Phần mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận 1
Phần Nội Dung 4
Chương I: Cơ sở lý luận 4
1.Tổng quan nghiên cứu vấn đề 4
1.1 Lịch sử nghiên cứ thái độ 4
1.1.1. Nghiên cứu thái độ trong tâm lý học phương Tây 4
1.1.2. Nghiên cứu thái độ trong tâm lý học Liên Xô (cũ). 5
1.1.3. Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam 7
2. Các khái niệm công cụ của đề tài 7
2.1.Thái độ 7
2.1.1.Khái niệm: 7
2.1.2.Đặc điểm của thái độ 11
2.1.3. Cấu trúc của thái độ 11
2.1.4. Chức năng của thái độ 12
2.1.5. Cơ chế hình thành thái độ 13
2.1.6. Thang đo thái độ 14
2.1.7. Mối quan hệ giữa thái độ và các hiện tượng tâm lý khác 14
2.1.8. Các yếu tố quyết định tới sự hình thành và phát triển thái độ 17
2.2. Khái niệm “hoạt động” 18
2.3.Văn hoá quần chúng 19
2.3.1. Khái niệm: 19
2.3.2. Chức năng của “Văn hoá quần chúng” 20
2.3.3. Mục tiêu của “Văn hoá quần chúng” 21
2.4. Thanh niên 21
2.4.1. Các quan niệm về lứa tuổi thanh niên 22
2.4.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên 23
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26
1. Về quá trình nghiên cứu 26
2. Thái độ của thanh niên xã Sơn Thịnh với hoạt động VHQC 26
2.1. Thái độ của thanh niên xã Sơn Thịnh với các hoạt động VHQC biểu hiện ở mặt nhận thức 26
2.1.1. Nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh về khái niệm VHQC 27
2.1.2. Nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh về mức độ cần thiết của hoạt động VHQC với thanh niên địa phương. 29
2.1.3. Nhận thức của thanh niên về mục đích hoạt động VHQC 31
2.2. Thái độ của thanh niên với các hoạt động VHQC thể hiện ở mặt xúc cảm - tình cảm 34
2.3. Thái độ của thanh niên xã SơnThịnh với hoạt động VHQC thể hiện qua hành vi 38
2.3.1. Thực trạng tham gia của thanh niên với hoạt động VHQC 38
2.3.2. Mức độ tham gia hạot động VHQC của thanh niên 42
2.2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tham gia hoạt động VHQC của thanh niên 45
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50
1. Kết luận 50
2. Kiến nghị 50
2.1. Đối với thanh niên 51
2.2. Đối với các cấp lãnh đạo địa phương 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
Phiếu trưng cầu ý kiến 53
67 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thái độ của thanh niên xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái với hoạt động văn hoá quần chúng tại địa phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính vì vậy có rất nhiều quan điểm nghiên cứu vầ nó. Chúng ta có thể điểm qua:
Quan điểm sinh vật học: coi yếu tố đầu tiên xác định tuổi thanh niên là sự tiến hoá của cơ thể. Các quá trình sinh vật của sự trưởng thành quyết định mọi cái khác.
Quan điểm xã hội học: Các nhà xã hội học chú ý trước hết đến tính xã hội hoá và coi mức độ xã hội hoá của cá thể là tiêu chí quyết định sự phát triển.
Quan điểm phâm tâm học: Các nhà phân tâm học quan tâm nhiều đến tính dục, nhân tố chi phối sự phát triển của lứa tuổi này.
Quan điểm tâm lý học: Các lý luận tâm lý học lại tập trung vào những qui luật tiến hoá của tâm lý, ý thức là cái cơ bản quyết định sự phát triển.
Các quan điểm trên đều xét thuần tuý ở một khía cạnh cụ thể mà chưa xét nó trong mối quan hệ biện chứng, như Mác đã từng nói: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”(Luận cương thứ 6 về Phoiơbach). Chúng tôi đồng ý với quan điểm Macxit cho răng cần phải nghiên cứu và lứa tuổi này một cách phức hợp, để tìm ra mối tác động qua lại giữa chúng và những qui luật bên trong (8,tr65). Trong đó vai trò hoạt động tích cực của chủ thể trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của môi trường xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong từ điển tâm lý học, tác giả Nguyễn Khắc Viện đã xác định “Tuổi thanh niên bắt đầu vào lúc dậy thì từ 14-15 tuổi có khi sớm hơn và mốc kết thúc không xác định rõ như bắt đầu vì nhiều yếu tố tâm lý xã hội quyện vào sự trưởng thành sinh lý”(2,tr 375). ở đây ông muốn nhấn mạnh tới yếu tố tích cực xã hội của cá nhân, khi cá nhân có một nhân cách hoàn thiện với đầy đủ những đặc trưng về tâm sinh lý giai đoạn lứa tuổi đó thì chính là điều kiện bước sang một giai đoạn lứa tuổi mới. Chính định nghĩa mà giới hạn thứ nhất là sinh lý và giới hạn cuối cùng là giới hạn xã hội đã chỉ ra tính phức tạp và nhiều mặt của giai đoạn này.
Tuy nhiên qua các nhgiên cứu, tâm lý học lứa tuổi cũng đã xác định được tuổi thanh niên là thời kỳ 14-15 tuổi đến 25 tuổi, trong đó chia làm hai thời kỳ(8,tr 67):
Từ 14,15 tuổi đến 17, 18 tuổi: giai đoạn đầu tuổi thanh niên (thanh niên học sinh).
Từ 17,18 tuổi đến 25 tuổi: giai đoạn 2
Trong đề tài này, do điều kiện, đặc điểm của địa bàn tổ chức nghiên cứu là một xã miên núi khó khăn và đang là thời điểm nông nhàn thanh niên thường đi làm xa nên chúng tôi quyết định chọn khách thể giới hạn ở giai đoạn đầu tuổi thanh niên, độ tuổi 15 đến 19 tuổi.
2.4.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên
Điều chúng tôi quan tâm hơn cả việc đánh giá thái độ của thanh niên đó là các yếu tố tâm sinh lý lứa tuôie ddã có ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành và phát triển thái độ. Chúng ta sẽ tìm hiểu các nết đặc trưng về tâm sinh lý lứa tuổi này.
-Về sinh lý: Là thời kỳ dần hoàn thiện sự chín muồi về thể chất. Đa số thanh niên bước vào thời kỳ này đã sau dậy thì nhưng vẫn phải hoàn thành nốt nhiệm vụ và khắc phục tình trạng mất cân đối do sự chín muồi không đồng chế ước. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của não.
-Về tâm lý:
Theo tác giả Nguyễn Khắc Viện cho rằng: tuổi thanh niên thường không ổn định, là tuổi phân vân trăn trở trước ngả đường. Sự hiểu biết khá sâu rộng nhưng kinh nghiệm cuộc đời còn ít, cho nên dễ có những thái độ và hành động cực đoan, dễ nhiệt tình, dễ bi quan chán nản.(9, tr34)
Đây là giai đoạn chuẩn bị cho một sự hoàn thiện về mọi mặt mà I.S.Kon gọi là “giai đoạn cuối cùng của xã hội hoá ban đầu”. Chính vì vậy mà đời sống tâm lý rất phong phú, phức tạp và phát triển mạnh ở tất cả các mặt: nhận thức, trí tụe, tình cảm, thế giới quan,tính tích cực xã hội, ý thức và tự ý thức, định hướng giá trị…Đặc trưng nội bật của thanh niên muốn tạo ra cái mới, cái riêng của mình, thể hiện sức mạnh, khả năng bản thân. Họ ít thoả mãn với những gì đã biết và luôn muốn đào sâu suy nghĩ để nắm vấn đề sâu rộng hơn.
+ Những đặc điểm về nhận thức:
Do sự hoàn thiện về cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh trung ương và các giác quan, do sự tích luỹ phong phú kinh nghiệm sống và tri thức, do yêu cầu ngày càng cao của hoạt động học tập, lao động, xã hội, nhận thức cảm tính cả thanh niên có những nét mới về chất. Cảm giác tri giác đạt tới mức độ tinh nhạy của người lớn. Đặc điểm nổi bật của sự phát triển tri giác, cảm giác trong giai đoạn đầu tuổi thanh niên là có tính ý thức, có mục đích, có hệ thống biểu hiện rõ rệt trong quá trình học tập cũng như trong mọi hoạt động khác. Do nhạy cảm của óc quan sát, giai đoạn này thanh niên dễ phát hiện những đặc điểm của sự vật, hiện tượng, hay nhanh chong bị thu hút vào những hoạt động mới mẻ, hấp dẫn.
Đây là giai đoạn tiếp tục hoàn thiện các năng lực trí tuệ. Theo Piagiê ở tuổi này các em đã đạt được các thao tác trí tuệ bậc cao như người lớn, đó là tư duy hình thức, tư duy logíc. Nhìn chung ở giai đoạn đầu tuổi thanh niên này các em đã có được khả năng tư duy đọc lập, tư duy khái quát. Bên cạnh đó là trí tưởng tượng phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức.
+ Đặc điểm phát triển nhân cách
Khả năng tự ý thức phát triển khá sớm ở con người và được hoàn thiện tưng bước, đến 15-16 tuổi thì phát triển mạnh. Biểu hiện đực trưng là thanh niên nhận thức được các đặc điểm và phẩm chất của mình trong xã hội, trong cộng đồng, ở mức cao hơn là khả năng tự đánh giá về mình theo những chuẩn mực của xã hội trên bình diện thể chất, tâm lý, đạo đức. Hơn bất cứ tuổi nào, thanh niên tự đánh giá về hình ảnh bản thân một cách tỉ mỉ, nghiêm khắc. Thanh niên luôn khao khát muốn biết họ là người như thế nào?Có năng lực gì?Và để đánh giá cũng như khẳng định hay thể hiện mình trước mọi người thì thanh niên luôn nhiệt tình tham gia vào các hoạt động, tự nguyện nhận những nhiệm vụ khó khăn, tiên phong thực hiện những cách làm mới…
+Sự hình thành thế giới quan:
Thế giới quan là cái nhìn hệ thống, tổng hợp, khái quát về thế giới (tự nhiên và xã hội) của con người. Nó có ý nghĩa chỉ đạo hành động, cách ứng xử của cá nhân trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Trong giai đoạn này đã có quá trình tích luỹ một hệ thống tri thức, kỹ năng, lối sống, hành vi…trong nhiều năm, nên đã có khả năng đúc kết những suy nghĩ của mình trong việc nhìn nhận thế giới, Họ đã có những cái nhìn chung nhất đối với những qui luật của tự nhiên và xã hội nhưng chưa đạt được đến mức độ sâu sắc, bền vững.
Cách nhìn nhận về tự nhiên, xã hội, con người của thanh niên giúp họ có những lý giải đối với các hiện tượng trong cuộc sống cũng như định hướng, thúc đẩy họ tích cực tham gia vào hoạt động.
+ Đời sống xúc cảm, tình cảm:
Đời sống xúc cảm, tình cảm ở đầu tuổi thanh niên rất phong phú, đa dạng.Điều đó được qui định bởi các mối quan hệ giao tiếp của thanh niên đang ngày càng được mở rộng về phạm vi và đặc biệt là phát triển về mặt chất lượng. Trong đó nổi bật là mức độ ngày càng bình đẳng trong giao tiếp với người lớn và bạn bè cùng độ tuổi, điều này được thể hiện mong muốn và tích tham gia vào các hoạt động xã hội, các tổ chức đoàn thể hay sinh hoạt các câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm yêu thích. Đó cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng tạo nên nhân cách tuổi thanh niên.
chương 2: Kết quả nghiên cứu
1. Về quá trình nghiên cứu
Theo lý thuyết về thái độ chúng tôi nghiên cứu trên ba mặt: nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi. Trong đề tài của chúng tôi, việc nghiên cứu thái độ của thanh niên chúng tôi lựa chọn khách thể là những thanh niên ở giai đoạn đầu (từ 15 đến 19 tuổi). Chúng tôi tiến hành rải 150 phiếu điều tra và kết quả thu về là 119 phiếu hợp lệ; trong đó có 50 khách thể là nam 69 khách thể là nữ. Chúng tôi lấy đây là số liệu đối chứng của thanh niên xã Sơn Thịnh huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái với hoạt động VHQC tại địa phương hiện nay.
2. Thái độ của thanh niên xã Sơn Thịnh với hoạt động VHQC
Để đánh giá thực trạng, thái độ của thanh niên xã Sơn Thịnh với các hoạt động VHQC hiện nay, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên ba mặt: Nhận thức, tình cảm, hành vi. Đây là ba mặt trong cấu trúc thái độ như đã phân tích ở phần cơ sở lý luận.
2.1. Thái độ của thanh niên xã Sơn Thịnh với các hoạt động VHQC biểu hiện ở mặt nhận thức
Nhận thức về bản chất của hoạt động VHQC là một nội dung quan trọng trong thái độ của thanh niên với hoạt động này. Đối với bất kỳ một đối tượng nào đó, con người muốn tỏ thái độ về chúng thì trước hết chúng ta phải có hiểu biết nhận định về đối tượng đó. Những hiểu biết có thể do quá trình nhận thức của chủ thể, tự bản thân mỗi chủ thể tự tìm tòi khám phá để hiểu được bản chất của đối tượng. Vì vậy mà không có quá trình nhận thức này chủ thể sẽ không thể tỏ rõ thái độ đúng đắn với đối tượng. Nhận thức chính là cơ sở cho việc hình thành thái độ, thể hiện thái độ.
Vì vậy mà khi nghiên cứu thái độ chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu sự hiểu biết của thanh niên về khái niệm VHQC, về mục đích của hoạt động VHQC và mức độ cần thiết của VHQC trong đời sống thanh niên.
2.1.1. Nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh về khái niệm VHQC
Về cơ bản, bản chất của khái niệm VHQC là cơ sở để chúng tôi xây dựng định nghĩa về VHQC. Theo định nghĩa đó, thì hoạt động VHQC là "Các hình thức sinh hoạt văn hoá cho quần chúng đông đảo và quần chúng đông đảo có thể tham gia". Với cách hiểu như trên về VHQC sẽ giúp thanh niên hiểu được bản chất và đặc trưng của VHQC trong quá trình thanh niên tham gia vào các hoạt động này.
Để tìm hiểu nhận thức của thanh niên về bản chất của VHQC chúng tôi đã đưa ra câu hỏi: Theo bạn VHQC là:
- Kết quả thu được
STT
Nội dung
Số phiếu
Tỷ lệ (%)
1
Hoạt động thể dục thể thao
73
61.30
2
Hoạt động văn nghệ, thơ ca, câu lạc bộ
89
74.78
3
Hoạt động bảo tồn và phát huy các di tích văn hoá, các lễ hội truyền thống của làng xã
83
69.74
4
Hoạt động sinh hoạt chi đoàn thanh niên
79
68.38
5
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức kế hoạch hoá gia đình
59
49.57
Bảng 1: Nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh về nội dung của hoạt động văn hoá quần chúng.
Theo như kết quả cho thấy có tới 74,78% thanh niên cho rằng VHQC là hoạt động văn nghệ, thơ ca, câu lạc bộ. Đây là hình thức thường xuyên được tổ chức trong các ngày lễ tết của địa phương do đó thu hút được đông đảo sự chú ý, tham gia của thanh niên cũng như các tầng lớp khác. Bên cạnh đó, toàn xã Sơn Thịnh có 14 đội văn nghệ sinh hoạt trên 17 thôn (theo báo cáo của cán bộ văn hoá xã) hoạt động thường xuyên nhằm duy trì, phát huy các làn điệu dân ca, các điệu múa đặc trưng của các dân tộc… mà lực lượng lòng cốt tham gia là thanh niên, phụ nữ. Hoạt động thể dục thể thao cũng khá phát triển vì toàn xã có tới 17 đội bóng ở 17 thôn, bản và hoạt động thể thao luôn được diễn ra không chỉ trong dịp lễ tết mà các đội bóng còn thường xuyên giao lưu, thi đấu giao hữu giữa các thôn. Ngoài ra, có thôn còn thành lập đội bóng đá nữ, bóng chuyền như vậy có thể thấy hoạt động thể dục thể thao cũng đã phát triển mạnh mẽ cho dù cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn. Xã Sơn Thịnh là một xã vùng núi kinh tế còn khó khăn không có sân bóng nhưng qua quan sát chúng tôi thấy chỉ cần một bãi đất trống tương đối bằng phẳng là họ có thể tổ chức được hoạt động thể thao của mình. Như vậy cho thấy văn nghệ, thể thao đã thu hút được đông đảo được thanh niên tham gia và hơn thế nó đã trở thành nhu cầu của họ để có thể làm phong phú hơn đời sống tinh thần cũng như tăng cường về sức khoẻ. Do đó mà ta có thể thấy nhận thức của thanh niên ở hai phương án này là rất cao.
Sơn Thịnh là một xã vùng cao hội tụ 7 dân tộc anh em cùng chung sống nên có rất ít người là dân bản địa, đây cũng là yếu tố lý giải trên địa bàn xã Sơn Thịnh gần như không có các công trình di tích (như:Đền thờ, Chùa, Miếu được xếp hạng di tích). Mà ở đây việc bảo tồn, phát huy chính là ở văn hoá các dân tộc anh em như những phong tục của người Mông, điệu múa của người Tày, hay lễ hội mùa xuân của người Thái…. Với những đặc trưng này cùng với điều kiện sống đan xen đoàn kết giữa các dân tộc trong xã nên hoạt động này được sự quan tâm không chỉ của một tầng lớp hay một dân tộc nào mà nó đã thu hút sự quan tâm của tất cả nhân dân trong xã. Đặc biệt thanh niên là những thế hệ trẻ tuổi của các dân tộc, họ có những nhu cầu giao lưu tìm hiểu những điều mới điều hay do đó thanh niên luôn coi đây là một hoạt động cần thiết trong đời sống văn hoá của mình thể hiện ở 69,74% thanh niên lựa chọn phương án này.
Đặc biệt có tới 69,74% thanh niên xã Sơn Thịnh lại nhận thức rằng hoạt động chi đoàn thanh niên cũng là hoạt động VHQC kết quả này cùng với báo cáo của cán bộ văn hoá xã cho thấy phong trào đoàn thanh niên tại xã là khá phát triển, các chi đoàn thanh niên đã tổ chức được nhiều hoạt động thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên, tham gia vào lý do này làm cho thanh niên nhận thức rằng đó là hoạt động VHQC mà không nhận thức được rằng đây chỉ là tổ chức của thanh niên cho riêng thanh niên chứ không cho các tầng lớp khác tham gia cùng.
Về bản chất của khái niệm VHQC thì không phải là khó để thanh niên có thể nhận thức đúng. Tuy nhiên thanh niên rất dễ hiểu nhầm hoặc đồng nhất khái niệm quần chúng với khái niệm đông đảo. Họ coi tất cả những hoạt động có đông người tham gia dù thành phần chỉ là một tầng lớp vẫn cho là hoạt động VHQC và đây là những nhận thức chưa đúng đắn cần phải thay đổi.
Việc thanh niên có những nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất về khái niệm VHQC như vậy cũng là do đến nay các tài liệu về VHQC là ít. Các tài liệu chính thống in thành sách hầu như không có, thường chỉ là các văn kiện, thông chi về hoạt động gửi cho các cán bộ lãnh đạo và như vậy nó không đến được với đông đảo quần chúng nhân dân đặc biệt là thanh niên. Vì lẽ đó, cơ hội để thanh niên nhận thức đầy đủ về hoạt động này còn nhiều hạn chế. Đây cũng chính là lý do có tới 68,38% thanh niên cho rằng sinh hoạt chi đoàn thanh niên, và 49,57% cho rằng tuyên truyền kiến thức kế hoạch hoá gia đình là hoạt động VHQC
Những khái niệm vừa nêu ra trong bảng hỏi thực chất là những cách hiểu thông thường nhất về VHQC mà chúng tôi đã đưa đến để tìm hiểu nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh và kết quả cho thấy là phần lớn thanh niên đã nhận thức được VHQC là "Những hoạt động văn hoá phục vụ cho quần chúng đông đảo và quần chúng đông đảo có thể tham gia".
2.1.2. Nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh về mức độ cần thiết của hoạt động VHQC với thanh niên địa phương.
Với nhận thức khá đầy đủ và đúng đắn về khái niệm VHQC của thanh niên xã như trên thì chúng tôi đi đến tìm hiểu tầm quan trọng của hoạt động này trong đời sống của thanh niên địa phương và thu được kết quả như sau
Mức độ cần thiết của hoạt động VHQC
Có tới 89 trên tổng số 119 thanh niên được hỏi cho rằng VHQC là rất cần thiết, 29/119 cho rằng lầ cần thiết đối với thanh niên chiếm tới 99,25%. Như vậy có thể thấy vai trò và ý nghĩa của hoạt động VHQC là rất lớn trong đời sống của thanh niên.
Thực tế cho thấy sau những giờ học tập tại trường, rồi lao động giúp gia đình, thanh niên lại được ca hát vui chơi, được múa những điệu múa của dân tộc mình như múa Thái, múa Tằng bu của người Tày… và không chỉ được theo dõi những môn thể thao trên ti vi mà họ còn được trực tiếp thể hiện tài năng của mình, áp dụng những điều mình đã học hỏi, đã thấy ở các cầu thủ chuyên nghiệp ngay trên các trận bóng ở thôn mình và còn được thi đấu giao hữu với các thôn bản khác. Ngoài ra, họ còn được tham gia vào các lễ hội nhằm lưu giữ các nét văn hoá truyền thống cũng như được tham gia vào các trò chơi dân gian thú vị như: đẩy gậy, ném còn, đu ngựa… đây là dịp mà các thôn bản các dân tộc được thi đua, thể hiện những tinh hoa độc đáo của dân tộc mình được giao lưu học hỏi những điệu múa đẹp, những phong tục hay của các dân tộc khác nhằm tăng tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em trong toàn xã. Chính vì vậy, dù có nhiều khó khăn về kinh tế, trở ngại về điều kiện tự nhiên nhưng hoạt động VHQC vẫn được thanh niên cho rằng cần thiết với đời sống của họ.
2.1.3. Nhận thức của thanh niên về mục đích hoạt động VHQC
Để tìm hiểu nhận thức của thanh niên xã về mục đích hoạt động VHQC chúng tôi đã đưa ra các mục đích mang tính xã hội và các mục đích mang tính cá nhân. Và kết quả thu được:
Bảng 3: Nhận thức của thanh niên xã Sơn Thịnh về mục đích của hoạt động
văn hoá quần chúng
STT
Mục đích
Số phiếu
Tỷ lệ (%)
1
Phát huy tinh thần tập thể, sự đoàn kết cộng đồng làng xã
99
88.19
2
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của địa phương.
93
78.15
3
Làm phong phú đời sống tinh thần của bản thân
78
65.54
4
Tạo điều kiện giao lưu mở rộng các mối quan hệ với mọi người
86
72.27
5
Giúp học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm ứng xử xã hội và hợp tác làm việc.
72
60.50
6
Trao đổi học hỏi kinh nghiệm sản xuất nhằm nâng cao nhận thức và tay nghề để tăng năng suất lao động
68
57.14
7
Tuyên truyền xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh
85
71.43
8
Tăng cường mối quan hệ giữa cán bộ và đời sống nhân dân.
65
54.62
Qua bảng số liệu thu được chúng tôi thấy rằng các mục đích mang tính xã hội đều được thanh niên nhận thức rất cao. Có tới 99/119 thanh niên cho rằng VHQC sẽ phát huy tinh thần tập thể, sự đoàn kết cộng đồng toàn xã chiếm tới 88,19%; hay hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống cũng như xây dựng một nếp sống mới lành mạnh cho thôn bản thì cũng có trên 70% thanh niên đồng ý. Như vậy cũng có thể hoạt động VHQC của xã Sơn Thịnh đã có những ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của nhân dân nói chung và tầng lớp thanh niên nói riêng
Thông qua những hoạt động phong phú, sinh động, VHQC tại xã Sơn Thịnh đã thực hiện được chức năng giáo dục một cách đắc lực nhất. Nó góp phần to lớn đem lại nhận thức cho nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ - thanh niên về đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước như xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh. Qua hoạt động VHQC cho thanh niên thấy được những tính ưu việt của Xã hội Chủ nghĩa, nhân dân lao động không chỉ làm chủ về chính trị, làm chủ về kinh tế mà còn làm chủ về văn hoá. Đó là sự phát huy tính sáng tạo, chủ động, tự nguyện của đông đảo quần chúng nhằm tăng cường tình đoàn kết, tinh thần tập thể trong cộng đồng làng xã cũng như bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc anh em cùng chung sống trên địa phương Sơn Thịnh này.
Bên cạnh việc nhận thức được những mục đích mang tính xã hội thì thanh niên xã cũng đánh giá được hoạt động VHQC còn có những mục đích cá nhân như trước tiên là đem lại một đời sống tinh thần ngày một phong phú cho bản thân thanh niên nhằm phát triển một con người toàn diện. Vì vậy, mà thanh niên xã đã có cái nhìn và sự đánh giá khá tốt về hoạt động này nên có tới 72,27% thanh niên cho rằng VHQC luôn tạo điều kiện giao lưu mở rộng các mối quan hệ với mọi người và giúp họ học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm ứng xử xã hội cũng như cách thức hợp tác làm việc (60,50%).
Mặt khác, thanh niên cũng cho rằng các hoạt động VHQC còn quay trở lại phục vụ các hoạt động nhằm phát triển đời sống vật chất, thúc đẩy nền kinh tế của địa phương đi lên thông qua các buổi trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sản xuất nhằm nâng cao nhận thức và tay nghề để năng suất lao động ngày một cao hơn (57,14%). Và để tăng cường các mối quan hệ giữa cán bộ và đời sống nhân dân thì chỉ có 54,62%. Như vậy, thanh niên chưa đánh giá cao vai trò của đội ngũ cán bộ hay nói cách khác các hoạt động VHQC chưa làm cho thanh niên thấy được tính tổ chức, sự hướng dẫn chỉ đạo, quan tâm, sâu sắc của lãnh đạo địa phương. Đây cũng là một điểm đáng lưu ý trong công tác tổ chức hoạt động VHQC tại địa phương.
Với nhận thức khá đúng đắn về VHQC cũng như mục đích mà VHQC đem lại thì đã thúc đẩy thanh niên tham gia tích cực vào các hoạt động VHQC. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng tôi đặt ra câu hỏi: Vì sao bạn tham gia VHQC và đã thu được kết quả sau:
Bảng 4: Lý do khiến thanh niên xã Sơn Thịnh tham gia hoạt động văn hoá quần chúng
STT
Lý do
Số phiếu
Tỷ lệ (%)
1
Được tổ chức phân công công việc
20
16.81
2
Phù hợp với năng khiếu và sở thích của bản thân
75
63.03
3
Được vận động tham gia
30
25.21
4
Sợ bị cô lập với tập thể
14
11.76
5
Để giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hoá của làng xã
96
80.67
6
Tăng cường sức khoẻ cộng đồng
63
52.94
7
Nâng cao dân trí
63
52.94
Nhận thức được sâu sắc mục đích xã hội lớn lao mà hoạt động VHQC đem lại cũng đã làm nảy sinh những động cơ xã hội thúc đẩy thanh niên tham gia hoạt động như là: Bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hoá của làng xã thì có 96/19 thanh niên lựa chọn lý do này chiếm 80,67%
Các hoạt động phong phú với những nội dung đa dạng trong hoạt động VHQC đã thực sự thu hút thanh niên tham gia bởi nó phù hợp với năng khiếu, sở thích của bản thân thanh niên cũng như nâng cao được trình độ dân trí và tăng cường sức khoẻ cho các bạn. Vì vậy, lý do này cũng được các bạn lựa chọn khá nhiều.
Với những buổi tập văn nghệ thanh niên được hát múa những bài hát, điệu múa truyền thống của dân tộc mình. Những thời gian hào hứng sôi nổi bên trái bóng thanh niên được thoải mái thể hiện bản thân, được giao lưu kết bạn đáp ứng được nhu cầu phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý của thanh niên trong giai đoạn đầu lứa tuổi. Các hoạt động đã trở thành nhu cầu bức thiết của thanh niên chứ không còn phải chờ đợi cán bộ vận động kêu gọi tham gia hay phải được tổ chức phân công thì mới hoạt động do đó thanh niên lựa chọn lý do này là rất ít.
Tóm lại, khi đánh giá thái độ của thanh niên với hoạt động VHQC biểu hiện ở mặt nhận thức của thanh niên về khái niệm VHQC, mục đích, mức độ cần thiết của hoạt động VHQC chúng tôi nhận thấy:
Đa số thanh niên nhận thức được đúng đắn về khái niệm hoạt động VHQC, về mục đích và mức độ cần thiết của VHQC ở cả mặt xã hội hay khía cạnh của từng cá nhân. Bên cạnh đó, các bạn thanh niên còn có nhận thức, quan niệm chưa đầy đủ như: quan niệm quần chúng là lực lượng đông đảo chỉ về số lượng mà không chú ý tới phương diện đầy đủ về các tầng lớp giai cấp trong xã hội. Nhưng nhìn chung thanh niên có thái độ tích cực và cố gắng trong việc nhận thức hoạt động VHQC.
2.2. Thái độ của thanh niên với các hoạt động VHQC thể hiện ở mặt xúc cảm - tình cảm
Trong mối quan hệ với thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn tỏ thái độ của mình với thế giới đó nữa. Những hiện tượng tâm lý hiển thị thái độ chủ quan của cá nhân đối với người khác, đối với sự vật hay hiện tượng khách quan trong quá trình thoả mãn những nhu cầu vật chất hay tinh thần được gọi là xúc cảm - tình cảm. Đời sống tình cảm của con người rất phong phú và phức tạp, được thể hiện ra ở nhiều hình thức, mức độ khác nhau, có ảnh hưởng trực tiếp đến các quá trình và các hoạt động tâm lý của con người.
Trong quá trình tiếp xúc, tìm hiểu về hoạt động VHQC tình cảm của mỗi thanh niên với hoạt động này có vai trò đặc biệt quan trọng. Chỉ khi có tình cảm tốt đẹp, tích cực và sâu sắc thì mỗi cá nhân mới có sự say mê, tìm tòi, khám phá để thấy được ý nghĩa, vai trò sâu xa của các hoạt động VHQC. Và khi đó cá nhân mới mong muốn tham gia và có thể muốn lây truyền tình cảm tốt đẹp của mình với hoạt động VHQC sang cho người khác. Dựa trên cơ sở này chúng tôi đi tìm hiểu thanh niên xã Sơn Thịnh thích hay không thích tham gia các hoạt động VHQC:
Bảng 5: Xúc cảm của thanh niên xã Sơn Thịnh đối với hoạt động văn hoá quần chúng tại địa phương
STT
Hoạt động
Thích
Không thích
Số phiếu
Tỷ lệ
Số phiếu
Tỷ lệ
1
Tuyên truyền nếp sống lành mạnh
95
79.83
24
20.17
2
Sinh hoạt câu lạc bộ (thơ, đọc sách báo..)
50
42.02
69
57.98
3
Tham gia thể dục thể thao
86
72.27
33
27.73
4
Sinh hoạt văn nghệ
82
68.91
37
31.09
5
Dự các buổi tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
57
47.90
62
52.10
6
Tuyên truyền, trao đổi kinh nghiệm sản xuất
56
47.06
63
52.94
Kết quả của bảng số liệu cho thấy:
Với hoạt động tuyên truyền nếp sống lành mạnh thì hầu như thanh niên đều thích tham gia (79,83%). Cho thấy với đặc điểm địa bàn là một xã vùng cao còn nhiều khó khăn, lại tập trung 7 dân tộc anh em cùng chung sống do đó có khá nhiều phong tục tập quán lạc hậu của các dân tộc vẫn còn tồn tại như các tục mê tín dị đoan, các tục cưới xin ma chay rườm rà cổ hủ. Thanh niên lại là tầng lớp được tiếp thu các tri thức khoa học tiên tiến do vậy các bạn luôn mong muốn, thay đổi, xây dựng nếp sống mới, đấu tranh cải tạo những thói quen, tập tục cũ như: xây dựng ý thức và thói quen tôn trọng pháp luật, nếp sống có kỷ luật, trật tự có văn hóa; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa các dân tộc anh em với nhau; và xây dựng một nếp sống vệ sinh có thói quen rèn luyện thân thể, ăn ở và làm việc trong các môi trường được giữ gìn trong sạch. Thông qua các buổi tuyên truyền nếp sống lành mạnh thanh niên sẽ từng bước xây dựng gia đình mình, thôn bản mình thành gia đình văn hoá, thôn bản văn hoá.
Điều này được thể hiện qua kết quả tổng kết công tác văn hoá xã có gần 2000 hộ đã đạt gia đình văn hoá trong toàn xã và có 8 thôn bản đạt danh hiệu làng văn hoá.
Như chúng ta đã biết: thơ văn, sách báo là công cụ sắc bén để giáo dục tư tưởng, nâng cao kiến thức và còn là một phương tiện giải trí l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0017.doc