối điềuhành doanh nghiệp phải hoạt động trong thế bị động, lúng túng khó khăn, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh mà luật pháp quy định.
- Không có kẽ hở trong thể chế, chính sách để bọn xấu có thể lợi dụng, đặc biệt cần loại bỏ ngay bọ ăn cắp, những kẻ hám danh, hám lợi, lừa đảo, thông đồng trong ngoài để "rút ruột nhà nước ". Đồng thời không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự, công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng thiết thực, vừa phát hiện nhân tố mới, vừa phát hiện, ngăn chặn sai lầm.
- Xoá bỏ cơ chế chủ quan đối với DNNN của các Bộ, Ngành, cấp quản lý hành chính địa phương. Trên cơ sở phân định rõ 2 chức năng của đại diện chủ sở hữu nhà nước và chức năng quản lý nhà nước. DNNN chỉ chịu sự kiểm tra, quản lý, giám sát của luật pháp nói chung của các bộ quản lý chuyên ngành ở từng lĩnh vực nói riêng.
- Luật hoá về trách nhiệm thực hiện quy chế dân chủ tại doanh nghiệp và trách nhiệm của người thủ trưởng thuộc cơ quan chủ quản và người giám đốc phải chịu trách nhiệm bồi thường, chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật vì sự tổn thất, thua lỗ của doanh nghiệp.
- Các chức danh có trách nhiệm chủ yếu về quản trị, điều hành DNNN cần áp dụng những phương pháp tuyển chọn nghiên túc đúng ngành, nghề đào tạo, chặt đứt những đường dây móc ngoặc trên dưới trong ngoài về cán bộ, phải có sự cam kết trước pháp luật đối với cán bộ được bổ nhiệm các chức danh này.
(3) Trách nhiệm quản lý, điều hành DNNN cần được xây dựng rõ và giao cho một người là Tổng giám đốc. Do vậy, trong quy chế làm việc của doanh nghiệp nhà nước phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa tổng giám đốc với bí thư Đảng bộ, tập thể ban giám đốc với tập thể ban thường vụ đảng bộ doanh nghiệp. Khi trách nhiệm rõ ràng, quyền hạn phân minh giữa các cá nhân và tập thể thì mới tránh được tình trạng chồng chéo, dẫm đạp, đùn đẩy ỷ lại nhau từ trong bộ bộ doanh nghiệp và mới có thể thành công trong kinh doanh.
Để làm được điều đó nhà nước phải chọn lựa, thi tuyển, đề cử người có năng lực, trình độ, phẩm chất xứng đáng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đối với Tổng giám đốc DNNN phải qua thi tuyển nghiêm túc, được sát hạch qua một hội đồng giám khảo về các phương án sản xuất kinh doanh, có sự cam kết trách nhiệm trước pháp luật về sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và bồi thường vật chất nếu để xảy ra tổn thất. Tổng giám đốc tuân thủ và hoạt động theo pháp luật trong mọi lĩnh vực mà doanh nghiệp đang kinh doanh, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ cơ sở, quyết định các công việc của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước nhà nước, pháp luật về những quyết định đó.
(4) Xoá bỏ hẳn cơ chế chủ quản đối với DNNN. Có ý kiến lo ngại rằng, Nếu nhà nước giao cho bộ tài chính đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, thông qua hệ thống tổ cức dọc của ngành này để thực hiện đầu tư vốn các loại doanh nghiệp nhà nước thì e không đảm đương nổi nhiệm vụ. Và quan trọng hơn, họ còn cho rằng với cơ chế đó, chỉ khác trước đây có nhiều bộ, cấp chủ quản thì nay tập trung vào một bộ - Bộ tài chính. Xoay quanh chủ đề này, ý kiến còn khác nhau là chuyện bình thường. Bởi vì, khi tập trung vào một số đầu mối chịu trách nhiệm chính trong việc đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước thì có một địa chỉ chịu trách nhiệm duy nhất trước nhà nước, trước pháp luật về gìn giữ và phát triển các loại tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Điều đó hoàn toàn khác với việc phân tán cho nhiều đầu mối với tư cách là bộ, ngành, cấp hành chính chủ quản với hai chức năng vừa đại diện chủ sở hữu, vừa quản lý nhà nước theo cơ chế hiện hành trong việc đầu tư, quản lý và sử dụng nguồn vốn của nhà nước. Từ đó, các bộ, ngành sẽ chuyên tâm hơn vào chức năng quản lý nhà nước, còn doanh nghiệp nhà nước sẽ bớt được nhiều đầu mối phải "trình bẩm".
(5) Mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong hoạt động của DNNN cũng cần được nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, các Đảng bộ, chi bộ, t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50740.doc