MỤC LỤC
Mở đầu 3
1 Lý do chọn đề tài 3
2 Đối tượng nghiên cứu 3
3 Phương pháp nghiên cứu 3
4 Kết quả nghiên cứu 3
5 Bố cục 4
Nội dung 5
Chương 1: Cơ sở lý luận 5
1.1 Nội dung lý thuyết 5
1.1.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế 5
1.1.2 Lý thuyết về phát triển kinh tế 5
1.1.3 Tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế bền vững 6
1.2 Quan điểm phát triển và tăng trưởng kinh tế 6
Chương 2: Thực trạng 9
2.1 Bối cảnh nền kinh tế 9
2.2 Bối cảnh nền kinh tế quốc tế 14
2.3 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 16
2.4 Các đột phá cần thực hiện 18
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước bảo đảm thực hiện thắng lợi 24
Kết luận 26
28 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3077 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2011-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phải tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển.
Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp.
Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã.
Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu.
Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh, trở thành một động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.5 Phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả.
Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG
2.1 Bối cảnh nền kinh tế
Việt nam Trong 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng khoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Trong 10 năm qua, nước ta là một nước có mức độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới dù mức xuất phát điểm của nước ta là rất thấp.
Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt được bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm. Năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD.
Biểu đồ thể hiện mức GDP/ đầu người giai đoạn 2000 – 2010
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tăng tỉ trọng công nghiệp ( khu vực II) và giảm tỉ trọng nông nghiệp (Khu vực I) và tỉ trọng dịch vụ giữ ở mức ổn định. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động sáng tạo của toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Điều này dễ nhận thấy qua năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn yếu kém. Thị trường bị chiếm lĩnh bởi các mặt hàng ngoại nhập từ Trung Quốc, Mĩ, Nhật, …. Hơn thế nữa các mặt hàng trong nước chất lượng vẫn thua kém và mẫu mã cũng chưa đa dạng. Ngoài ra việc phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực cũng còn chưa cao. Tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và hiệu quả đầu tư thấp kém không những chậm được khắc phục, mà còn có xu hướng trầm trọng hơn. Con số cụ thể tính đến năm 2011 như sau: 100 cảng biển (20 cảng quốc tế), 22 sân bay (8 sân bay quốc tế) 100 ngân hàng thương mại, hàng trăm công ty tài chính chứng khoán, 18 khu kinh tế ven biển, 27 khu kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp (tỷ lệ lấp đầy chưa đến 50%) 650 cụm công nghiệp …Việc điều hành tỉ giá và thị trường ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến tình trạng găm giữ USD, cán cân thanh toán đã bị thâm hụt. ( khoảng 1,9 tỉ USD). Bội chi ngân sách và chính sách tiền tệ luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Qua cuộc khủng hoảng năm 2008, nền kinh tế Việt Nam phải đối đầu với khủng hoảng tài chính kéo dài càng làm bộc lộ rõ những yếu kém trên. Việc chậm giải tỏa các điểm nghẽn tăng trưởng (thể chế kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực) đã thực sự trở thành lực cản lớn với sự phát triển. Rõ ràng là những yếu kém nội tại của nền kinh tế cộng hưởng với những biến động bất lợi của nền kinh tế toàn cầu đã đặt ra cho VN nhiều thách thức gay gắt. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng. Dễ thấy qua hàng loạt các vụ việc phát hiện các công ty xả chất thải độc hại chưa qua xử lý, điển hình như vụ việc công ty Ve Dan xả chất thải ra sông thị vải. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế. Tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết có hiệu quả những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi.
Từ thực tiễn phát triển đất nước và kết quả thực hiện Chiến lược 10 năm qua có thể rút ra các bài học chủ yếu:
Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
Hai là, đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
Ba là, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.
Bốn là, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2.2 Bối cảnh nền kinh tế quốc tế
Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Trong thập niên tới, hoàn bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, nạn khủng bố có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên…buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động.
Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu; mặt khác, ASEAN cũng đang phải đối phó với những thách thức. Tại hội nghị cấp cao ASEAN 14 (Thái Lan, 28/2-1/3/2009), lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua Tuyên bố Cha-Am Hua Hin về lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (giai đoạn 2009-2015), kèm theo là các kế hoạch tổng thể xây dựng 3 Cộng đồng: Chính trị-An ninh ASEAN (APSC), Kinh tế (AEC), Văn hóa-Xã hội (ASCC ) và Kế hoạch Công tác IAI về Thu hẹp khoảng cách phát triển giai đoạn II. Các kế hoạch này đề ra bước đi và lộ trình cụ thể, tạo khuôn khổ cho quá trình xây dựng Cộng đồng của ASEAN từ nay đến 2015. ASEAN hiện đang tập trung nỗ lực triển khai các Kế hoạch này. Từng trụ cột Cộng đồng đã có những hoạt động triển khai cụ thể, như xác định các lĩnh vực ưu tiên, kế hoạch tuyên truyền-quảng bá, lập biểu đánh giá thực hiện… song tiến độ còn chậm, chưa có sự phối hợp đồng bộ và thiếu hụt nguồn lực. Hiện tại các nền kinh tế thuộc khối ASEAN đều có những sa sút ở các mức độ khác nhau do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ quốc tế.
Gần đây ở khu vực Biển Đông xuất hiện sự căn thẳng, tranh chấp về vấn đề biên giới trên biển giữa một số nước Đông Nam Á với Trung Quốc làm tình hình khu vực trở nên căng thảng. Các nước asian cũng lo ngại về vấn đề này.
Tình hình khu vực Đông Nam Á hiện nay khá ổn định về chính trị - xã hội dù có một vài tranh chấp xảy ra. Như giữa Campuchia và Thái Lan. Tuy nhiên nền kinh tế khu vực này cho thấy tốc độ tăng trưởng cao và không bị khủng hoảng nợ, Đông Nam Á đang là điểm sáng trong bức tranh u ám của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Một số nước đã trở thành số ít các nền kinh tế có triển vọng mang lại lợi nhuận cao. Trong năm nay và năm tới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore dự kiến đạt 5% và 4,9%, Thái Lan 4,5%, Indonesia 6,3 - 6,5% và Malaysia 4,4 - 4,5%.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn tiếp tục là người cầm lái của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2011 nhưng vẫn phải đối mặt với rủi ro về giá thực phẩm và giá nhiên liệu cao cùng với sự không ổn định của những luồng vốn chảy vào, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên...
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với nhữmg tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh và do đó, con người và tri thức trở thành nhân tố quyết định sự phát triển cửa mỗi quốc gia.
Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á, nhất là Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng còn để lại hậu quả nặng nề, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu phục hồi nhưng đà tăng trưởng trong những năm đầu còn yếu, độ rủi ro và tính bất định còn rất lớn.
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời kỳ chiến lược tới.
2.3 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020
2.3.1 Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, đồng thuận, dân chủ, kỷ cương; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau
2.3.2 Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
2.3.2.1 Về kinh tế
Theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thì cứ sau 10 năm quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng gấp hai lần do đầu tư nước ngoài và việc cắt giảm thuế giúp duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt vào khoảng 8% – 10% cho tớinăm 2020. Đại hội IX của Đảng đã đề ra mục tiêu: nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Bên cạnh mục tiêu tổng quan đó, các nhóm tiêu chí cũng được đưa ra nhằm cụ thể hóa mục tiêu trên. Nhóm tiêu chí về tăng trưởng kinh tế vĩ mô bao gồm bốn tiêu chí: (1) về quy mô của nền kinh tế, GDP năm 2020 đạt từ 180 – 200 tỷ USD; (2) về tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2006 - 2020 đạt 9,2% – 10%/năm; (3) về GDP bình quân đầu người, năm 2020 mục tiêu đặt ra là 1800 – 2000 USD; (4) vềtốc độ tăng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn 2006 – 2020 đạt từ 7% – 8,6%/năm. Bên cạnh đó, muốn có vị thế nhất định trong khu vực, GDP củaViệt Nam phải đạt mức trung bình của 4 nước có GDP cao nhất trong hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là Malaysia, Thái Lan, Philippin, Indonesia (200 tỷ USD) và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở mức hai con số. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sự dụng mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
2.3.2.2 Về văn hóa xã hội
Trong quá trình phát triển, văn hóa – xã hội là một yếu tố quan trọng quyết định đến nền kinh tế và chi phối nhiều mặt cuộc sống. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sỹ và 26 giường bệnh trên một vạn dân[1], thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2 - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng/người.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.
2.3.2.3 Về môi trường
Đến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng.
2.4 Các đột phá cần thực hiện
Dự thảo chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị-xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.”
Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể nêu trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương lĩnh thứ hai của Đảng” nhằm triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện Cương lĩnh.
Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá - những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Dự thảo lựa chọn ba đột phá:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, nâng cao năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Mặt khác, kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài.
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực hiện khâu đột phá này.
Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự thảo Chiến lược đề ra 12 định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống đồng bộ các giải pháp lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể của phát triển bền vững; bảo đảm gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số nội dung mới.
Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là những tư tưởng quan trọng nhất cũng là những nét mới trong tư duy phát triển.
Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có khủng hoảng. Quá trình này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước. Nội dung và nhịp độ của tái cấu trúc phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền kinh tế phải diễn ra đồng thời trên các nội dung sau:
(1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Mặt khác, phải hết sức coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân.
(2) Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, phải xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới.
(3) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh. Song song đó, mỗi doanh nghiệp phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.
(4) Coi trọng hơn thị trường trong nước. Phát triển mạnh hệ thống phân phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để có thể làm chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do.
(5) Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường.
Để thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác động, có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản lý. Có kỹ năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai nhân tố trên.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2011 - 2020.docx