MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ TTLP TRONG ĐẦU TƯ 2
I. Khái quát về đầu tư .2
II. TTLP trong đầu tư phát triển 4
III. Những khả năng dẫn đến ttlp từ đặc điểm của ĐTPT .6
IV. TTLP trong các giai đoạn đầu tư .9
V. Các nhân tố tác động đến TTLP trong đầu tư .11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TTLP TRONG ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2007.14
I. TTLP từ công tác quy hoạch .14
II. TTLP trong công tác chuẩn bị đầu tư .22
III. TTLP trong công tác thực hiện đầu tư .29
IV. TTLP trong quá trình vận hành kết quả đầu tư .32
V. §¸nh gi¸ chung vÒ thùc tr¹ng TTLP ë ViÖt Nam giai ®o¹n 2001-2007 .37
CHƯƠNG III: Gi¶I ph¸p HẠN CHẾ thÊt tho¸t l•ng phÝ trong ®Çu t .40
I. Giải pháp nhằm hạn chế TTLP trong QH đầu tư .40
II. Giải pháp hạn chế TTLP trong công tác chuẩn bị đầu tư .42
III. Gi¶i ph¸p hạn chế TTLP trong thùc hiÖn ®Çu t .43
IV. Gi¶i ph¸p hạn chế TTLP trong vËn hµnh kÕt qu¶ ®Çu t .46
KẾT LUẬN CHUNG 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
50 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thất thoát, lãng phí trong đầu tư: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãng cöa s¶n xuÊt. ViÖc ®Çu t cho c«ng tr×nh kh«ng hiÖu qu¶ nµy lµ mét l·ng phÝ lín víi nguồn vèn h¹n hÑp cña ®Êt níc nh hiÖn nay.
2. TTLP do QH thiếu đồng bộ giữa ngành, vùng lãnh thổ.
Sự thống nhất giữa các QH của ngành, vùng lãnh thổ là một điều quan trọng, cần thiết, đảm bảo cho phát triển toàn diện ,cân bằng trong tổng thể KTXH chung. Nhưng thực tế hiện nay việc lồng ghép các QH giữa các ngành với nhau , giữa các ngành với vùng lãnh thổ ở nước ta thực hiện chưa tốt, dẫn đến hậu quả là các dự án QH tràn lan, chồng chéo, không phát huy được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, gây TTLP nặng nề.
2.1. Hiện trạng TTLP từ QH thiếu đồng bộ giữa các địa phương trong cùng một ngành.
Một trong những khó khăn của công tác QH là sức ép rất lớn từ các địa phương. Các cụm công nghiệp, các công trình giao thông, các cảng biển thường đưa lại những lợi ích to lớn, thậm chí, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương. Chính vì vậy, các địa phương đều mong muốn được đưa vào quy hoạch và được có các công trình, dự án này. Và không ít các dự án QH chỉ xuất phát từ những bức xúc, bất cập và nhu cầu thực tế trước mắt của ngành, địa phương, chưa tính đến triển vọng phát triển kinh tế, công nghệ và hội nhập.
Một ví dụ điển hình, nổi cộm gây TTLP là hiên trạng QH cảng biển của Việt Nam. Nước ta có hơn 3000km bờ biển, và đây là một lợi thế lớn để phát triển ngành khai thác thuỷ hải sản, giao thông đường biển; dẫn đến hiện tượng bùng nổ phát triển cảng biển ở những địa phương có lợi thế xây dựng cảng: Theo kế hoạch xây dựng cảng, từ nay đến năm 2010, bình quân cứ 300km bờ biển lại đầu tư ít nhất một cảng biển. So sánh với các nước có ngành hàng hải phát triển, con số này là bất hợp lý bởi lẽ đầu tư như vậy quá dàn trải, sẽ dẫn đến hiện tượng nhiều cảng nhưng cảng nào cũng nhỏ lẻ, manh mún, không phát huy hết công suất, lãng phí nguồn lực. Ngoài ra, cả nước có hơn 100 cảng biển nhưng lại không có cảng nước sâu tầm cỡ quốc tế.
Trong ảnh: tàu biển cập cảng Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TP.HCM
Năm 2007, số lượng hàng hoá thông qua biển Bắc chiếm 25-30% công suất cả nước (công suất vẫn còn thừa); cảng phía Nam 57% quá tải. Trong khi đó miền Trung chiếm 30% tổng chiều dài cầu cảng cả nước nhưng khối lượng vận chuyển chỉ đạt 13%, ở tình trạng thiếu hàng .
Trên bờ biển miền Trung có tới hàng chục cảng biển, tỉnh nào cũng có cảng, thậm chí có đến 2-3 cảng. Do mạnh ai nấy làm nên nguồn vốn xây dựng cảng bị chia nhỏ, dàn trải. Măc dù những cảng xây dựng gần đây quy mô khá lớn nhưng công suất khai thác còn thấp. Thực tế hàng chục cảng biển khu vực này phải chia nhau một lượng hàng. Nhiều cảng biển không có tàu đi hàng ngày, các doanh nghiệp không thể xuất hàng đi, phải chuyển vào Sài Gòn hoặc Hải Phòng chuyển qua Singapo, Hồngkông,… đẩy giá cước vận chuyển lên cao. Đó chính là một khoản lãng phí không nhỏ và không đáng có.
Theo tính toán, vận chuyển một container 20 feet đi Osaka (Nhật Bản) qua cảng Đà Nẵng, thời gian vận chuyến chậm hơn 7-10 ngày, chi phí cao hơn 35-45 USD so với xuất từ cảng Sài Gòn. Thực trạng QH bất hợp lý của các cảng biển miền Trung dẫn đến cảng luôn trong tình trạng đói hàng. Nhiều cảng biển xây dựng quá gần nhau: cảng Hòn La (Quảng Bình) cách cảng Vũng Áng 25 km; cảng Chân Mây (Thừa thiên-Huế) cách cảng Chân Mây (Đà Nẵng) 30 km... Thậm chí, cảng Dung Quất (Quảng Ngãi) chỉ cách cảng Kỳ Hà 10 km. Cảng Chân mây, vốn đầu tư lên tới 203 tỷ đồng để đón tàu 3 vạn tấn nhưng do bất lợi về điều kiện tự nhiên, địa lý và nguồn hàng nên sản lượng qua cảng đạt thấp.Nếu đầu tư không bất hợp lý sẽ không xảy ra tình trạng TTLP, và nguồn vốn lớn đó có thể được sử dụng vào những mục tiêu KT-XH khác.
2.2. Thiếu vốn đầu tư gây TTLP.
Do công tác QH kém, cơ chế xin - cho xuất hiện phổ biến tại các ngành, địa phương và quyết định đầu tư không gắn liền với trách nhiệm huy động vốn nên hiện tượng thiếu vốn cho công trình, dở dang công trình gây ứ đọng vốn; những đồng vốn đã bỏ ra đầu tư là những đồng vốn “chết’’, không phát huy được hiệu quả sử dụng, gây TTLP.
Theo kế hoạch thì tổng mức đầu tư hệ thống cảng hàng không giai đoạn 2001-2005 được duyệt là 27.000 tỉ đồng nhưng bốn năm qua chỉ mới bố trí được... 2.510 tỉ đồng, đáp ứng 9,26% tổng mức đầu tư. Cảng biển cũng vậy: tính toán tổng mức đầu tư giai đoạn 2000-2010 là 60.000 tỉ nhưng đến nay chỉ mới xác định được nguồn vốn là 5.090 tỉ đồng.
Trong ngành công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản... tình trạng cũng y hệt như vậy. Do có quá nhiều công trình dự án vốn đầu tư không tương xứng, công trình trì trệ, kéo dài, dang dở dẫn đếnchồng chéo, kém hiệu quả gây lãng phí khủng khiếp hàng ngàn tỉ đồng.
Cả trăm công trình thủy lợi dang dở đang đắp chiếu
Khô hạn và lũ lụt mấy năm qua đã gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Có một nguyên nhân quan trọng là thiếu công trình thủy lợi. Thế nhưng hiện có cả trăm công trình thủy lợi thi công dang dở và đang đắp chiếu do đầu tư dàn trải, thiếu vốn.
Điển hình là hồ chứa nước Thanh Lanh ở xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc có tổng vốn đầu tư 53,4 tỷ đồng. Nằm giữa vùng đồi thấp của xã, hồ Thanh Lanh có dung tích thiết kế 9,9 triệu m3, phục vụ tưới cho 1.200 ha đất canh tác, cung cấp nước sinh hoạt cho số đông người dân Trung Mỹ trong mùa khô hạn. Nhưng chỉ được vài tháng sau đó, 3 đơn vị thi công là Công ty Xây dựng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc, Công ty xây dựng 1 và Công ty xây dựng 2 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đều rút lui khỏi công trường. Các hạng mục đang thi công dang dở như đập tràn nằm trơ khấc, sắt hoen gỉ, 3 năm chờ đợi chưa có một giọt nước chảy qua. Đập chính với chiều cao hơn 1m đá kè nay đã bị xói lở bởi mưa lũ. Ngay cả xe tải, máy xúc, máy ủi nằm phơi mưa, phơi nắng chờ vốn lâu quá cũng đã hoen gỉ, có nguy cơ biến thành sắt vụn.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc, hồ Thanh Lanh chia làm nhiều gói thầu. Nhưng gói thầu nào cũng dở dang. Thiệt hại trước mắt có thể đo đếm được là phần công trình đã thi công đang bị hư hại, khi xây dựng tiếp đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn. Hàng chục tỷ đồng đã đầu tư hoàn toàn không phát huy chút tác dụng nào mà còn khiến doanh nghiệp lao đao vì không có vốn quay vòng lại phải trả lãi vay ngân hàng.Hàng trăm ha lúa thiếu nước, năng suất thấp. Hàng loạt hệ thống kênh mương không xây dựng tiếp được và những vùng QH khác cũng bị ảnh hưởng xấu. 1.000 ha lúa 3 năm nay vẫn trông chờ nước Thanh Lanh.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện cả nước còn gần 100 công trình thủy lợi cùng chung số phận như hồ Thanh Lanh. Với số vốn nằm chết tại các công trình lên đến cả nghìn tỷ đồng. Có thể liệt kê một số công trình lớn đã và đang cần gấp vốn để phục vụ các chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn như: công trình kiểm soát lũ Tân Thanh - Lò Gạch (Đồng Tháp), đê bao Vĩnh Hưng (Long An), hồ Phú Hòa (Quảng Bình), hồ Ái Tử (Quảng Trị), hồ Buôn Giong (Đăk Lăk).
Đến nay, tổng vốn các doanh nghiệp đầu tư vào công trình thủy lợi còn bị nợ là 1.050 tỷ đồng. Hàng loạt doanh nghiệp đã đầu tư vốn vào công trình đang điêu đứng, không ít đơn vị hiện có nguy cơ phá sản. Không ai xác định được khi nào các hồ đập bị đắp chiếu sẽ hoàn thành.
3. TTLP do cha thèng nhÊt QH víi c¸c QH ph¸t triÓn tæng thÓ KT-XH.
HiÖn nay, ®éi ngò c¸n bé lµm c«ng t¸c QH cña níc ta cßn kÐm, c¸c QH cha ®îc thêng xuyªn cËp nhËt, bæ sung ®iÒu chØnh cho phï hîp víi QH ph¸t triÓn tæng thÓ. §iÒu nµy dÉn ®Õn c¸c QH chång chÐo lªn nhau, g©y khã kh¨n cho viÖc thùc hiÖn QH.
Ngµnh GTVT còng lµ mét trong nh÷ng ngµnh thÓ hiÖn sù yÕu kÐm trong c«ng t¸c QH vµ g©y TTLP kh«ng nhá vèn ®Çu t. QH ngµnh nµy nh×n chung diÔn ra cßn chËm, thiÕu thèng nhÊt, lµm chi phÝ ®Òn bï gi¶i phãng mÆt b»ng lín h¬n nhiÒu lÇn so víi tiÒn lµm ®êng.
Chi 750 tû ®ång cho lµm 1km ®êng:
Quèc héi n¨m 2005 ®· ®a ra nh÷ng con sè giËt m×nh: §o¹n ®êng tõ khu vùc Trung Tù ®Õn ¤ Chî dõa ë Hµ Néi chØ dµi vÎn vÑn 1.082m, mµ dù kiÕn ph¶i chi ®Õn 750 tû ®ång- tøc lµ kho¶ng trªn 40 triÖu USD/km.
N¨m 2002, ®o¹n ®êng tõ LiÔu Giai nèi ®Õn §éi CÊn cha ®Õn 1km chi phÝ hÕt kho¶ng 90 tû ®ång, ®¾t gÊp 5 lÇn so víi trung b×nh trªn thÕ giíi. HoÆc n¨m 2005, ®o¹n ®êng tõ TrÇn Duy Hng, KhuÊt Duy TiÕn ®Õn NguyÔn Tr·i 6,3 km th× cÇn tíi 1300tû ®ång- 218 tû ®ång/km- 14 triÖu USD/km. Trong khi thÕ giíi trung b×nh chØ 1-1,5 triÖu USD/km - ta ®¾t gÊp 7 lÇn.
§©y râ rµng lµ nh÷ng con sè bÊt ngê vÒ l·ng phÝ do thiÕu QH.
II. TTLP trong công tác chuẩn bị đầu tư
1.TTLP trong công tác nghiên cứu thăm dò thị trường
Thị trường của một dự án chính là đầu ra của dự án. Thông thường nó được xác định trên cơ sở thị trường mục tiêu của dự án.Thị trường mục tiêu của dự án được xác định bằng ba bước cơ bản:
- Phân đoạn thị trường
- Xác định thị trường mục tiêu của dự án
- Định vị sản phẩm cho dự án
Việc nghiên cứu thị trường đòi hỏi tốn rất nhiều thời gian, công sức, nhân lực. Việc nghiên cứu thị trường có vai trò đặc biệt, vì thế mà nó cần có các số liệu một cách chính xác, khách quan. Chính vì thế nó cần một nguồn kinh phí rất lớn. Như vậy nếu nguồn kinh phí đó không được sử dụng một cách có hiệu quả thì sẽ gây ra sự TTLP không hề nhỏ.
Chủ trương chính sách của nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư trong từng giai đoạn. Trong khi việc nghiên cứu thị trường cần một thời gian khá dài. Vì vậy đôi khi nó gây nên một sự TTLP không đáng có.
Nguồn nhân lực thường là các cán bộ trẻ, vì vậy họ có ít kinh nghiệm. Do đó việc quản lý cũng như xử lý số liệu, phạm vi nghiên cứu không được đúng trọng tâm. Việc này cũng gây nên một sự TTLP tương đối lớn. Chúng ta có thể kể đến các công trình do thiếu sự quan trắc, xử lý số liệu dẫn đến đầu tư sai lầm. Được đầu tư với kinh phí lên tới hàng trăm tỷ đồng, nhưng các dự án cải thiện ô nhiễm môi trường ở TP Đà Nẵng gần như không phát huy được tác dụng, mặc cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước, rác thải, không khí trên địa bàn ngày càng trầm trọng thêm. Điển hình trong số các dự án cải thiện môi trường không hiệu quả đó là Nhà máy xử lý nước thải KCN Hoà Khánh, Dự án bãi rác Khánh Sơn mới và Dự án thoát nước vệ sinh thành phố. Do công tác xác định, nghiên cứu thị trường còn nhiều thiếu sót dẫn đến dự án không phát huy được hết công năng của nó.
Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường, trước khi quyết định đầu tư vào một sản phẩm mới các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả khi thực hiện. Vì thế khâu nghiên cứu thị trường cần được quan tâm đặc biệt. Việc này đôi khi làm các doanh nghiệp phải chấp nhận chịu lỗ ban đầu. Nếu doanh nghiệp nghiên cứu thị trường không đúng hướng sẽ dẫn đến thất bại trong đầu tư vào sản phẩm mới.
Vì vậy việc tiếp cận sai thị trường và phối hợp không đồng bộ các công tác thăm dò thị trường sẽ gây tổn thất đặc biệt lớn trong quá trình đầu tư.
TTLP trong công tác xác định quy mô vốn và huy động vốn
Vốn đầu tư cho dự án bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Việc đầu tư được thực hiện trước khi dự án thực hiện cũng như trong quá trình dự án hoạt động
Nguồn vốn cho dự án gồm có:
+ Nguồn vốn đầu tư trong nước:
- Vốn nhà nước
- Vốn của dân cư và tư nhân
- Vốn của ngân hàng thương mại
- Vốn trên thị trường tài chính
+ Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
- Vốn ODA
- Vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
- Vốn đầu tư trực tiếp FDI
- Thị trường vốn quốc tế
Việc TTLP trong việc huy động vốn có rất nhiều nguyên nhân, sau đây ta sẽ đi sâu vào vài nguyên nhân chính:
2.1.Việc bố trí vốn ngân sách Nhà nước một cách phân tán, dàn trải dẫn đến việc thi công dở dang, chậm tiến độ dẫn đến TTLP vốn đầu tư.
Thực trạng này diễn ra một cách phổ biến ở nước ta, có thể kể đến rất nhiều trường hợp điển hình. Năm 2005 có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm, trong đó 48 dự án nhóm A chậm tiến độ, chiếm 11,54% tổng số các dự án nhóm A thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 có 3.595 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,1%, trong đó có 25 dự án nhóm A (8,28%); năm 2007 có 3.979 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,9%, trong đó có 19 dự án nhóm A (7,88%).
Dự án cầu Thanh Trì và tuyến phía Nam vành đai 3 Hà Nội với số vốn đầu tư 7.660 tỷ đồng chậm trễ nhiều tháng, mỗi ngày phải trả 1,5 tỷ đồng tiền lãi vay. Cầu xây xong nhưng hai đường dẫn lên cầu chưa hoàn thành nên tốn thêm cả chục tỷ đồng nữa để xây dựng đường tạm, song chất lượng đường rất kém, thường xuyên gây ách tắc...
Sức ép giữa một bên là nhu cầu đầu tư phát triển của các bộ, ngành và các địa phương là rất lớn, trong khi đó khả năng tăng vốn NSNN cho đầu tư phát triển lại có hạn. Trong bố trí kế hoạch vốn đầu tư vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn vốn bổ sung của ngân sách TW.
Bên cạnh đó, nếu khâu quyết định đầu tư nếu cân nhắc kỹ hơn, sát sao hơn thì đã có thể tránh được những lãng phí. Thực tế cho thấy, số lượng và tỷ lệ các dự án có vi phạm các quy định về quản lý đầu tư (không phù hợp QH, phê duyệt không đúng thẩm quyền, không thực hiện đầy đủ trình tự thẩm tra, thẩm định dự án, đấu thầu không đúng quy định, giá dự thầu không phù hợp, ký hợp đồng không đúng quy định, chậm tiến độ, chất lượng xây dựng thấp, lãng phí) có xu hướng tăng lên: Năm 2005 có 1.882 dự án vi phạm (chiếm 14,57% dự án đầu tư trong năm); năm 2006 có 3.173 dự án (chiếm 18,19% dự án đầu tư trong năm); năm 2007 có 4.763 dự án vi phạm. Như vậy, việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước hợp lý là rất quan trọng trong chuẩn bị đầu tư.
2.2. Tình hình nợ vốn và hoàn trả tạm ứng vốn không đúng thời điểm dẫn đến thất thoát nguồn vốn đầu tư
Một trong những khó khăn của công tác chuẩn bị đầu tư là tình trạng nợ vốn và hoàn trả tạm ứng không đúng thời điểm: Nợ khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toán diễn ra ở một số bộ và hầu khắp đang là vấn đề rất bức xúc. Các khoản nợ XDCB vượt quá khả năng cân đối của NSNN, dẫn đến việc chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ quá hạn Ngân hàng tăng....
Đối với dự án xây dựng khu đô thị mới Phước Kiển - Nhơn Đức (huyện Nhà Bè), UBND TP.HCM phải chấp thuận điều chỉnh thời hạn bàn giao mặt bằng toàn bộ dự án 325 ha đến ngày 31/12/2010 theo đề nghị của UBND huyện Nhà Bè trong khi lịch trình đã ký kết là ngày 31/12/2009. Điều này do UBND chậm trễ trong việc cấp tạm ứng vốn. Điều đó gây ra sự lãng phí về mặt thời gian và làm mất đi nhiều chi phí cơ hội của dự án.
2.3.Thiếu vốn đối ứng nên đã gây khó khăn cho việc giải ngân các dự án ODA dẫn đến lãng phí nguồn vốn.
Vốn đối ứng cho các chương trình dự án ODA ở nước ta chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ triển khai thực hiện dự án.Tình trạng các địa phương thường không thực hiện các cam kết của mình về việc đảm bảo nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA khá phổ biến.
Qua giám sát một số dự án lớn như: Dự án Xây dựng đại lộ Đông Tây do Ngân hàng hợp tác phát triển Quốc tế Nhật bản (JBIC) tài trợ tổng số vốn đầu tư thực tế là 41.027 triệu Yên Nhật ( tương đương 5.021 tỷ đồng , tỷ giá Yên = 122,38 VNĐ ) ; vốn đối ứng là 3.470 triệu đồng. Có diện tích thực hiện trải dài trên nhiều quận huyện, với khối lượng di dời giải tỏa lớn (9.333 căn hộ), chính khó khăn từ vốn đối ứng dẫn đến việc giải tỏa gặp nhiều khó khăn.
Dự án đại lộ Đông Tây - hai trong số bốn dự án sử dụng vốn ODA được triển khai
Nguyên nhân là do khi dự án ODA được ký kết phê duyệt sau kỳ lập kế hoạch ngân sách hàng năm thì việc bổ sung kế hoạch rất khó khăn, và như vậy dự án có thể bị chậm tiến độ hoặc bị dừng lại vô thời hạn sẽ gây sự lãng phí rất lớn.
Dự án Cải thiện môi trường nước thành phố Hồ Chí Minh lưu vực kênh Tàu Hũ - Bến Nghé - Kênh Đôi - Kênh Tẻ giai đoạn I do Ngân hàng hợp tác phát triển Quốc tế Nhật bản (JBIC) tài trợ tổng số vốn đầu tư thực tế là 23.994 triệu Yên Nhật ( tương đương 3.157,13 tỷ đồng , tỷ giá Yên = 122,38 VNĐ ) ; vốn đối ứng là 949,970 triệu đồng. Nó là quá ít để có thể giải phóng được mặt bằng, trong khi càng chậm trễ chúng ta càng làm cho công trình chậm tiến độ.
Những thực trạng trên xảy ra nhiều ở nước ta là do hàng năm thường có nguồn bổ sung kế hoạch đầu tư nên đã gây tâm lý “chờ Nhà nước bổ sung thêm kế hoạch”, do vậy có bộ, ngành, địa phương “cố tình” không bố trí đủ vốn đối ứng, vì quan niệm đó là các dự án quan trọng, thế nào cũng được Nhà nước bổ sung vốn, dẫn đến tình trạng thiếu vốn đối ứng. Bên cạnh đó cán bộ của các ban quản lý và các sở ngành liên quan chưa được đào tạo bài bản về quản lý dự án ODA và năng lực phối hợp làm việc với tư vấn còn hạn chế gây ra sự đáng tiếc khi nhiều dự án đang thực hiện bị dừng lại, đây là một trong những hiện tượng gây lãng phí rất nhiều vốn đầu tư do không hoàn thành dự án.
3. TTLP do chất lượng lập dự án thấp
Trước một hoạt động đầu tư, chúng ta cần chuẩn bị một cách khoa học, đầy đủ, chính xác nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Việc chuẩn bị đó được thực hiện thông qua quá trình lập dự án đầu tư. Việc lập dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đầu tư vì nó là tập hợp các hoạt động xem xét chuẩn bị, tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế kĩ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường pháp lý... Trên cơ sở đó xây dựng một kế hoạch hoạt động phù hợp nhằm thực hiện một dự án đầu tư. Quá trình lập dự án đầu tư được coi là quá trình phát triển vì nó là việc hình thành ý tưởng nhằm biến ý tưởng đó thành hiện thực. Dự án đầu tư tốt nhất sẽ đem lại kết quả tốt khi thực hiện và tiết kiệm nhất. Tuy nhiên trong quá trình lập dự án đầu tư vẫn còn tồn tại một sỗ thực trạng dẫn đến TTLP.
Có thể kể đến một số ví dụ điển hình về lập dự án đầu tư không tốt gây TTLP như dự án cảng Bến Nghé kéo dài hơn 10 năm, tăng vốn 20 lần. Theo văn bản số 6324 gửi bộ KH&ĐT tháng 6/2006: Qua giám sát trong số 3002 dự án đang thực hiện, bao gồm 681 dự án thuộc vốn ngân sách tập trung của thành phố và 2421 dự án thuộc nguồn vốn phân cấp ngân sách của quận, huyện, doanh nghiệp thì có đến 2250 dự án (chiếm 75%) phải điều chỉnh và có vi phạm, gây lãng phí... Trong 2228 dự án chậm tiến độ do vướng công tác bồi thường giải phóng mặt bằng hoặc phải lập dự án lại hoặc sai sót phải điều chỉnh lại thiết kế kỹ thuật. Có 7 dự án khi triển khai mới phát hiện không phù hợp... Sở KH&ĐT được ủy ban nhân dân thành phố giao trực tiếp thực hiện công tác giám sát, đánh giá đối với 68 dự án gồm 48 dự án nhóm B và 20 dự án nhóm C. Qua thẩm tra cơ quan chức năng phát hiện có trên 90% trong tổng số các dự án trên thực hiện không đúng tiến độ. Nhiều dự án được quyết định đầu tư từ giai đoạn 2000 – 2002 đến nay vẫn chưa hoàn thành. Trên 65% số dự án chậm tiến độ...
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là bởi chất lượng tư vấn lập dự án và lập thiết kế dự án chưa cao. Công tác khảo sát trước khi tiến hành lập dự án còn sơ sài, cẩu thả dẫn đến lập dự án không chính xác do số liệu thu thập chưa đầy đủ. Hậu quả gây thất thoát lãng phí và làm tiến độ thực hiện dự án kéo dài quá thời gian quy định. Chất lượng lập dự án chưa cao buộc phải điều chỉnh nhiều lần làm tăng tổng mức đầu , tăng chi phí bồi thường lên gấp nhiều lần làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Tình trạng thất thoát và lãng phí do hậu quả của việc lập dự án đầu tư chưa tốt như vậy chiếm tỷ trọng cao trong tổng cơ cấu dự án đầu tư đang triển khai ở nước ta.Thực tế cho thấy thất thoát lớn nhất có thể xuất hiện ngay trong giai đoạn lập dự án đầu tư, khảo sát, thiết kế chiếm trên 70% tổng số thất thoát lãng phí.
4. Thẩm định dự án đầu tư kém gây TTLP.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét, đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện và hiệu quả của dự án để từ đó ra quyết định của đầu tư, cho phép đầu tư hoặc tài trợ vốn cho dự án. Đây là một quá trình kiểm tra đánh giá các nội dung cơ bản của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình lập dự án. Hoạt động đầu tư có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào công tác thẩm định dự án, tuy nhiên ở Việt Nam, công tác thẩm định dự án còn một số bất cập dẫn đến thất thoát lãng phí trong dự án đầu tư do sự đánh giá thiếu chính xác.
Xem xét qua những yếu kém trong thẩm định dự án đầu tư ta có thể kể đến dự thiếu chính xác trong thẩm định những dự án đầu tư lớn. Hơn 1000 dự án đầu tư năm 2008 của 15 tập đoàn tổng giá trị gần 30000 tỷ đồng đã được cắt giảm. Đó là kết quả sau một tuần kiểm tra của bộ KH&ĐT công bố. Nhìn ở góc độ khác cho thấy sự dễ dãi trong công tác thẩm định dự án đầu tư, phê duyệt các dự án đầu tư một cách lan tràn và thiếu hiệu quả từ nguồn vốn ngân sách. Điển hình trong việc nhanh chóng cắt giảm các dự án đầu tư công do sau khi thẩm định lại thấy thiếu tính khả thi vẫn là các tập đoàn lơn như Vinashin, Petro VN, VNPT... đáng chú ý, các dự án đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chủ yếu là nguồn vốn góp từ ngân sách và vốn tín dụng giá rẻ, chỉ phần rất ít là tiến đầu tư của các doanh nghiệp. Một báo cáo nêu nợ của 70 tập đoàn và tổng công ty nhà nước bằng 40% GDP. Nhưng tính hiệu quả của các dự án, khả năng thu hồi vốn trả nợ chưa mấy ai đặt ra. Như trường hợp Vinashin được giao 750 triệu USD từ việc phát hành trái phiếu chính phủ, Vinashin đã mạnh tay rải đều hàng trăm dự án thuộc đủ lĩnh vực suốt dọc chiều dài đất nước mà xem nhẹ công tác thẩm định tính khả thi của dự án.
Rõ ràng, thẩm định hiệu quả các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư công. Đầu tư cần phải được phê duyệt theo tổng thể QH và nhu cầu thực tế, tránh chạy theo phong trào. Theo các chuyên gia, tỷ lệ TTLP do công tác thẩm định kém có thể lên đến 30% tổng vốn đầu tư, vì vậy cần minh bạch hóa hoạt động đầu tư. Việc thẩm định dự án đầu tư ở đây gây thất thoát là thẩm định dự án còn theo cơ chế xin cho hoặc có sự thỏa thuận ngầm, móc nối...
III.TTLP trong công tác thùc hiÖn ®Çu t
1.Sai phạm trong công tác đấu thầu
Khâu đấu thầu cũng thể hiện tính cục bộ của quá trình đầu tư. Nhiều công trình dùng chỉ định thầu, hoặc đấu thầu một cách hình thức. §iÒu nµy ®· vi ph¹m c¸c quy ®Þnh hiÖn hµnh. H¹ gi¸ thÇu kh«ng cã c¨n cø ®Ó tróng thÇu hoÆc tróng thÇu víi gi¸ rÊt thÊp nhng vÉn lµm ®îc hiÖn tîng th«ng ®ång,cÊu kÕt víi nhau: Phố biến việc th«ng ®ång giữa nhà thầu với chủ đầu tư, thông đồng giữa các nhà thầu với nhau. Nguyªn nh©n lµ do quy chế đấu thầu thiếu chặt chẽ, không công khai minh bạch đã dẫn đến việc một nhà thầu trúng nhưng sau đó chia phần cho các nhà thầu còn lại. Hay giành giật gói thầu bằng giá cực thấp, bằng 28,9% giá gói thầu (gói 2B hầm đèo Hải Vân), hoặc chênh lệch lên tới 400 tỷ đồng (gói thầu xây dựng cảng Cái Lân)... dẫn đến công trình kém chất lượng, thời gian thi công kéo dài, chi phí phát sinh lớn vẫn được quyết toán. Bên cạnh đó thì chất lượng lập hồ sơ mời thầu thấp, đơn giá, định mức không chuẩn xác cũng là nguyên nhân của TTLP.
TiÕn ®é thùc hiÖn dù ¸n kÐo dµi g©y TTLP không nhỏ
Cã nhiÒu nguyªn nh©n lµm cho c¸c dù ¸n kh«ng theo tiÕn ®é ®Ò ra.Trong ®ã cã thÓ thÊy mét vµi nguyªn nh©n chñ yÕu: thø nhÊt,do kh¶o s¸t thùc tÕ cha kÜ cµng dÉn ®Õn trong qu¸ tr×nh thùc hiªn ph¸t sinh thªm nhiÒu chi phÝ cao h¬n dù ¸n ®Ò ra,thø hai do n¨ng lùc yÕu kÐm, tinh thÇn thiÕu tr¸ch nhiÖm cña nh÷ng ngêi liªn quan, thø ba do gi¸ vËt liÖu t¨ng nhanh.
Trong tình hình hiện nay, dự án công trình càng bị kéo dài thì giá đất, nhất là ở các đô thị, càng tăng, kéo theo tiền giải phóng mặt bằng và tái định cư trong các dự án công trình đó và tổng dự toán cũng càng
Điển hình cho các công trình lo¹i nµy là hệ thống thoát nước và xử lý nước thải TP Huế. Công trình này cã tæng chi phÝ lµ 165,7 tỉ đồng (110,37 tỉ vốn vay ODA và 55,34 tỉ vốn đối ứng) nhưng do thiếu khảo sát địa chất nên khi thực hiện đã phát sinh nhiều vấn đề về mặt kỹ thuật, đồng thời đẩy tổng mức đầu tư lên quá lớn so với quyết định phê duyệt buộc Thủ tướng Chính phủ phải yêu cầu đình chỉ dự án.
Hai dự án xây dựng nhà ở cho dân còng r¬i vµo t×nh tr¹ng t¬ng tù do đang thiếu vốn gồm dự án nhà ở, khu đô thị Hải Phòng và dự án chung cư cao tầng ở thị xã Hà Giang, tỉnh Hà Giang. Dự án tại Hải Phòng được thu xếp vốn từ tiền sử dụng đất và bán nhà cho dân nhưng trên thực tế tiền không thu được, nhà không bán được dẫn tới việc chủ đầu tư thiếu vốn làm dự án kéo dài. Dự án chung cư cao tầng tại Hà Giang cũng rơi vào cảnh tương tự sau khi nhà không bán được nên dự án thi công dở dang.
3.TTLP do sai phạm trong nghiệm thu, quyết toán công trình
Thực trạng xảy ra là công trình xây dựng xong chưa kịp nghiệm thu đã bị hư hỏng, nhiều dự án đầu tư kéo dài hay đã kết thúc khi đi vào sử dụng khai thác chưa có hiệu quả, kém hơn công suất thiết kế.
Đơn cử như dự án PU18: Trong số những dự án của PMU 18, có những dự án mà số tiền sai phạm lên tới hàng chục tỷ đồng
Thất thoát hơn 13 tỷ đồng từ Dự án giao thông nông thôn 2
Mục tiêu của dự án này là: cải tạo, nâng cấp khoảng 13.000 km đường giao thông và 5.000 m cầu ở 40 tỉnh, chủ yếu là các tỉnh nghèo có tiềm năng phát triển, các tỉnh chưa có chương trình giao thông nông thôn… trên toàn quốc. Nhưng khi 700 dự án, hạng mục công trình đã được kiểm tra với tổng số vốn hơn 532,2 tỷ đồng, phát hiện sai phạm trị giá 13.457,72 triệu đồng, chiếm khoảng 2,57%, gồm: - Sai về khối lượng 2.996,68 triệu đồng (chiếm 22,26% tổng số sai phạm)- Sai về giá 92,6 triệu đồng- Nghiệm thu, quyết to
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thất thoát, lãng phí trong đầu tư- thực trạng và giải pháp.doc