Đề tài Thất thoát và lãng phí trong đầu tư: Thực trạng và giải pháp

Trong báo cáo kiểm toán năm 2007, Kiểm toán Nhà nước kết luận, đã có nhiều sai phạm, thiếu sót trong đầu tư xây dựng cơ bản, diễn ra ở mọi khâu: từ khâu lập và giao dự toán cho tới khâu giám sát, thực hiện; tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún diễn ra trong những năm vừa qua vẫn chậm được khắc phục, dẫn đến việc bố trí vốn cho các dự án vượt quá khả năng. Công tác quản lý nguồn vốn đầu tư lỏng lẻo đã tạo các kẻ hở gây thất thoát vốn đầu tư ngân sách và vốn tín dụng đầu từ Nhà nước. Theo đánh giá của Tổng hội Xây dựng VN, yếu tố giúp dễ nhận thấy nhất về hiệu quả đầu tư thấp là chỉ số ICOR đang có xu hướng ngày càng tăng, từ mức 4,1 (giai đoạn 1990-2000) lên xấp xỉ 5 (giai đoạn 2001-2005) và tình trạng thất thoát, lãng phí đang diễn ra trong tất cả giai đoạn của dự án.

Trong báo cáo kết quả kiểm toán của 6 công trình, dự án trọng điểm quốc gia vừa được KTNN công bố thì dự án nào, chương trình nào cũng có sai phạm về chấp hành chính sách, sai quy định về chế độ tài chính. Cụ thể, trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2001-2005, số tiền sai phạm là 49,7 tỷ đồng, Chương trình Mục tiêu Quốc gia Giáo dục-Đào tạo năm 2006 là hơn 89,2 tỷ đồng; Dự án ngành cơ sở hạ tầng nông thôn là trên 66,2 tỷ đồng; Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 39,5 tỷ đồng; Dự án Nhà máy Thủy điện Hàm Thuận; Dự án khu đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì (Hà Nội) thì số tiền sai phạm là hơn 80,7 tỷ đồng. Riêng đối với Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì (Hà Nội), KTNN đã chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra do phát hiện các sai phạm nghiêm trọng trong dự án này.

 

doc58 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6270 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thất thoát và lãng phí trong đầu tư: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề kinh tế và tài chính chiếm 13,59 % tổng giá trị vốn được kiểm tra. Theo báo cáo của Tổng Thanh tra nhà nước ở từng hạng mục công trình được thanh tra đều có vi phạm: 7/17 dự án vi phạm khâu chuẩn bị đầu tư 7/17 dự án sai phạm về thẩm định dự án 10/17 dự án vi phạm quy chế đấu thầu 10/17 dự án vi phạm thiết kế thi công 14/17 dự án vi phạm quy định nghiệm thu 16/17 dự án vi phạm thanh toán, quyết toán công trình. Tổng số sai phạm về tài chính trong 17 dự án này là 870 tỷ đồng. Các địa phương đã kiến nghị xử lý 136 tỉ đồng, trong đó thu về ngân sách nhà nước 65 tỉ đồng, còn lại là xuất toán, giảm trừ quyết toán, buộc đơn vị thi công phải sửa chữa, khắc phục hậu quả 71 tỉ đồng; kiến nghị xử lý kỷ luật 515 người, chuyển cơ quan điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự 7 vụ. Các vi phạm này liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan thuộc Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Y tế và UBND các tỉnh: Nghệ An, Lào Cai, Thái Nguyên, các Tổng Công ty: Dệt May, Rượu Bia, Dầu khí, Xi măng, Cục Hàng không và Cụm cảng sân bay quốc tế Nội Bài. Năm 2003, Thanh tra 14 dự án phát hiện sai phạm về kinh tế 19,1 % số vốn được kiểm tra. Trong hai năm 2002 và 2003 thanh tra các bộ và địa phương phát hiện số sai phạm về tài chính chiếm 1,57 % số vốn của 2518 dự án đã thanh tra. Theo kết quả thanh tra một số dự án, công trình với số vốn 8235 tỷ đồng đã phát hiện ra tổng số sai phạm về tài chính là 1235 tỷ, chiếm trên 14% tổng số vốn Trong năm 2004 Hà Nội đã có kết quả 47/54 dự án tiến hành thanh, kiểm tra, Kết quả là con số lãng phí, thất thoát trong năm được phát hiện là 3,6%, đã giảm hẳn so với năm ngoái (năm 2003 thất thoát, lãng phí trên 4%). Qua triển khai 197 cuộc thanh tra kinh tế xã hội, thành phố đã phát hiện sai phạm, thất thoát tới 5.285 triệu đồng trong 48 dự án (chiếm 3,6% tổng vốn đầu tư đã kiểm tra). Năm 2006, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành 38 cuộc thanh tra lớn theo chương trình kế hoạch và theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm trong quản lý, chi tiêu tài chính, lãng phí, thất thoát với tổng giá trị hơn 1.560 tỷ đồng và 5,47 triệu USD. Thanh tra các bộ, ngành, địa phương cũng đã tiến hành 12.603 cuộc thanh tra, kiểm tra (chủ yếu là các cuộc thanh tra về đầu tư xây dựng), qua đó phát hiện sai phạm với tổng giá trị 4.822 tỷ đồng. Từ thực tiễn các cuộc thanh tra nêu trên có thể rút ra kết luận: Hầu hết các dự án được thanh tra đều có sai phạm và sai phạm diễn ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn của quá trình đầu tư. Đáng chú ý, năm 2006 Tổng hội xây dựng đã công bố danh sách 43 dự án đầu tư xây dựng có thất thoát, lãng phí nhằm chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư XDCB (có danh sách kèm theo). Trong báo cáo kiểm toán năm 2007, Kiểm toán Nhà nước kết luận, đã có nhiều sai phạm, thiếu sót trong đầu tư xây dựng cơ bản, diễn ra ở mọi khâu: từ khâu lập và giao dự toán cho tới khâu giám sát, thực hiện; tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún diễn ra trong những năm vừa qua vẫn chậm được khắc phục, dẫn đến việc bố trí vốn cho các dự án vượt quá khả năng. Công tác quản lý nguồn vốn đầu tư lỏng lẻo đã tạo các kẻ hở gây thất thoát vốn đầu tư ngân sách và vốn tín dụng đầu từ Nhà nước. Theo đánh giá của Tổng hội Xây dựng VN, yếu tố giúp dễ nhận thấy nhất về hiệu quả đầu tư thấp là chỉ số ICOR đang có xu hướng ngày càng tăng, từ mức 4,1 (giai đoạn 1990-2000) lên xấp xỉ 5 (giai đoạn 2001-2005) và tình trạng thất thoát, lãng phí đang diễn ra trong tất cả giai đoạn của dự án. Trong báo cáo kết quả kiểm toán của 6 công trình, dự án trọng điểm quốc gia vừa được KTNN công bố thì dự án nào, chương trình nào cũng có sai phạm về chấp hành chính sách, sai quy định về chế độ tài chính. Cụ thể, trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2001-2005, số tiền sai phạm là 49,7 tỷ đồng, Chương trình Mục tiêu Quốc gia Giáo dục-Đào tạo năm 2006 là hơn 89,2 tỷ đồng; Dự án ngành cơ sở hạ tầng nông thôn là trên 66,2 tỷ đồng; Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 39,5 tỷ đồng; Dự án Nhà máy Thủy điện Hàm Thuận; Dự án khu đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì (Hà Nội) thì số tiền sai phạm là hơn 80,7 tỷ đồng. Riêng đối với Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì (Hà Nội), KTNN đã chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra do phát hiện các sai phạm nghiêm trọng trong dự án này. Nhà máy thủy điện Hàm Thuận Số lượng, tỉ lệ các dự án có vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, như: không phù hợp quy hoạch, phê duyệt không đúng thẩm quyền, đấu thầu không đúng quy định, chậm tiến độ, chất lượng xây dựng thấp, lãng phí... có xu hướng tăng lên . Kết luận này được đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (QH) đưa ra vào ngày 22/9/2008, tại phiên họp thứ 12 về giám sát đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) sử dụng vốn Nhà nước giai đoạn 2005-2007. Năm 2005 có 1.882 dự án vi phạm, chiếm 14,5% dự án thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 có 3.173 dự án vi phạm (18,19%) và năm 2007 có 4.763 dự án vi phạm (16,6%). Mặt khác, số nợ đọng vẫn còn lớn, tính đến tháng 6-2008 là hơn 3.860 tỉ đồng. Tiến độ các dự án rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vốn khác, đầu tư thiếu đồng bộ. Tình trạng bố trí vốn dàn trải vẫn còn khá phổ biến”- Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền, trưởng đoàn giám sát, nhận xét. Năm 2005, có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện trong năm. Con số này tăng nhanh trong 2 năm tiếp theo: Năm 2006 có 3.595 dự án (13,1%); năm 2007 có 3.979 dự án chậm tiến độ (13,9%). Giai đoạn Chuẩn bị đầu tư. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê duyệt dự án đầu tư. Theo nhận xét của các chuyên gia trong và ngoài nước, lãng phí ở khâu quy hoạch chiếm tới 60-70% tổng số thất thoát, lãng phí vốn nhà nước. Mức độ lãng phí tập trung nhiều nhất ở khâu quyết định đầu tư, trong đó có các khía cạnh như: dự án có cần thiết đầu tư hay không, đầu tư vào lúc nào và ở đâu, triển khai với quy mô thế nào là thích hợp cho trước mắt cũng như quá trình khai thác, sử dụng lâu dài...thất thoát do đầu tư sai, thiếu cơ sở khoa học khá nhiều. Nhiều dự án sử dụng vốn đầu tư cơ bản của Nhà nước thông qua nhiều cơ quan chức năng có thẩm quyền đã phê duyệt các dự án, công trình đầu tư không có tính khả thi, kém hiệu quả. Khâu khảo sát thiết kế cũng không kém phần quan trọng, tình trạng khảo sát ẩu dẫn đến tình trạng thiết kế sai, công trình không đảm bảo chất lượng, không phát huy được hiệu quả, chi phí xử lý tốn kém, thậm chí không thể sử dụng. Bắt đầu từ khảo sát, thiết kế một khi công việc này làm không tốt có thể sẽ gây ra thất thoát lãng phí ở các bước sau: Việc thừa vốn ở dự án này đôi khi không thể chuyển sang dự án khác nên nhiều chủ đầu tư phải tìm cách sử dụng cho hết vốn, công trình sinh ra chắp vá, tốn kém. Tại Dự án nâng cấp Quốc Lộ 5, do tính toán vốn đầu tư ban đầu không chính xác nên tổng số vốn đầu tư dôi ra khá nhiều, người ta phải nghĩ ra việc xây dựng đường gom, cầu vượt. Do bước khảo sát, thiết kế trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư không tốt làm phát sinh khối lượng, phát sinh chi phí tư vấn giám sát, quản lý trong giai đoạn thi công. Vì dự án đã thực hiện nên phải bám lấy phương án đang tiến hành do vậy phải bổ sung vốn đầu tư để xử lý khối lượng phát sinh. Do thiết kế không tính toán chính xác và không kiểm tra tính toán một cách cụ thể nên người thiết kế đã đưa ra các yêu cầu vật liệu cao hơn mức an toàn cần thiết. Theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, một công trình lớn như đường Hồ Chí Minh vẫn lặp lại yếu kém thường thấy trong lĩnh vực xây dựng cầu đường trong nhiều năm qua ngay từ khâu khảo sát, thiết kế. Ví dụ, 8 gói thầu đoạn Thanh Hóa - Nghệ An, do công tác thăm dò, khảo sát và tính toán địa chất, thủy văn, các bước lập thiết kế kỹ thuật sơ sài, có nhiều sai sót về địa chất công trình... dẫn đến khối lượng xây lắp, mời thầu, nhất là khối lượng đào đắp nền đường có thay đổi lớn, làm phát sinh chi phí khảo sát, thiết kế, tăng giá thành công trình: có gói thầu phát sinh thêm 9,4 tỉ đồng, có gói thêm 12 tỉ đồng. Tổng cộng, cả đoạn này phát sinh gần 53,92 tỉ đồng.  Việc lập dự án, chuẩn bị đầu tư là giai đoạn rất quan trọng, tuy nhiên, tại nhiều dự án được thanh tra, công tác khảo sát thiết kế, lập dự án còn sơ sài, thiếu chính xác, là nguyên nhân chính dẫn đến những dự án phải điều chỉnh, hoặc phải thiết kế, thi công lại, thời gian thực hiện dự án kéo dài, gây lãng phí, tốn kém lớn cho ngân sách Nhà nước. Quản lý chất lượng yếu kém trong giai đoạn lập dự án đầu tư dẫn đến nhà máy xây xong không có nguyên liệu phải hoạt động cầm chừng, cảng cá không có tàu cập bến, chợ không có người họp, nhà xây xong không có người ở... Việc thẩm định và phê duyệt dự án để ra quyết định đầu tư chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn. Số lượng và tỉ lệ các dự án đầu tư XDCB sử dụng ngân sách nhà nước có vi phạm các qui định về quản lý đầu tư (không phù hợp với qui hoạch; phê duyệt không đúng thẩm quyền; không thực hiện đầy đủ trình tự thẩm tra, thẩm định dự án; đấu thầu không đúng qui định; bỏ giá thầu không phù hợp; phê duyệt không kịp thời; ký hợp đồng không đúng qui định; chậm tiến độ; chất lượng xây dựng thấp; lãng phí) có xu hướng tăng lên. Cụ thể, năm 2005 có 1.822 dự án vi phạm (chiếm 14,57% dự án thực hiện đầu tư trong năm), năm 2006 có 3.173 dự án vi phạm (chiếm 18,19% dự án thực hiện đầu tư trong năm), năm 2007 có 4.763 dự án vi phạm (chiếm 16,6% dự án thực hiện đầu tư trong năm)... Các bộ, ngành và địa phương mới phản ánh được những sai phạm trong thủ tục đầu tư, chưa phản ánh đúng thực tế về chất lượng công trình và việc thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng (theo báo cáo của các cơ quan năm 2005 có 28 dự án có lãng phí, chiếm 0,1%; năm 2006 có 8 dự án có lãng phí, chiếm 0,03%; năm 2007 có 17 dự án có lãng phí, chiếm 0,06% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm)... 2. Giai đoạn thực hiện đầu tư Số liệu thống kê từ Bộ Tài chính cho thấy, chỉ tính riêng kế hoạch đầu tư thuộc khối trung ương trong thời gian 2001-2003 đã có hơn 1.300 dự án chưa đủ thủ tục vẫn được bố trí kế hoạch. Nhiều dự án khởi công chỉ có quyết định đầu tư, chưa có quyết định phê duyệt thiết kế và tổng dự toán. "Chính điều này đã dẫn đến tình trạng bị đọng vốn, giải ngân chậm, gây lãng phí lớn về vốn". Cụ thể: Năm Số dự án vi phạm 2001 357 2002 598 2003 366 2004 377 Công tác chọn chủ đầu tư là một yếu tố quan trọng trong việc thực hiện dự án, nhưng có không ít dự án đã chọn chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm, thiếu năng lực tài chính, dẫn tới thời gian thực hiện dự án kéo dài, gây lãng phí. Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến việc tiết kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn quy định, làm tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng khối lượng, điều chỉnh dự toán để rút tiền và vật tư từ công trình.     Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.     Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thất thoát vốn nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, nhiều cấp; tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những công trình có mức lãng phí và thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%, đặc biệt trường hợp lãng phí thất thoát 100% như Nhà Hát chèo Hà Nội xây xong không dùng được ngày nào đã hỏng. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành cao và không tiêu thụ được... Khâu đấu thầu cũng thể hiện tính cục bộ của quá trình đầu tư. Trong công tác đấu thầu, bên cạnh những sai phạm thường gặp như chỉ định thầu, áp dụng kết quả đấu thầu sai quy định, thông thầu, bán thầu..., vấn đề nổi lên tại các doanh nghiệp lớn như Tổng công ty Than Việt Nam, Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, là việc chỉ định thầu chủ yếu dành cho các đơn vị trong ngành, hoặc thành lập một công ty chuyên thực hiện một số dự án xây dựng của ngành, trong khi công ty này thiếu khả năng thực hiện dự án. Việc làm này đã làm giảm tính cạnh tranh, đồng thời gây thiệt hại cho Nhà nước và cho chính bản thân doanh nghiệp. Quy chế đấu thầu thiếu chặt chẽ, không công khai minh bạch đã dẫn đến việc một nhà thầu trúng nhưng sau đó chia phần cho các nhà thầu còn lại. Hay giành giật gói thầu bằng giá quá thấp, bằng 28,9% giá gói thầu (gói 2B hầm đèo Hải Vân), hoặc chênh lệch lên tới 400 tỷ đồng (gói thầu xây dựng cảng Cái Lân)... dẫn đến công trình kém chất lượng, thời gian thi công kéo dài, chi phí phát sinh lớn vẫn được quyết toán. Dự án đường Bắc Ninh-Nội Bài cũng gây thất thoát hàng chục tỷ đồng. Đoạn Nội Bài- Bắc Ninh là một trong 5 đoạn tuyến của dự án cải tạo QL 18.  Đoạn này có tổng dự toán được duyệt 581 tỷ đồng. Trong đó, giá trị xây lắp là 433 tỷ đồng; GPMB: 80 tỷ đồng; Chi phí tư vấn: 50 tỷ đồng. Tại dự án này, PMU 18 đã lập hồ sơ mời thầu không sát thực tế dẫn đến việc giá trị dự toán (phê duyệt theo hồ sơ trúng thầu) tăng 22,6 tỷ đồng. Trong đó sai khối lượng trong hồ sơ mời thầu dẫn đến giá trị dự toán tăng 13,4 tỷ đồng; Thay đổi chủng loại vật liệu nhưng chưa làm thủ tục điều chỉnh giảm giá dự toán 1,5 tỷ đồng. Dự án đường Bắc Ninh-Nội Bài Áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu khác nhau sẽ cho 3 nhóm kết quả về mức tiết kiệm khác nhau. Dưới đây là biểu so sánh về tỷ lệ tiết kiệm giữa 3 nhóm hình thức lựa chọn nhà thầu (Thống kê năm 1999 của Bộ KH&ĐT) : Hình thức lựa chọn nhà thầu Nhóm A Nhóm B Nhóm C A + B + C Tuyệt đối (Tr.$) Tương đối (%) Tuyệt đối (Tr.$) Tương đối (%) Tuyệt đối (Tr.$) Tương đối (%) Tuyệt đối (Tr.$) Tương đối (%) Rộng rãi 43,34 13,02 13,92 17,39 9,71 7,6 66,97 12,60 Hạn chế, chào hàng cạnh tranh 12,39 5,52 20,43 10,94 30,54 11,45 63,36 9,34 Chỉ định thầu tự thực hiện 0,48 7,72 0,4 1,25 1,58 0,94 2,46 1,19 Mua sắm trực tiếp và mua sắm đặc biệt 0,23 7,37 16,65 27,48 15,46 15,31 32,34 19,65 Tỷ lệ áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu theo thời gian : (Đvt : Gói thầu) Năm Đấu thầu rộng rãi Đấu thầu hạn chế Chỉ định thầu và các hình thức còn lại Tổng số 1998 1.222 26,7% 1.536 33,5% 1.819 39,8% 4.577 100% 1999 1.887 19,6% 2.947 30,6% 4.789 49,8% 9.623 100% 2000 1.302 12,9% 2.600 25,5% 6.277 61,7% 10.179 100% 2001 4.277 14,98% 6.081 21.32% 18.181 63,70% 28.539 100% 2002 4.377 14,23% 6.015 19,55% 20.376 66,22% 30.768 100% (Nguồn : Bộ KH&ĐT) Theo báo cáo của Ðoàn giám sát Quốc hội (năm 2007), trong số 1.505 dự án về xây dựng được kiểm tra, có 176 dự án vi phạm quy định về thẩm định dự án; 198 dự án, công trình vi phạm quy chế đấu thầu; 802 dự án, công trình thi công sai thiết kế, sai chủng loại vật tư, thiết bị, không phê duyệt khối lượng phát sinh, vi phạm các quy định về trình tự thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng, về quản lý chất lượng, nghiệm thu, thanh toán công trình; 415 dự án, công trình vi phạm về thiết kế, khảo sát; 720 dự án, công trình vi phạm quy định trong giai đoạn đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Theo kết luận của đoàn Thanh tra Chính phủ, khâu nghiệm thu, thanh toán Dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn I: 2000-2005) có không ít sai phạm. Qua kiểm tra tại Công ty Tràng An là đơn vị thành viên của Công ty Xây dựng 319 và 6 đơn vị thành viên khác của Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, phát hiện : Giá trị các loại vật tư thiếu lên tới trên 2,1 chưa kể gần 447 triệu đồng khác tính sai đơn giá đá hộc mà 3 đơn vị thành viên của Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn được hưởng. Chủ đầu tư thanh toán sai giá xi măng cho Công ty Trường An, tính sai định mức đào móng công, khuôn đường, đào nền đường cho 5 đơn vị của Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, Công ty Trường An với số tiền gần 9,3 tỉ đồng. Cũng theo Thanh tra Chính phủ, tổng số tiền phải xử lý lại lên tới trên 361 tỉ đồng. Trong số này, có tới gần 68,2 tỉ đồng là số tiền đã nghiệm thu, phê duyệt, đã chấp nhận thanh toán không đúng quy định cho các nhà thầu; 4 tỉ đồng do lãng phí trong việc thi công lại một số hạng mục; 35,84 tỉ đồng là số tiền các nhà thầu chính thu phí nhượng thầu trái quy định và chi phí rà phá bom mìn đã được thanh toán sai về khối lượng và đơn giá; 22,24 tỉ đồng tăng vốn đầu tư do thay đổi thiết kế kỹ thuật không phù hợp với quy hoạch tổng thể đoạn đường Thanh Hóa - Nghệ An; 230,9 tỉ đồng do vận dụng sai chế độ chính sách, áp dụng sai hệ số, sử dụng không đúng nguồn vốn đầu tư cho dự án. Thi công đường Hồ Chí Minh Ví dụ như năm 2004, Thanh tra Bộ Giao thông Vận tải tiến hành thanh tra 8 dự án cầu đường lớn (Dự án quốc lộ 32A, 57, 55, 46, 24, 37, 43 và cầu Tạ Khoa) đều có lỗi vi phạm trong đầu tư xây dựng như chưa quản lý chất lượng công trình chặt chẽ, nhiều hạng mục sử dụng vật liệu chưa được thí nghiệm theo quy định (quốc lộ 24, 37, 43). Công tác lập, thẩm định dự toán có nhiều sai sót như sai đơn giá vật liệu (quốc lộ 57, 24, 37), sai về áp dụng định mức kinh tế kỹ thuật (quốc lộ 37, 43). Kết quả thanh tra giúp Nhà nước giảm 6 tỷ đồng chi phí công trình, thu hồi 12,4 tỷ đồng vốn do Nhà thầu chiếm dụng. Một trong những lý do xảy ra thiếu sót, sai phạm trong đầu tư công là công tác giám sát đầu tư của các bộ, ngành, địa phương không nghiêm túc. Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện chỉ có hơn 51% số dự án được thực hiện giám sát, nhưng trong số này thì chất lượng báo cáo giám sát nhiều dự án cũng chưa đạt yêu cầu, nội dung sơ sài. Bê tông tre-Quốc Lộ 18 Việc quá dàn trải, phân tán trong đầu tư (dự án nhóm B và C thuộc ngân sách nhà nước năm 2003 bố trí trên 10.000 dự án) nên mỗi dự án nhóm C được bố trí bình quân khoảng 1,2 tỷ đồng là quá thấp. Vì lẽ đó, thời gian xây dựng một dự án nhỏ thường kéo dài 5-7 năm, kéo theo hiệu quả đầu tư kém, chậm phát huy tác dụng. Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư, đưa dự án vào khai thác sử dụng. Là giai đoạn cuối cùng của quá trình thực hiện đầu tư, chi phí trong giai đoạn này có tỷ trọng rất nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư, nhưng nó là một giai đoạn hoàn chỉnh “lý lịch” của dự án đã được đầu tư. Thu hồi và hoàn trả vốn đầu tư: là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn. Nhưng tình trạng không thu hồi được vốn và hoàn trả hết nợ vay xảy ra phổ biến đối với nhiều dự án đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng ưu đãi, tín dụng thương mại, vốn đầu tư của doanh. Tình trạng lập hồ sơ nghiệm thu gian dối, khai khống khối lượng trong thiết kế- tổng dự toán và quyết toán, khai vượt dự toán và thu chi; bớt vật liệu, đánh tráo vật liệu từ tốt sang xấu, thay đổi chủng loại vật tư, sửa thiết kế làm giảm chất lượng công trình hoặc khai tăng vật tư, công việc (nói là phát sinh) để quyết toán thêm không còn là chuyện cá biệt. Ví dụ như Dự án giao thông nông thôn 2 có tổng mức đầu tư 145,3 triệu đô la. PMU 18 là đơn vị quản lý cấp Trung ương của dự án. Đã tiến hành thanh tra 700 dự án tại 22 tỉnh với số vốn 523 tỷ đồng. Phát hiện sai phạm 13,45 tỷ đồng. Trong đó: Sai về khối lượng 2,99 tỷ đồng; Sai về giá 92,6 triệu đồng; Nghiệm thu, quyết toán không đúng: 670 triệu đồng; Dự toán sai: 2,497 tỷ đồng; Hóa đơn thanh toán không hợp pháp: 0,89 tỷ đồng; Thiết kế tính sai: 0,97 tỷ đồng; Lãng phí, đầu tư không hiệu quả: 2,27 tỷ đồng; Các sai phạm khác: 3 tỷ đồng. Dự án giao thông nông thôn 2 Theo báo cáo của Thanh tra Nhà nước, Thanh tra địa phương, thanh tra 840 dự án, Thanh tra các Bộ, Ngành đã thanh tra 153 dự án. Theo kết quả Thanh tra của Thanh tra Nhà nước và Thanh tra địa phương, số tiền chi sai chế độ hơn 51 tỷ đồng, tính sai đơn giá, định mức, thay vật tư thiết bị hưởng chênh lệch hơn 64 tỷ đồng. Ngoài ra là các sai phạm như chọn thầu cao hơn giá bỏ thầu, khấu hao không đúng quy định, sử dụng vốn sai mục đích, hạch toán sai... Có dự án vi phạm quản lý sử dụng vốn tới 39,8 % tổng số vốn đầu tư như dự án của Nhà máy dệt Thành Công, 41,4 % như dự án phân xưởng chiết xuất bia của Nhà máy bia Sài Gòn tại Cần Thơ. Theo báo cáo, qua thanh tra 360 công trình, dự án của địa phương, tư vấn thiết kế tính sai khối lượng 16,7 tỷ đồng, tính sai đơn giá, thi công sai vật tư hưởng chênh lệch cho tập thể, cá nhân 33 tỷ đồng, chi sai nguyên tắc chế độ 18 tỷ đồng, 58,4% dự án vi phạm trong nghiệm thu, 42% dự án vi phạm trong thanh quyết toán vốn đầu tư, 26,5% dự án vi phạm về đấu thầu... Tại Kiên Giang, Dự án xây dựng Sân vận động Hòn Tre đã cố ý làm trái gây thiệt hại 51% vốn đầu tư, Công trình Bia ghi dấu Cây dừa thất thoát 52% vốn đầu tư. Sau khi nhận bàn giao công trình, chủ đầu tư có trách nhiệm khai thác; hoàn thiện tổ chức và phương pháp quản lý (vận hành dự án) nhưng không phát huy đầy đủ và có hiệu quả các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đã được đề ra trong dự án đầu tư. Có nhiều dự án lãng phí do sản xuất không có nguyên liệu, sản xuất thừa không nơi tiêu thụ. Như nhà máy đường Linh Cảm - Hà Tĩnh với số vốn nhiều tỷ đồng xây dựng xong phải ''nằm chờ'' vì không có nguyên liệu, phải di chuyển. Nhiều quyết định đầu tư sai quy hoạch dẫn đến sử dụng không hiệu quả, lãng phí lớn như ở Hà Nội, chợ đầu mối Đền Lừ, chợ đầu mối Hải Bối (huyện Đông Anh). Sự lãng phí thể hiện rõ nhất khi hàng loạt công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu, nguyên nhân là do qui hoạch kém, không đồng bộ, không gắn kết với qui hoạch phát triển ngành, vùng. Chỉ qua kiểm toán về kinh phí quy hoạch tổng thể ngành du lịch (gồm 12 dự án) từ năm 1992 đến năm 2002 với tổng kinh phí được duyệt là 11,6 tỉ đồng đã cho thấy nhiều dự án nghiệm thu khống khối lượng hoàn thành, không đúng thời gian thực hiện để rút tiền ngân sách, gửi ngân hàng. Điển hình như Viện Nghiên cứu phát triển du lịch đã rút tiền ngân sách gửi vào Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số tiền sai quy định 4,17 tỉ đồng, chi ngoài dự toán, sai chế độ tài chính 309 triệu đồng. Năm 1996, Bộ GTVT đã có Quyết định (QĐ) phê duyệt dự án khả thi cầu Hoàng Long với chiều dài 240m; đường dẫn hai đầu cầu trên 3000m, tổng mức đầu tư dự kiến 83 tỷ đồng sử dụng nguồn vốn vay OECF. Dự án được khởi công vào tháng 10/1996 và hoàn thành tháng 12/1998. Tuy nhiên, do công tác thẩm định dự án được tiến hành chưa đầy đủ, thiếu sự góp ý của một số Bộ... nên vốn đầu tư đã tăng từ 83 tỷ đồng lên 224,4 tỷ đồng (gần gấp 3 lần). Chưa đủ, tháng 1/1997, Bộ GTVT đã có quyết định 196 phê duyệt Tổng dự toán cầu Hoàng Long là 229,52 tỷ đồng. Như vậy tổng dự toán vượt trên 5 tỷ đồng so với tổng mức đầu tư. Sự thất thoát, lãng phí đã xảy ra ngay từ khi bắt đầu thực hiện dự án. Trong công tác đền bù GPMB đã gây thất thoát vốn đầu tư dự án là 1,2 tỷ đồng. Quá trình khảo sát, thiết kế  không được thực hiện kỹ nên dẫn đến tình trạng phải thay đổi làm tăng mức đầu tư. Cụ thể, bổ sung hạng mục công trình và kinh phí với tổng giá trị 36 tỷ đồng như: Bổ sung 5,5 tỷ đồng xử lý 140 m đường đầu cầu phía Bắc cầu Hoàng Long bị lún, trượt phải thi công lại từ đầu; 8,7 tỷ đồng xử lý nền đất yếu đoạn đầu cầu phía Bắc bằng việc kéo dài thêm 4 nhịp cầu vượt đường sắt. Bổ sung 5,3 tỷ đồng đóng cọc ván thép và cọc cát  đường đầu cầu phía Bắc, 2,4 tỷ đồng  xử lý đường đầu cầu phía Nam. Thời gian thi công đã phải kéo dài 9 tháng, tăng chi phí cho tư vấn, giám sát trong đó có 300 triệu đồng “thuê” xe ô tô. Ngoài ra, dự án còn có trên 9 tỷ đồng phát sinh mà chủ đầu tư “quên” không đưa vào hồ sơ mời thầu như: Kiểm tra chất lượng cọc nhồi, mở rộng đường đầu cầu, bổ sung điện chiếu sáng. Đặc biệt, trong quá trình thi công, nhà thầu Tổng Cty Xây dựng Thăng Long và một số nhà thầu khác thanh toán  nhiều khoản tiền sai như: thanh toán vênh 122 triệu đồng tiền kiểm tra cọc khoan nhồi; 86 triệu đồng chênh lệch do dùng chủng loại cáp đồng sai…Tính trong giai đoạn thực hiện dự án, chủ đầu tư và nhà thầu đã gây thất thoát, lãng phí 2,8 tỷ đồng. Trong giai đoạn “hậu” dự án PMU 18 cũng để xảy ra một số sai phạm lớn như: Chi phí cho việc khởi công khánh thành, thử tải vượt 574 triệu đồng so với dự toán.Tổng số tiền được xác định là lãng phí, thất thoát trong toàn bộ quá trình thực hiện dự án và sau khi dự án hoàn thành lên đến 4,55 tỷ đồng. Cầu Hoàng Long-Quốc Lộ 18 III. Nguyên nhân gây ra lãng phí, thất thoát trong đầu tư. Các nguyên nhân dẫn tới giảm chất lượng chuẩn bị dự án vừa có tính chất khách quan vừa có tín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThất thoát và lãng phí trong đầu tư Thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan