Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường là chính sách không điều chỉnh khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách điều chỉnh khối tiền tệ sẵn có trong lưu thông phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ và hàng không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ được hướng vào khống chế nguồn gốc làm tăng lượng tiền cung ứng.
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và bộ máy quản lý kinh tế xã hội các cấp, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Những thất bại thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó là sự xuất hiện của độc quyền. Lợi dụng ưu thế của mình, các tổ chức độc quyền không ngừng tăng giá để thu lợi nhuận và như vậy phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo. Trong khi một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm giảm lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hướng hạn chế cạnh tranh. Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền. Đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Khi có cạnh tranh hoàn hảo, nó sẽ đảm bảo được sự ganh đua của những người sản xuất, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Các tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động thị trường và đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí-lợi ích cho doanh nghiệp khác, hoặc người khác mà doanh nghiệp hoặc con người đó không được nhận đúng những lợi ích mà họ cần được nhận hoặc không phải trả đúng số chi phí mà họ phải trả. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, thiếu an toàn trong sản xuất... mà xã hội phải gánh chịu. Những tác động bên ngoài như vậy làm cho hoạt kinh tế không hiệu quả. Vì vậy, Nhà nước nước phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như một phương pháp ngăn chặn những tác động bên ngoài, nâng cao hiệu quả như buộc phải bồi thường do ô nhiễm, phá huỷ môi trường, buộc ngừng sản xuất, khai thác...
Đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải đảm bảo nhận việc sản xuất hàng hoá công cộng. ích lợi của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau và ích lợi giới hạn mà tư nhân thu đựoc từ hàng hoá công cộng là rất nhỏ. Vì vậy tư nhân thường không muốn sản xuất hàng hoá công cộng, trong khi có nhiều loại hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng như Quốc phòng, luật pháp, trật tự... nên không thể giao cho tư nhân được. Việc Nhà nước phải tham gia sản xuất hàng hoá công cộng là tất yếu.
Nguồn thu chủ yếu của Nhà nước là từ thuế và phần chi phí của Nhà nước phải được trả bằng thuế thu được. Việc đề ra luật thuế qui định nghĩa vụ của mọi cá nhân và tổ chức cũng như đảm bảo công bằng trong xã hội là cần thiết. Tất cả mọi người đều phải tuân theo luật thuế.
Như vậy, Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị trường thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách đối với nền kinh tế và xã hội. Từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra trôi chảy, ngăn cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp khi họ độc quyền chiếm thị trường, kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
3. Nhà nước điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh tức là các dao động của tổng thu nhập quốc dân kèm theo các dao động lên xuống của mức độ thất nghiệp và lạm phát.
Nhà nước cần cố gắng làm dịu những dao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Qua đó, Nhà nước ổn định nền kinh tế, duy trì nó càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Nhà nước có thể đầu tư vào một số lĩnh vực cần thiết, để hỗ tợ, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Kết hợp phân phối và phân phối thu nhập Quốc dân đặc biệt là việc thực hiện tốt luật ngân sách Nhà nước. Sự hoạt động của cơ chế kinh tế thị trường có thể đạt hiệu quả cao, nhưng cơ chế thị trường lại hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tối ưu. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp. Diều đó được thực hiện thông qua các chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Hiển nhiên Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo. Bất cứ điều gì đều có mặt trái của nó. Do đó việc vẫn còn tồn tại tình trạng lạm phát, suy thoái là không thể tránh khỏi. Nhà nước chỉ có thể góp phần giảm bớt hậu quả của nó hoặc giảm tần số xuất hiện của khủng hoảng kinh tế.
4. Nhà nước còn có chức năng quản lý kinh tế vĩ mô.
+ Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
+ Định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà nước lựa chọn chính sách và các liên kết đối ngoại có lợi cho sự phát triển đất nước, phát huy ảnh hưởng ngoại giao trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao của nền kinh tế Quốc dân.
+ Quản lý tài sản công, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội đặc biệt là quản lý đất đai, quản lý môi trường. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp.
+ Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cựu của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập Quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
III. Các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước và thực trạng của nó ở Việt Nam:
1. Các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước:
1.1. Hệ thống pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Phải thừa nhận rằng luật kinh tế ở nước ta chưa làm được nhiều, nền kinh tế đã chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhưng những luật rất cơ bản như luật đất đai, luật thuê mướn nhân công, luật phá sản, luật doanh nghiệp nhà nước, luật cạnh tranh và chống độc quyền… vẫn chưa hoàn thiện. Vì vậy trong giải quyết công việc hàng ngày các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước còn rất lúng túng trong quản lý cả tầm vĩ mô và vi mô. Cũng do chưa có luật nên một số cơ quan nhà nước có trách nhiệm lại buông lỏng quản lý để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường vai trò của pháp luật thể hiện trên hai phương diện :
Thứ nhất, pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo nên môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà doanh nghiệp biết được cái gì được làm, cái gì không được làm và đương nhiên cái gì được làm là cái được pháp luật bảo hộ quyền tự do. Chính vì vậy, có sự rất khác nhau giữa pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá và pháp luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý. Trong pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá doanh nghiệp nhận thấy cái gì được làm thì trong pháp luật của kinh tế thị trường có sự quản lý doanh nghiệp sẽ nhận thấy cái gì không được làm, không được phép, ngoài những cái đó ra họ có quyền làm tất cả những gì họ có khả năng.
Phương hướng trong những năm tới là tiếp tục hoàn chỉnh, kiện toàn hệ thống pháp luật, làm cho pháp luật được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh, bảo đảm quyền bình đẳng như nhau trước pháp luật của các chủ thể kinh tế. Xây dựng và thông qua thêm nhiều luật mới trong kinh tế để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định xã hội.
1.2. Công cụ kế hoạch hoá.
Nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nên kế hoạch hoá là một công cụ quan trọng để nhà nước tổ chức và quản lý nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng.
Đặc điểm kinh tế quyết định đặc điểm của kế hoạch hoá trong thời kì quá độ ở nước ta. Đó là kế hoạch hoá định hướng gắn liền với hoạch định các chính sách kinh tế và hệ thống đòn bẩy kinh tế như giá cả, thuế tín dụng, luật kinh doanh… Kế hoạch hoá trực tiếp chỉ diễn ra trong một phạm vi nhất định còn chủ yếu là kế hoạch hoá gián tiếp.
Mỗi thời kì nhất định có nội dung kế hoạch hoá thích hợp để thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội. Trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ ở nước ta, nội dung của kế hoạch là xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm đạt được một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại gắn với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Trong điều kiện nước ta, cần “tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô trên cơ sở đổi mới kế hoạch hoá, chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang kế hoạch hoá định hướng, bảo đảm các cân đối tổng thể cơ bản của nền kinh tế(cân đối cung - cầu, tiền - hàng, thu - chi, xuất - nhập khẩu, tích lũy - tiêu dùng…). Kế hoạch Nhà nước có chương trình, dự án đầu tư của chính phủ bảo đảm điều kiện thự hiện các mục tiêu lớn, đi đôi với việc thực hiện các chính sách đòn bẩy kinh tế là chính để hướng dẫn và hỗ trợ các ngành, các địa phương và cơ sở phát triển theo định hướng kế hoạch”.
Để thực hiện được nội dung quan trọng trên phải nâng cao chất lượng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng nhất… nâng cao dần trình độ dự báo kinh tế - xã hội trong công tác kế hoạch hoá.
Như vậy, đổi mới công tác kế hoạch hoá là một tất yếu khách quan theo phương hướng:
Một là, lấy thị trường làm căn cứ và đối tượng chủ yếu của kế hoạch hoá.
Hai là, thay hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt bằng hệ thống chỉ tiêu cân đối mang tính định hướng .
Ba là, thực hiện kế hoạch hoá hai cấp: cấp nhà nước gắn với kế hoạch hoá vĩ mô và cấp cơ sở gắn với kế hoạch hoá vi mô.
Bốn là, nâng cao trình độ dự báo kinh tế-xã hội trong công tác kế hoạch hoá.
Năm là, cải tiến hệ thống bộ máy làm kế hoạch và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm kế hoạch.
1.3. Chính sách tài chính - tín dụng.
Một trong các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường là cần có hệ thống tài chính tín dụng tương đối phát triển. Hệ thống tài chính-tín dụng giản đơn không thể đáp ứng được những nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, cũng như hoạt động lưu thông hàng hoá, tiền tệ trên thị trường.
Hệ thống tài chính-tiền tệ nước ta trong thời gian qua đã có những tác động tích cự đối với việc thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Các công cụ và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi ngan hàng ngày càng được đa dạng hoá và từng bước hoàn thiện.
Trong điều kiện thực tế và tình hình cụ thể hệ thống tài chính-tiền tệ vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế thì việc kiện toàn hệ thống này trong tương lai là một yêu cầu khách quan, mang tính tất yếu. Cách thức tiến hành đó là:
Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính-tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư; bồi dưỡng và mở rộng nguồn thu ngân sách, thu hút các nguồn vốn bên ngoài. Kết hợp chạt chẽ kế họch hoá với các chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm đầu tư kinh doanh.
Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính-tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đấtv nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thống nhất không phân biệt doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện đại hoá công tác thu thuế và tăng cường quản lý của nhà nước…
1.4. Chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường là chính sách không điều chỉnh khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách điều chỉnh khối tiền tệ sẵn có trong lưu thông phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ và hàng không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ được hướng vào khống chế nguồn gốc làm tăng lượng tiền cung ứng.
1.5. Chính sách thu nhập.
Đối với chính sách thu nhập ta phải quan tâm đến tiền lương. Nếu chế độ tiền lương không được đổi mới một cách cơ bản thì mọi cái đặt ra đều không có ý nghĩa. Thông qua chính sách này, Nhà nước có thể thực hiện được chế độ hưởng thụ công bằng, thực hiện chống tham nhũng có hiệu quả, siết chặt kỷ luật kỷ cương bằng “Cách mạng chế độ lương bổng” trả lương đúng theo tài năng và trách nhiệm của người lao động.
2. Tình hình các công cụ ở nước ta.
Đảng và Nhà nước đề ra kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho từng giai đoạn và từng năm cụ thể, thường là kế hoạch 5 năm, 10 năm:
2.1. Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005.
Bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên của thế kỷ mới, tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn đan xen với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Thế và lực của nước ta mạnh hơn nhiều so với trước. Chính trị - xã hội tiếp tục ổn định; quan hệ sản xuất được đổi mới phù hợp hơn; thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách phù hợp đang phát huy trong phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
Năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tạo ra tiền đề cần thiết cho bước phát triển mới. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Quan hệ kinh tế, ngoại giao của nước ta đã được mở rộng trên trường quốc tế.
Năm 2000, nền kinh tế đã bắt đầu lấy lại được nhịp độ tăng trưởng tương đối khá, tạo đà phát triển trong những năm tiếp theo.
Tuy vậy, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mô sản xuất nhỏ bé, các cân đối nguồn lực còn hạn hẹp; mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư thấp, chưa đủ tạo sức bật mới đối với sản xuất và phát triển thị trường. Lĩnh vực xã hội tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Cải cách hành chính tiến hành còn chậm.
Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học; xu thế toàn cầu hóa; khả năng ổn định và phục hồi của nền kinh tế khu vực và thế giới trong thập kỷ tới có những tác động tích cực, tạo điều kiện cho nước ta mở ra khả năng hợp tác kinh tế, khai thác lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. Đồng thời cũng có những yếu tố không thuận, tăng sức ép cạnh tranh đối với nền kinh tế nước ta.
Vấn đề đặt ra là phải phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, đặc biệt là trí tuệ và kỹ năng lao động của người Việt Nam, nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, khắc phục những khó khăn, yếu kém, tận dụng mọi thuận lợi và thời cơ để phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.1. Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ chủ yếu.
Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Theo đó, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là:
Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Mục tiêu tổng quát nêu trên được cụ thể hóa thành định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn 5 năm trước và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo; củng cố kinh tế tập thể; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm.
- Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương.
- Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính - tiền tệ, tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hành triệt để tiết kiệm; tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho đầu tư phát triển; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô; phát triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng. Thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở xã, phường và các đơn vị cơ sở.
2.1.2. Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế chủ yếu.
- Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%.
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm.
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm.
- Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến:
+ Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 - 21%.
+ Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 - 39%.
+ Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%.
2.2. Mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế năm 2004.
Năm 2004 là năm thứ 4 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đây là năm có ý nghĩa rất quan trọng giữ vai trò quyết định trong việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm.
Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, trên cơ sở kết quả thực hiện 3 năm qua, năm 2004 phải đạt được những bước chuyển biến căn bản của nền kinh tế-xã hội nước ta, tập trung thực hiện các trọng tâm sau đây:
Tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, trên cơ sở phát triển kinh tế nhiều thành phần, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài; rà soát lại các qui hoạch phát triển sản phẩm, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế trong từng ngành, từng sản phẩm, từng vùng, lãnh thổ theo hướng vừa tích cực phát huy lợi thế so sánh vừa nâng cao khả năng độc lập tự chủ.
Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về hiệu quả đầu tư, chất lượng phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế theo cam kết đối với khu vực ASEAN và các cam kết song phương, gồm cả quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, xem đây là một bước quan trọng để tiến tới hội nhập kinh tế toàn cầu trong khuôn khổ WTO.
Đẩy nhanh việc qui hoạch, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đặc biệt đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá... doanh nghiệp nhà nước, khắc phục tình trạng bao cấp, bảo hộ tràn lan và độc quyền kinh doanh, mở rộng môi trường cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế.
Tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội mà trước hết là giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội; giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Phát triển và nâng cao rõ rệt chất lượng nguồn nhân lực.
Tạo bước chuyển biến đột phá về cải cách hành chính trong phạm vi cả nước, trọng tâm là thể chế, thủ tục hành chính, làm trong sạch, vững mạnh bộ máy nhà nước, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, nhất là việc tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp đã đề ra. Cải cách hành chính phải gắn chặt với đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế.
2.2.1. Các nhiệm vụ cụ thể trong lĩnh vực kinh tế năm 2004.
(1) Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) từ 7,5-8,0%, trong đó giá trị gia tăng trong các lĩnh vực: công nghiệp và xây dựng trên 10%, dịch vụ trên 7%, nông, lâm, ngư nghiệp trên 4%; tạo các điều kiện để nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế cao hơn trong năm 2005.
(2) Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư dựa trên các quy hoạch phát triển dài hạn, phát huy thế mạnh của từng vùng, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ.
(3) Triển khai các chính sách thích hợp nhằm tăng tỷ lệ tích luỹ trong nước và huy động vốn đầu tư phát triển chiếm trên 35% GDP; phấn đấu tổng thu ngân sách đạt trên 21% GDP; thực hiện tốt Luật Ngân sách Nhà nước; phấn đấu chi đầu tư chiếm 30% tổng chi ngân sách nhà nước theo kết luận Hội nghị TW lần thứ 8, tăng chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ và xóa đói giảm nghèo.
Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ mềm dẻo, linh hoạt, đảm bảo vừa ổn định kinh tế vĩ mô, vừa đáp ứng tốt nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế.
(4) Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường xuất khẩu, tạo bước chuyển biến mạnh trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiếp tục thực hiện một cách chủ động lộ trình gia nhập AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập quốc tế. Đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) để đến năm 2005 nước ta có thể trở thành thành viên chính thức của tổ chức này.
(5) Đẩy nhanh tiến trình cải cách hành chính; xây dựng bộ máy hành chính thực sự trong sạch, làm việc công tâm. Tăng cường tính hiệu quả, minh bạch của các chính sách nhà nước.
2.2.2. Các chỉ tiêu kinh tế năm 2004.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,5 - 8% so với năm 2003, trong đó: khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) tăng 4,0%; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) tăng 10-10,5%; khu vực III (các ngành dịch vụ) tăng 7-7,5%.
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,6%; công nghiệp tăng khoảng 14,5-15%; giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 7,5- 8%.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 21,7 tỷ USD, tăng 11-12%. Tổng kim ngạch nhập khẩu 26 tỷ USD, tăng khoảng 8-9%.
- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 249-255 nghìn tỷ đồng, tăng 15-16%, chiếm 36% GDP.
- Tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 148,3 nghìn tỷ đồng, tăng 11,9%; tổng chi ngân sách nhà nước khoảng 186,67 nghìn tỷ đồng, tăng 11,3% so với ước thực hiện năm 2003.
- Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 5% GDP.
- Giá tiêu dùng tăng khoảng 4-5%.
- GDP hiện hành dự kiến khoảng 695 nghìn tỷ đồng, tương đương 43,4 tỷ USD, bình quân 530 USD/người.
Chương I: Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước ta hiện nay.
I. Thực trạng quản lí của Nhà nước ta hiện nay.
1. Đánh giá tình hình kinh tế xã hội năm 2004.
Năm 2004, khó khăn và thuận lợi đan xen nhau, vì vậy cần đánh giá, dự báo đúng những nhân tố thuận lợi để triệt để phát huy và những khó khăn để chủ động đối phó, hạn chế những ảnh hưởng xấu.
1.1. Về thuận lợi:
Dự báo tình hình trong nước và quốc tế n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33785.doc