Đề tài Tao đàn Chiêu Anh Các trong sự phát triển của văn học Nam Bộ

Hình ảnh của những người dân hiện lên không ít lần trong thơ Chiêu Anh Các. Ngay ở trong bài" Lộc Trĩ thôn cư" (thơ quốc âm ), chữ "dân" được nhắc đi nhắc lại đến bảy lần:

+ Thú vui bốn thú dân nhàn bốn dân

+ Dầu muôn dân đợi thời mây gió

+Ruộng dân là chốn dân này

+ Dân bang kỳ ỷ sánh kỳ tây

+ Có dân làm lụng có làng ăn chơi

Đó là chưa kể chữ " dân" và các hình thức khác ( đồng nghĩa hay gần nghĩa ) của khái niệm " dân" ( như người bốn phương ) còn thấp thoáng đây đó trong nhiều bài thơ khác.

 

doc47 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2223 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tao đàn Chiêu Anh Các trong sự phát triển của văn học Nam Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hụ, Thi thảo cách ngôn dị tập- chúng ta chỉ biết đến tên. Tình trạng văn bản của các tác phẩm còn lại của Chiêu Anh Các như sau: - Hà Tiên thập vịnh: được khắc in năm 1737 gồm 320 bài thơ viết về 10 cảnh đẹp Hà Tiên, do Mạc Thiên Tích xướng, 6 tác giả người Việt và 25 tác giả người Hoa hoạ vần; Mạc Thiên Tích đề tựa, Dư Tích Thuần và Trần Trí Khải, hai văn nhân Trung Quốc viết hai bài bạt. Sau này Nguyễn Cư Trinh vào Hà Tiên có quan hệ thi hữu với Mạc Thiên Tích hoạ thêm 10 bài nữa. Hiện nay chỉ còn lại 10 bài xướng của Mạc Thiên Tích, 10 bài hoạ của Nguyễn CưTrinh, 4 bài hoạ của các tác giả Vương Xưởng, Đan Bỉnh Ngư, Nguyễn Nghi, Lý Nhân Trường. - Thụ Đức hiên tứ cảnh được 32 người hoạ cộng 88 bài đã khắc in do Phương Thu Bạch viết bài tựa, nhưng mất mát gần hết. Bốn bài xướng của Mạc Thiên Tích cũng nằm trong số đó. May nhờ Lê Quý Đôn mà ta còn lại 9 bài hoạ của 9 nhà thơ được chép lại trong Kiến văn tiểu lục. - Minh bột di ngư - Ông chài còn sót lại trên biển nhà Minh - là tập thơ phú gồm 30 bài thơ luật và bài phú 100 vần cùng lấy tên Lư Khê nhàn điếu( Rạch Vược câu nhàn) của Mạc Thiên Tích. Bản in sinh thời của Mạc Thiên Tích 1771 đã mất. Bản in thứ hai do Trịnh Hoài Đức đứng ra khắc in vào năm 1821 có tên là Minh bột di ngư trùng bản cũng không còn. Hiện chỉ còn lại bài phú và 7 bài thơ. Tình hình tài liệu như vậy chưa cho phép tìm hiểu một cách toàn diện về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của Minh bột di ngư, nhưng căn cứ vào Lư Khê nhàn điếu phú, ta có thể coi đây như một tuyên ngôn Việt hoá của Mạc Thiên Tích và lớp hậu duệ của các di thần bài Thanh phục Minh từ Hoa Nam qua tỵ nạn chính trị ở Đàng Trong, khi mới quan hệ với không gian xã hội này đã thúc đẩy họ chủ động và vĩnh viễn vùi chôn tâm sự di thần. - Hà Tiên quốc âm thập vịnh gồm hơn 336 câu lục bát gián thất và 88 câu của mười một bài thơ Đường luật, tổng cộng 424 câu sáng tác bằng tiếng Việt - chữ Nôm. Hà Tiên quốc âm thập vịnh hiện có 7 văn bản đáng chú ý. +Bản Nôm trong gia phả Hà Tiên do Trần Đình Quang chép. + Bản Nôm của gia đình Nguyễn Đình Chiểu + Bản quốc ngữ do Lê Quang Chiểu công bố + Bản quốc ngữ do Nguyễn Phương Chánh sao lục + Bản quốc ngữ do La Thành Đầm công bố + Bản quốc ngữ do Đông Hồ công bố trên tạp chí Nam Phong (1926) + Bản quốc ngữ do Đông Hồ bình giảng trong văn học Hà Tiên (1970) -Lư Khê Vãn: Mặc dù không ghi tên tác giả, nhưng căn cứ vào một số đặc điểm và nội dung, phong cách và thể loại, cố giáo sư Ca Văn Thỉnh đã cho rằng Lư Khê Vãn có thể là tác phẩm của Tao đàn Chiêu Anh Các. Hiện nay gần như không còn khả năng văn bản chữ Nôm nào của tác phẩm này chỉ còn bản chép tay quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký . 5- Mạc Thiên Tích và vị trí của ông trong Tao đàn Chiêu Anh Các. Mạc Thiên Tích ( 19/4/1706 - 01/11/1780) tên thật là Mạc Tông sau đổi thành Mạc Tứ, tự Sĩ Lân là con trưởng của tổng binh Mạc Cửu và bà Bùi Thị Lẫm, người Việt. Sau khi cha mất ( 1735) Mạc Thiên Tích được chúa Nguyễn cho kế chân cha tiếp tục coi giữ trấn Hà Tiên, tước Tông Đức hầu. Thừa kế sự nghiệp của cha, Mạc Thiên Tích đưa Hà Tiên lên bước phát triển mới, thăng hoa thành vùng văn hiến rực rỡ nơi biên thuỳ phía Tây Nam. Đến thời ông, Tây Nam đã thực sự thành một vùng đất trù phú, cư dân đông đúc làm phên dậu cho đất nước. Ông cũng có công xây dựng dân binh, nhiều lần đánh bại các cuộc xâm lược của bọn phong kiến Xiêm La và Chân Lạp. Vào khoảng 1776, khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định, truy kích bè đảng chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tích đã giữ lòng trung với chúa, chạy sang Xiêm xin viện binh về " phục quốc". Nhưng vua Xiêm ( bấy giờ là một thương nhân Hoa kiều tiếm ngôi) tỏ lòng nghi kị cho giam lỏng đoàn cầu viện của họ Mạc. Phẫn uất, ông tự tử tại Băng Cốc. Xuất thân từ một gia đình có truyền thống văn hoá, nho học, Mạc Thiên Tích là một người học rộng, có tài văn thơ, lại có ý thức mở mang văn hoá trên mảnh đất do mình gây dựng. Mạc Thiên Tích đã sớm quy tụ được nhiều nhà nho từ các nơi về Hà Tiên lập nghiệp và vào năm 1736, ông cùng họ lập lên thi xã Chiêu Anh Các. Điều đó cho thấy, Mạc Thiên Tích rất có uy tín và luôn nhận được sự kính trọng của các danh sĩ đương thời. Không chỉ sáng lập Chiêu Anh Các, ông còn là thủ lĩnh của Tao đàn này. Mọi hoạt động của Chiêu Anh Các đều dưới sự điều khiển, dẫn dắt của ông. Mạc Thiên Tích luôn là người khởi xướng cho mọi hoạt động của Chiêu Anh Các. Ông làm thơ, rồi mời các nhà thơ trong và ngoài thi xã cùng hoạ lại, thậm chí mời cả những nhà thơ quen biết của một thi xã ở Quảng Châu cùng góp lời ngâm hoạ. Không có xướng hẳn sẽ chẳng thể có hoạ. Không có những bài thơ hay của Mạc Thiên Tích hẳn sẽ chẳng thể có được những tập thơ để lại cho đời. Nói như vậy để thấy rằng Mạc Thiên Tích đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng, có một vị trí trụ cột trong Tao đàn Chiêu Anh Các. Bên cạnh đó, Mạc Thiên Tích cũng là người có công lớn trong việc phổ biến, quảng bá văn chương Chiêu Anh Các trong phạm vi cả trong và ngoài nước. Chính Mạc Thiên Tích đã cho khắc in các tác phẩm của Chiêu Anh Các ( rất đáng tiếc đến nay chẳng còn được là bao). Bằng cách ấy, Mạc Thiên Tích đã đưa Chiêu Anh Các trở thành một hoạt động văn hoá, văn học ít nhiều mang tính chất quốc tế. Là thủ lĩnh Tao Đàn, những tư tưởng, tình cảm, những trăn trở, suy tư của Mạc Thiên Tích không thể không ảnh hưởng đến tổng thể thơ văn Chiêu Anh Các. Tư tưởng của Mạc Thiên Tích đóng vai trò chủ đạo, chi phối các tác phẩm của Chiêu Anh Các. Do đó, không chỉ ở các tác phẩm của Mạc Thiên Tích, nhìn vào các sáng tác của những tác giả Chiêu Anh Các khác ta có thể hình dung phần nào chân dung Mạc Thiên Tích. Vị trí quan trọng của Mạc Thiên Tích đối với Chiêu Anh Các còn được thể hiện ở chỗ, Mạc Thiên Tích đã đóng góp một khối lượng tác phẩm lớn và quan trọng vào kho tàng văn học Chiêu Anh Các. Những tác phẩm còn lại của Mạc Thiên Tích là: - 10 bài xướng trong Hà Tiên thập vịnh - Minh bột di ngư ( 1 bài phú và 7 bài thơ) - Hà Tiên quốc âm thập vịnh Có thể nói, đây là những tác phẩm quan trọng bậc nhất trong tổng thể văn chương Chiêu Anh Các. Nhờ có những tác phẩm này và chủ yếu dựa trên những tác phẩm này, chúng ta mới có thể tìm hiểu và khám phá nhiều cái hay, cái đẹp, cái lạ trong thơ văn Chiêu Anh Các. Tóm lại, sẽ chẳng phải quá lời khi khẳng định rằng Mạc Thiên Tích chính là linh hồn, là trái tim của Chiêu Anh Các. Ông xứng đáng là vị chủ soái, một trụ cột vững chắc và không thể thiếu của Tao đàn vô cùng độc đáo này. III- NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ VĂN HỌC CỦA CHIÊU ANH CÁC 1.Nội dung sáng tác của thơ văn Chiêu Anh Các 1.1- Đất nước Hà Tiên tươi đẹp. Chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm của Mạc Thiên Tích nói riêng và Chiêu Anh Các nói chung là sự ngợi ca đất nước Hà Tiên, một miền đất tuy mới nhưng ngày càng đơm hoa kết trái. Các tác giả đã dành cho Hà Tiên một sự ưu ái, một tình cảm trìu mến, thương yêu. a- Đến với Hà Tiên, trước hết, chúng ta sẽ chìm đắm ngay vào vẻ đẹp muôn màu, muôn sắc của thiên nhiên xứ này: Thiên nhiên là nguồn cảm hứng muôn thưở cho văn chương. Nhưng trong lịch sử văn học nước nhà, chưa bao giờ chúng ta bắt gặp một số lượng tác phẩm lớn của một đội ngũ đông đảo các tác giả tập trung ca ngợi thiên nhiên như ở Chiêu Anh Các. Thơ văn Chiêu Anh Các đầy ắp thiên nhiên, tràn trề thiên nhiên.Bóng dáng thiên nhiên hiện lên rõ ràng, đậm nét trong những dòng thơ, dòng văn chứa chan tình cảm. Tất cả các tác phẩm Chiêu Anh Các đều thấp thoáng bóng dáng thiên nhiên. Đọc thơ văn Chiêu Anh Các, chúng ta bắt gặp núi, sông, biển, đảo, chúng ta bắt gặp gió, mây, tuyết và không thể thiếu được là trăng. Đọc Chiêu Anh Các, chúng ta biết và thêm yêu những danh thắng trên đất Hà Tiên: Kim Dự lan đào, Bình San điệp thúy, Thạch Động thôn vân, Châu Nham lạc lộ, Đông Hồ ấn nguyệt, Nam Phố trường ba, Lộc Trĩ thôn cư, Lư Khê ngư bạc, Tiêu tự thần chung, Giang thành dạ cổ. Những Kim Dữ ( đảo vàng), Bình San ( núi bằng), những Thạch Động ( hang đá), Châu Nham ( nham thạch đỏ) … vốn chẳng phải tên riêng, nhưng từ khi đi vào thơ chúng đã trở thành những tên gọi thân thương, gần gũi, quen thuộc với và không chỉ với Hà Tiên. Ngần ấy địa danh đủ để chúng ta thấy rằng mọi nơi, mọi chốn trên mảnh đất Hà Tiên đều là những danh thắng quyến rũ, hấp dẫn lòng người. Thơ Chiêu Anh Các đầy ắp núi, mây, sông, nước; đầy ắp trăng, gió bao la. Nhưng điều đáng nói núi ấy là núi Hà Tiên, biển ấy là biển Hà Tiên, gió ấy là gió trời Hà Tiên, không thể lẫn với bất kỳ miền quê nào khác. Thiên nhiên Hà Tiên đa dạng không chỉ bởi có nhiều thắng cảnh, không chỉ bởi có nhiều nét đặc sắc mà còn phong phú bởi vẻ đẹp muôn màu, muôn sắc, đầy biến hoá của nó. Đó là một thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Nhất đảo thôi ngôi, điện bích liên Hoành lưu kì thắng tráng Hà Tiên Ba đào thế tiệt Đông Nam hải Nhật nguyệt quang hồi thượng hạ thiên. ( Kim Dự lan đào) ( Một hòn đảo chót vót đặt giữa sóng biển Chắn ngang dòng nước, vẻ đẹp làm hùng tráng Hà Tiên Vùng biển Đông Nam ba đào tắt lặng Trên trời dưới nước, mặt trăng mặt trời sáng rực). Ở những dòng thơ ấy, nổi bật lên là hòn đảo Kim Dữ sừng sững hiên ngang, vững vàng như một người lính vai sắt, mình đồng. Kim Dữ như một viên ngọc được trời cao thả xuống một vùng biển nước bao la. Giữa cái mênh mông của trời biển, Kim Dữ càng làm cho thiên nhiên Hà Tiên thêm phần tráng lệ, kỳ vĩ. Thiên nhiên ấy có lúc thật hoang vu: Vũ để yên tiêu cộng diểu mang Nhất loan phong cảnh tiếp hồng hoang ( Đông Hồ ấn nguyệt ) ( Mưa tạnh khói tan thảy đều xa vời. Phong cảnh vụng biển đầy vẻ hoang vu. Nhưng có lúc lại thật thơ mộng, hữu tình: Vãn bài thiên trận la phương thụ Tình lạc bình nhai tả ngọc hoa Bội ảnh cộng phiên minh nguyệt tụ Vân quang tế táp dịch dương sa (Châu Nham lạc lộ) ( Chiều buông bầy trận trên trời giăng khắp cây thơm. Trời tạnh đáp xuống lèn núi phẳng trút ra hoa ngọc. Giống bóng thác nước lật lại với ngọn núi đẫm ánh trăng. Tựa ánh mây sáng cùng vòng quanh bãi cát dưới ánh triều). Thiên nhiên đầy ý vị, giao duyên. Hình ảnh của đoá ngọc hoa rơi khắp bãi cồn, hình ảnh ngọn núi ướt đẫm ánh trăng, hình ảnh một buổi chiều tà mà ánh mây tuôn đầy trên cát, tất cả càng làm cho thiên nhiên thêm phần mơ màng, thơ mộng, ấm áp hữu tình. Thiên nhiên ấy còn mang một vẻ đẹp trẻ trung, tràn đầy sức sống. Thợ trời sao khéo tạo hình Đá giăng lưng hạm cây đoanh khúc rồng Lược đông phong chải đầu điệp thúy Lúc mưa xuân rơi phủ muôn cành Rờn rờn trúc lộc thông xanh Chồi xuân non bện lá quỳnh phơi gie Ong với ve om sòm bụi liễu Bướm rập rờn lẽo đẽo chòm hoa ( Bình San điệp thuý) Tràn ngập cảnh sắc thiên nhiên là một màu xanh " chồng chất " trùng điệp, một màu xanh tươi trẻ, màu xanh - nhựa sống trải mãi đến vô tận. Sức sống mãnh liệt còn được nhận ra từ những hình ảnh thơ đầy âu yếm, trìu mến, chan chứa thương yêu: ngọn gió đông như chiếc lược nhẹ nhàng chải lên mái tóc xanh của người thiếu nữ, những giọt mưa xuân tươi mát tắm cho muôn cành và đặc biệt là hình ảnh bướm - ong rủ nhau tìm hoa hút mật gợi nhắc đến tình cảm lứa đôi. Đó còn là một thiên nhiên diệu huyền, đẹp như một tiên nữ. Lục ấm u văn xuyết mộ hà Linh nham phi xuất bạch cầm tà ( Châu Nham lạc lộ) ( Mây râm che rợp điểm xuyết ráng chiều Bầy chim trắng bay chếch ra từ lèn đá thiêng) Và trong sạch, tinh khiết vô cùng: Tình không lãng tịnh huyền song ảnh Bích lạc vân trường tẩy vạn phương ( Đông Hồ ấn nguyệt) ( Trời quang sóng lặng treo hai bóng trăng Biển biếc mây trong rửa cả bốn phương ) Thiên nhiên ấy lung linh như chốn bồng lai, nhưng có lúc lại vô cùng gần gũi với cuộc sống con người: Trúc ốc phong qua mộng thuỷ tinh (tỉnh ) Nha đề thiềm ngoại khước nam thinh ( thính ) Tàn hà đảo quải duyên song tử Mật thụ đê thuỳ tiếp phố thanh ( Lộc Trĩ thôn cư ) ( Gió thoảng qua nhà tre, vừa tỉnh giấc mộng Tiếng quạ kêu rộn trước thềm thật không nghe nổi Ráng chiều treo ngược viền khung cửa tím ngắt Cây dày phủ xuống nối liền với luống rau xanh rờn ) b- Nhưng dù có dành tình cảm yêu mến thiên nhiên đến đâu, Mạc Thiên Tích và các tác giả Chiêu Anh Các cũng không quên gửi vào trong thơ niềm tự hào, ngợi ca về con người và cuộc sống trên mảnh đất Hà Tiên. Hình ảnh của những người dân hiện lên không ít lần trong thơ Chiêu Anh Các. Ngay ở trong bài" Lộc Trĩ thôn cư" (thơ quốc âm ), chữ "dân" được nhắc đi nhắc lại đến bảy lần: + Thú vui bốn thú dân nhàn bốn dân + Dầu muôn dân đợi thời mây gió +Ruộng dân là chốn dân này + Dân bang kỳ ỷ sánh kỳ tây + Có dân làm lụng có làng ăn chơi Đó là chưa kể chữ " dân" và các hình thức khác ( đồng nghĩa hay gần nghĩa ) của khái niệm " dân" ( như người bốn phương…) còn thấp thoáng đây đó trong nhiều bài thơ khác. Những người dân ấy thật hạnh phúc vì họ được sống trong thanh bình, yên ấm. Cuộc sống ấy đẹp tựa những bức tranh thơ: Viễn viễn thương lang hàm tịch chiếu Lư Khê yên lý xuất ngư đăng Hoàng ba yểm ánh bạc cô đĩnh Lạc nguyệt sâm si phù tráo tăng ( Lư Khê ngư bạc) ( Dòng nước xanh xa xa ngậm ánh nắng tàn Trong làn khói ở Rạch Vược đèn chài ló rạng Sóng ngang gợn gợn thuyền lẻ ghé bến Trăng soi thấp thoáng lưới chài bàng bạc ) Cuộc sống ấy tươi vui, rộn rã như khúc nhạc đồng quê: Cách bến khe tiếng ngư ra rả Gõ be thuyền ca vã đòi cung Dưới rừng mấy trẻ mục đồng Lưng trâu thổi địch, gío lồng theo khe Tiều đi về dùng dằng chẳng dứt Cày lân la trưa trặt còn chơi (Bình San điệp thuý- Thơ quốc âm) Có an cư thì mới lạc nghiệp , trong thanh bình những người dân chăm chỉ làm ăn và họ đã có được một cuộc sống ấm no ,giầu đủ: Ruộng dân là chốn dân này Để khi gỏi rượu đến ngày nắng mưa Ba sào trưa hãy còn nghỉ khoẻ Toại tấc lòng già trẻ đều no (Lộc Trĩ thôn cư- Thơ quốc âm) Cuộc sống ấm no, trù phú còn được thể hiện ở cả những bài thơ hoạ khác: Lũng bối lộ phồn tang diệp nộn Sơn đầu phong tế đạo hoa linh …Đắc thất tuý lai tiều mộng phá Đồn quyền kê giá tịch sơ minh ( Lộc trĩ thôn cư- Bài hoạ của Lý Nhân Trường ) ( Dâu non lưng đồi đầy sương đọng Lúa tốt đầu gò nhẹ gió đưa …Được thua hươu chuối say tan mộng Chuồng lợn đàn gà tối đến nơi ) - Lộc tu lưu khách dã trà hắc Đồn túc nghinh thê viên quản thanh ( Nem hươu cầm khách chè quê đặc Giò lợn vợ về rau quả xanh ) Một cuộc sống thanh bình no đủ, một cuộc sống trù phú, ấm êm, đủ để cho ta nghĩ đến một đất nước thái bình, trên thuận dưới hoà, bốn phương phẳng lặng, gợi nhớ đến đất nước của vua Thuấn vua Nghiêu: - Lưới chài phơi trải đầy trời hạ, Gỏi rượu say sưa toại nghiệp hằng Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác Dân Nghiêu còn thấy răng răng ( Lư Khê ngư bạc - Thơ quốc âm) - Báo noãn bất tri thiên tử lực Phong đăng duy tín hải thần linh ( Lộc Trĩ thôn cư- bài hoạ của Nguyễn Cư Trinh ) ( No ấm biết gì uy thánh chúa Dồi dào tin ở biển thần thiêng ) Một thiên nhiên tươi đẹp, một cuộc sống ấm no, một đất nước thái bình, tất cả đều hiện lên rõ nét qua những dòng thơ của các tác giả Chiêu Anh Các. Điều đó cho thấy các tác giả Chiêu Anh Các đã tha thiết yêu đất nước Hà Tiên này đến nhường nào. Nói đến đây, không nên quên rằng, 67/75 tác giả Chiêu Anh Các có dòng dõi Minh Hương, ông cha họ là người nước Tàu. Điều ấy cho phép ta hiểu rằng sống trên đất Việt, nhìn ngắm bầu trời Việt thì cuộc sống Việt, tinh thần Việt đã kết duyên, đã ăn sâu bén rễ trong tâm hồn họ dẫu cho quê cha đất tổ của họ ở một phương trời xa xôi lắm. Và họ đã trở thành những con người mang dòng máu Việt, biết yêu và yêu thiết tha, yêu cháy bỏng mảnh đất này. 1.2- Một con người - một nhân cách- một tâm hồn - Mạc Thiên Tích a- Trước hết đó là người chiến sĩ mà cả cuộc đời ái quốc, trung quân. Trong Châu Nham lạc lộ, mượn hình ảnh bầy chim núi Châu Nham, Mạc Thiên Tích từ trong sâu thẳm đã tỏ bày tới cùng tâm sự: niềm tự hào và sung sướng vì đã tìm được đất lành để đậu, chúa sáng để thờ: Quen cây như thể người quen chúa Dễ đổi nghìn cân một tấc son Gắn bó máu thịt với mảnh đất Việt như bầy chim gắn chặt với cành làm nơi nương đậu, người chiến sĩ ấy ý thức sâu sắc vai trò và trách nhiệm vẻ vang của mình với đất nước, quê hương. Với tinh thần tự nhiệm cao độ, Sĩ Lân Mạc Thiên Tích đã tự xác định, tự nhận mình là đảo Kim Dự như người lính trấn giữ biên thuỳ, chở che cho nước Việt. Kim Dự này là núi chốt then Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên Ngăn ngừa nước giữ không vùng vẫy Che chở dân lành khỏi ngả nghiêng Và dù có khiêm cung rất mực, thì Mạc Thiên Tích cũng dõng dạc khẳng định vị thế của mình: Thế vững kềnh càng trên Bắc hải Công cao đồ sộ giữa Nam thiên Và với tấm lòng tri kỷ, tri tâm với Mạc Thiên Tích, Đạm Am Nguyễn Cư Trinh cũng đã viết trong bài hoạ thơ Kim Dự lan đào: Vua giận Dương hầu phạm cõi biên Đảo vàng đem đến trấn của Hà Tiên Điều mà Mạc Thiên Tích không tiện nói, chỉ ngụ ý trong thơ thì Đạm Am xác nhận như một khẳng định: việc Mạc Thiên Tích có mặt ở đây để trấn giữ Hà Tiên là một mệnh trời, là sự sắp đặt của tạo hoá. Thiên Tích tả đảo vàng chắn sóng, thơ Đạm Am hoạ lại rằng: " Di tương tiên đảo trấn tiền xuyên". Mạc Thiên Tích như hòn đảo vững chãi, hiên ngang, như tiền đồn bảo vệ non sông, đất nước. Chẳng những thế, Nguyễn Cư Trinh còn nhận ra Mạc Thiên Tích là " kình thiên vật" - cột chống trời để sóng biển muôn đời dội mãi: Tri quân diệc thị kình thiên vật Kim cổ thao thao độc nghiễm nhiên Gánh trên vai tinh thần tự nhiệm, có nhiều lúc, Mạc Thiên Tích không khỏi trăn trở, lo âu vì chưa trả được nợ chúa: Phiêu linh tự tiếu uông dương ngoại Dục phụ ngư long khước vị năng ( Lư Khê ngư bạc) ( Nổi trôi lại tự cười mình nơi biển lớn Muốn theo giúp cá rồng lại chưa thể được ) Niềm lo lắng liệu mình có làm tròn được bổn phận, nỗi băn khoăn liệu có báo đáp tình minh chúa là có thật bởi lẽ Mạc Thiên Tích luôn phải đối mặt với kẻ địch mạnh luôn nhòm ngó bờ cõi. Nhưng dù có thế, Mạc Thiên Tích vẫn biểu hiện mình là một trang anh hùng và khẳng định tấm lòng sắt son, trước sau như nhất, không đổi thay, phai nhạt. Trạm khoát ứng hàm thiên đăng dạng Phiêu linh bất hận hải thương lương Ngư long mộng giác xung nan phá Y cựu băng tâm thượng hạ quang ( Đông Hồ ấn nguyệt) ( Rộng lớn chứa đựng trời xa bát ngát, Nổi trôi không hận biển cả lạnh lẽo Cá rồng tỉnh giấc xông vào khó mà phá vỡ được Tấm lòng băng vẫn sáng quắc trên trời dưới nước) Hết lòng vì chúa, vì đất nước giang sơn, Mạc Thiên Tích sẵn sàng chấp nhận và bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, thậm chí cả hiểm nguy: Yêu nước nhà phải gài then chốt Dự phòng khi nhảy nhót binh đao Đêm hằng canh trống chuyền lao Miễn an đất chúa, quản nào thân tôi Dụt vạt sôi, bốn phương thanh phước Phép nhà binh một chước một hay ( Giang thành dạ cổ- thơ quốc âm) Và chính lòng yêu nước thiết tha đến cháy bỏng đã biến những trăn trở, suy tư thành ý chí, thành quyết tâm, thành hành động. Vững cơ đồ khoẻ phò thế nước Mở đường đi khỏi bước chông gai Sắt đinh là chí con trai Dành người điều vạc để ai chống thành (Giang thành dạ cổ -thơ quốc âm) Hành động của một người lính phò vua, giúp nước còn được thể hiện ở bài thơ chữ Hán: Khánh nhưng cảnh dạ toả kim giáp Nhân chính can thành ủng cẩm bào Vũ lược thâm thừa anh chủ quyến Nhật Nam cảnh vũ lại an lao (Giang thành dạ cổ) (Nghiêm ngặt suốt đêm, khoá chặt giáp sắt Bảo vệ nhân chính, giúp đỡ người áo gấm Đem lược thao đáp tình minh chúa yêu thương Giữ cho biên cương nước Việt được yên ổn) Mạc Thiên Tích yêu nước Việt, hết lòng thờ chúa Việt. Điều đó ta không phủ nhận, nhưng không thể vì thế mà vô tình hay cố ý lờ đi điều này: tâm tưởng của Mạc Thiên Tích với quê cha. Có làm rõ điều này thì mới càng thấy được tấm lòng của Mạc Thiên Tích với quê hương đất nước Việt, con người Việt. Người ta thường nói theo thói quen Mạc Thiên Tích là di thần của nhà Minh. Nhưng thực ra đấy chỉ là một khái niệm tương đối, vì lẽ ngay khi Mạc Cửu mới sinh ra thì nhà Minh đã mất rồi. Mạc Cửu là kẻ vong quốc. Vì thế, ở Mạc Thiên Tích, một con người mang nửa dòng máu Hán lại sinh ra nơi đất khách quê người thì nhà Minh chỉ còn là một hoài niệm xa vời. Nhà Minh được chuyển hoá thành quê cha, thành nguồn cội. Ở bài phú Buông câu trên Lư Khê ( Lư Khê nhàn điếu ) ta sẽ gặp một ông chài còn sót lại trên biển nhà Minh ngoảnh đầu ngoái về nước cũ: Tưởng Người đẹp chừ đang vò võ phương nào Nhớ nước cũ chừ chỉ chăm chăm ngoái cổ Muốn bữa ăn muộn chừ mà cúng giỗ Không ít người chẳng tán đồng việc họ Mạc hướng về nhà Minh, không ít người nghi ngờ mưu đồ vương bá của Mạc Thiên Tích. Phải chăng họ muốn Mạc Thiên Tích phải và chỉ trở thành một con người vô tình, vô nghĩa. Phải nói lại rằng, chính ở điều này Mạc Thiên Tích mới chính là một con người đích thực. Bởi lẽ biết hướng về quê cha đất tổ, biết ngóng về nơi cắt rốn chôn rau là những tình cảm tự nhiên cần có và không thể không có ở một con người. Tuy nhiên, chỉ có điều ở Mạc Thiên Tích, ta chẳng hề tìm thấy một ý thức phục Minh. Nước cũ chỉ còn là một hoài cảm mênh mang và sâu thẳm về quê cha, về cái nguồn cội một đi không trở lại. Giờ đây đất nước của Mạc Thiên Tích là đất nước Việt, quê hương của ông là quê hương Việt, cụôc sống của ông là cuộc sống Việt. Trên mảnh đất ấy, Mạc Thiên Tích đã biết sống, biết yêu. Và nhờ tình yêu ấy, ông đã ngợi ca không dứt về đất nước Hà Tiên của mình. Bởi thế không hoàn toàn vô cớ khi có người cho rằng: "Thơ Thiên Tích viết về Hà Tiên còn đẹp hơn cả Hà Tiên nữa". Có thể nói chính Mạc Thiên Tích là người vừa phát hiện, vừa sáng tạo ra cảnh đẹp Hà Tiên. Thực lòng mà nói thì những Kim Dự, Đông Hồ, rồi Châu Nham, Thạch Động cũng chẳng phải bồng lai, tiên cảnh gì so với những kì sơn, dị thuỷ khác, nhưng sở dĩ được nhiều người biết rồi ngợi khen chính vì họ đọc thơ trước khi nhìn thấy cảnh. Nhiều người gắn bó với Hà Tiên nói rằng, Hà Tiên còn nhiều cảnh đẹp khác như Mo So ( núi Đá Trắng), chùa Hang, hòn Phụ Tử nhưng ít người biết vì chưa may mắn được Mạc Thiên Tích viết thành thơ. Trong khi đó, Châu Nham không còn cò đậu, con rạch Lư Khê bị lấp lâu rồi mà vẫn sống mãi trong lòng người. Xem vậy mới thấy thơ của Mạc Thiên Tích có vai trò lớn như thế nào đối với Hà Tiên. Và để có được những dòng thơ ấy, không thể thiếu một tấm lòng chân thành, một tình cảm thiết tha gắn bó máu thịt với mảnh đất trước đây vốn chỉ là quê người nay đã trở thành quê mình, mãi mãi không gì có thể cắt chia, ngăn cách. b- Không chỉ thế, đọc thơ Mạc Thiên Tích - Chiêu Anh Các, chúng ta còn cảm phục một tấm lòng nhân ái, chan chứa yêu thương. Là người gây dựng Hà Tiên, Mạc Thiên Tích không thôi lo lắng, trăn trở cho cuộc sống của dân. Ông dành cho dân một tình cảm ưu ái đặc biệt, một tình cảm chỉ có thể có ở những người ruột thịt: Nỗi buồn vui mặc lòng nhộn nhã Gối chưa êm, chưa hả sự lòng ( Tiêu tự thần chung - thơ quốc âm) Ông nguyện là một chiến sĩ chở che, bao bọc cho cuộc sống của dân, để dân được sống trong thanh bình: " Che chở dân lành khỏi ngả nghiêng" ( Kim Dự lan đào). Ông sung sướng hạnh phúc khi chứng kiến cảnh dân được sống trong ấm no, giầu đủ, trong tiếng nói cười: Riêng một phương cày mây cuốc nguyệt Ba tháng xuân chưa thiệt một ngày Đồng Châu nội vũ ra tay Khi câu nước trị, khi cày nhà an ( Lộc Trĩ thôn cư) Thương dân, mến dân, ông đã thi hành một chính sách" khoan dân": Đã no say lại tình nhân nhượng Vì ở nơi cư thượng hữu khoan Thảnh thơi đất phẳng bừa an Có dân làm lụng có làng ăn chơi ( Lộc Trĩ thôn cư - thơ quốc âm) Bởi thế ông tự hào vì cuộc sống ấy có một phần đóng góp của ông, ông tự hào vì mình là tác giả của bức tranh ấm no ấy: Đâu no thì đó là an lạc Lựa phải chen chân chốn thị thành Bên cạnh đó, ông cũng luôn khao khát ước mơ và phấn đấu đến cùng vì một cuộc sống ấm no, một đất nước thái bình và tình hoà hiếu giữa các dân tộc. Ở một vị thế có nhiều thuận lợi, Hà Tiên thường xuyên bị ngoại bang nhòm ngó và đã không ít lần phải chạy giặc Xiêm. Vì thế, hơn nơi nào hết, Hà Tiên rất sợ chiến tranh. Những người dân Hà Tiên hiểu rằng chiến tranh là tàn phá, quan quân chẳng thể ngồi yên hưởng cảnh thái bình: Hết ruổi rong gặp ngày ca khải Thu quân về cảng hải dưỡng dân Mơ ước một cuộc sống ấm no, thái bình, Mạc Thiên Tích luôn ôm ấp một hoài bão xây dựng tình hoà hiếu giữa các dân tộc: Kẻ gió mây người thì non nước Hai phía đều chiếm được thu thanh ( Đồng Hồ ấn nguyệt) Đất nước có vững vàng, bình yên, phẳng lặng thì dân mới yên ổn làm ăn, mới được sống trong vui vẻ, an lạc. Và tất cả những ước mơ, hoài bão, khát khao ấy, suy cho cùng, đều xuất phát từ một tấm lòng nhân ái bao la, biết trân trọng hoà bình, biết nâng niu sự sống. Bên cạnh Mạc Thiên Tích, một võ tướng tận trung hết mực, còn có một Mạc Thiên Tích nặng lòng yêu thương, bao dung, trìu mến. c- Cuối cùng, giở những trang thơ, trang văn của Mạc Thiên Tích, chúng ta còn bắt gặp một tâm hồn thi nhân, một trái tim nghệ sĩ. Trước hết, thi sĩ ấy đã gửi vào trong thơ những tâm sự, những suy tư, trăn trở, những nỗi niềm đau đáu bâng khuâng trước dâu bể cuộc đời. Trong cái mênh mang vô cùng, vô tận c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvh01 (6).doc