MỤC LỤC
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN FDI VÀ ODA TẠI VIỆT NAM 1
1.1. Tình hình thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam 1
1.1.1. Khái niệm FDI 1
1.1.2. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam 1
1.2. Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam 8
1.2.1. Khái niệm ODA 8
1.2.2.Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam 9
II. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NGUỒN VỐN FDI VÀ ODA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 11
2.1. Tác động của các nguồn vốn FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua 11
2.1.1. Tác động tích cực 11
2.1.2. Tác động tiêu cực 14
2.2. Tác động của các nguồn vốn ODA đến phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua 16
2.2.1. Tác động tích cực 16
2.2.2. Tác động tiêu cực 17
III. NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN 2010 18
3.1. Nhu cầu vốn để tạo ra của cải cho xã hội 19
3.2. Nhu cầu vốn để phát triển cơ sở hạ tầng 19
3.2.1. Ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông 21
3.2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA 23
IV. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CÁC NGUỒN VỐN FDI VÀ ODA TRÊN THẾ GIỚI 23
4.1. Xu hướng vận động của FDI 23
4.2. Xu hướng vận động của ODA 26
V. KHẢ NĂNG THU HÚT CÁC FDI VÀ ODA CỦA VIỆT NAM 29
5.1. Khả năng thu hút FDI của Việt Nam từ nay đến 2010 29
5.2. Khả năng thu hút ODA của Việt Nam từ nay đến 2010 32
5.2.1. Tình trạng nợ ODA của Việt Nam vẫn nằm trong vòng an toàn 32
5.2.2. Sự ủng hộ của các nhà tài trợ nguồn vốn ODA 33
5.2.3. Những động thái tích cực của Chính phủ Việt Nam với thu hút vốn
ODA 34
VI. SO SÁNH TẦM QUAN TRỌNG CỦA ODA VÀ FDA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN 2010. 35
VII. GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC NGUỒN VN FDI VÀ ODA TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN 2010 36
7.1. Đối với FDI 36
7.1.1. Mục tiêu thu hút FDI 36
7.1.2. Định hướng thu hút FDI từ các công ty xuyên quốc gia TNCs 36
7.2. Đối với ODA 38
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3152 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Theo quan điểm cá nhân bạn trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 Việt Nam nên thu hút nguồn vốn FDI nhiều hơn hay ODA nhiều hơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Bên cạnh đó còn hàng loạt các công trình mới đầu tư bằng nguồn vốn ODA đang và sẽ được đưa vào hoạt động trong thời gian tới như phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế, phát triển các tuyến đường ở miền núi phía bắc, Tây Nguyên, ĐBSCL,…xây dựng một số cầu đường bộ lớn ở cả 3 miền, nâng cấp xây dựng một số tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội – Hồ Chí Minh, xây dựng mới một sân bay quốc tế hiện đại tại thủ đô Hà Nội (cảng hàng không quốc tế T2), sân bay Long Thành - Biên Hòa, Đà Nẵng, Cam Ranh - Khánh Hòa và Phú Quốc – Kiên giang cũng sẽ được ưu tiên sử dụng nguồn vốn này.
Tác động tiêu cực
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).
Ví dụ:
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án,… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp,... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần
Những đóng góp của ODA cho phát triển kinh tế xã hội thời gian qua là rất đáng khích lệ, tuy nhiên việc thực hiện các chương trình dự án ODA còn chậm giải ngân vốn chưa đáp ứng yêu cầu đề ra đã làm lu mờ đi một phần những nỗ lực trên đây.
NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN 2010
Nhu cầu vốn để tạo ra của cải cho xã hội
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư trong nước là đầu tư nước ngoài, trong đó có nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI), chúng ta nhận thấy vai trò cơ bản của FDI
Tác động trực tiếp
Bæ sung vèn cho ®Çu t ph¸t triÓn Bổ sung vốn cho đầu tư phát triển
Thúc đẩy tang trưởng kinh tế
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu,…
Tác động gián tiếp
Tạo kênh cạnh tranh
Tạo kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ
Kênh di chuyển lao động
Kênh liên kết sản xuất,…
Từ 2006 đến năm 2010, Việt Nam có những mục tiêu chiến lược:
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2006-2010: GDP tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000
GDP bình quân đầu người: 1050-1100 USD
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5-8%
à FDI cần huy động là trên 30 tỷ USD chiếm 60% nguồn vốn huy động từ nước ngoài, trên 20% tổng số vốn huy động.
Như vậy vấn đề thu hút FDI là cần thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, cho nên Việt Nam có nhiều thuận lợi. Điều dễ nhìn thấy nhất là lượng vốn đầu tư đăng ký và thực hiện đạt mức khá qua các thời kỳ và gần đây tăng nhanh. Tính đến nay đã có hơn 100 tỉ USD đăng ký và trên 45 tỉ USD vốn thực hiện; nếu tính theo đầu người thì Việt Nam đứng hàng đầu trong các nước hiện nay. Năm 2006 có 12 tỉ USD đăng ký và gần 4 tỉ USD thực hiện; năm 2007 tương ứng đạt 21,3 tỉ USD đăng ký và khoảng 8 tỉ USD thực hiện.
Trong 83 nước và vùng lãnh thổ đầu tư, có 18 nước và vùng lãnh thổ đạt trên 1 tỉ USD. Tất cả 64 tỉnh, thành phố có vốn ĐTNN, trong đó có 15 địa bàn đạt trên 1 tỉ USD. Cơ cấu vốn đã chuyển dịch theo hướng tích cực cả theo nhóm ngành kinh tế, theo địa bàn, theo nhóm nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế Việt Nam, từ việc bổ sung vốn đầu tư, cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách, đến việc tạo việc làm cho người lao động,...
Nhu cầu vốn để phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay rất yếu và thiếu, trong khi nhu cầu về cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam là rất lớn. Lĩnh vực về cơ sở hạ tầng ở Việt nam hiện nay là lĩnh vực tư nhân không muốn đầu tư và cũng chẳng đủ năng lực đầu tư. Chính vì thế cần đến vai trò của nhà nước. Ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực mà lợi ích mang tính xã hội. chính vì thế Việt Nam cần phải tranh thủ nguồn viện trợ, nguồn vốn vay lãi suất thấp ODA để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. Vai trò của ODA trong giai đoạn 2006-2010
Bổ sung vốn cho phát triển kinh tế xã hội
Tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tăng cường năng lực R&D và phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống pháp lí theo tiêu chuẩn quốc tế, cải cách hành chính và tăng cường năng lực thể chế.
Tăng khả năng thu hút vốn FDI vào Việt Nam và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển
Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đang ở trong tình trạng quá tải, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới, vì thế Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương như sau:
Giai đoạn 2006-2010, Chính phủ sẽ dành 33% trong số 23,75 tỷ USD vốn ODA để phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị.
Đầu tư trọng điểm vào phát triển cơ sở hạ tầng, là một trong những nội dung quan trọng nhất trong bản đề án "Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010" vừa được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt số 290/2006/QĐ - TTg ngày 29/12/2006.
Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng thế giới (World Bank) nhan đề “Việt Nam: Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng” vừa được công bố ngày 15/5/2006 tại Hà Nội thì hơn 20 năm qua, Việt Nam đã thành công lớn trong đảm bảo lợi ích từ các đầu tư vào cơ sở hạ tầng được chia sẻ trên khắp đất nước. Và các đầu tư này đã hỗ trợ cho phát triển nhanh chóng, tăng tiếp cận đến các dịch vụ cơ bản và giảm nghèo.
Số liệu từ báo cáo này cũng cho thấy, những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, trong đó, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam những năm gần đây đã đạt mức 10% GDP (tỷ trọng này là rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế). Mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài (so năm 1990) với chất lượng đường được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn đã có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002. Tỷ lệ số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lên 25% dân số.
Tuy nhiên, báo cáo này cũng lưu ý những thách thức mới Việt Nam cần quan tâm là, sự cần thiết phải huy động nguồn vốn mới bởi hiện nay, nguồn tài chính quốc tế tài trợ chiếm gần 40% đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, đến khi giàu mạnh, hỗ trợ từ nguồn này sẽ chỉ còn được là vai trò thứ yếu. Do đó, việc nhanh chóng tìm kiếm nguồn tài chính thay thế là rất cần thiết. Bên cạnh đó là thách thức từ đô thị hóa tăng nhanh. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng một triệu người từ vùng nông thôn chuyển đến các thành phố lớn, đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao năng lực quản lý và lập kế hoạch đô thị. Đặc biệt, phải kiểm soát có hiệu quả những nhu cầu xây dựng nhà ở không theo quy hoạch và cơ sở hạ tầng cơ bản trước khi tiến hành xây dựng. Nên trao thêm trách nhiệm cho chính quyền địa phương và thông qua phương pháp lập kế hoạch linh động để đạt được yêu cầu.
Ngoài ra việc cung cấp cơ sở hạ tầng nhìn chung đem lại những lợi ích xã hội cao, nhưng khi càng nhiều người được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản thì lại càng khó tìm ra hình thức đầu tư có lợi nhuận cao. Do đó, cần cải thiện các quy trình lập kế hoạch để xác định các cơ hội đầu tư mang lại lợi ích lớn cho xã hội, để tối đa hóa lợi nhận cho những đầu tư đã lựa chọn, cũng như cần phải cải cách điều hành, giải quyết các vấn đề, đặc biệt là vấn đề tham nhũng.
Mặt khác, do Việt Nam đã giảm nghèo, sự khác biệt giữa tỷ lệ nghèo thành thị và nông thôn đang thu nhỏ lại. Nhưng đây cũng là lúc khoảng cách giữa những người có thu nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất lại tăng lên, nên vấn đề quan trọng là làm thế nào để tập trung nguồn hỗ trợ tài chính của Chính phủ cho cơ sở hạ tầng để mang lại lợi ích cho những người nghèo nhất.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 thì nhu cầu đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng là rất lớn. Trước mắt, Việt Nam cần tập trung nhiều hơn cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo; tiếp tục ưu tiên cho vùng còn khó khăn, các tỉnh thường bị thiên tai bão lũ; Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nhằm tạo bước chuyển biến mạnh về xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề cho phát triển đất nước.
Ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông
Theo bản đề án, lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ.
Đặc biệt, đây cũng là lĩnh vực mà các nhà tài trợ vốn ODA như ADB, JBIC, WB... rất quan tâm từ trước tới nay cũng như trong nhiều năm tới.
Cụ thể, nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này trong 5 năm tới sẽ tiếp tục tăng mạnh để đầu tư cho các lĩnh vực phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế; ưu tiên phát triển các tuyến đường ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, ĐBCSL; phát triển mạnh hệ thống đường cao tốc, nhất là tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Ngoài ra, nguồn vốn này sẽ phát triển các tuyến hành lang giao thông trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng.
Trong đó gồm có tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia và hai hành lang và một vành đai kinh tế Việt - Trung, xây dựng một số cầu đường bộ lớn ở cả 3 miền, trong đó có các cầu Cao Lãnh, Vàm Cống thuộc Dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn II).
Đồng thời, giao thông nông thôn cũng nằm trong phạm vi của nguồn vốn, gồm nâng cấp các tuyến đường huyện, bảo đảm đường thông suốt cả năm từ thôn bản đến trung tâm xã, đầu tư hỗ trợ bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ cũng như công tác duy tu bảo dưỡng đường bộ.
Bên cạnh việc định hướng đầu tư cho các dự án giao thông cầu đường bộ, đối với lĩnh vực đường sắt, Chính phủ sẽ thu hút vốn ODA xây dựng một số tuyến đường sắt, kể cả tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh; tăng cường năng lực quản lý và điều hành ngành đường sắt.
Lĩnh vực hàng không, các sân bay quốc tế sẽ được xây dựng ở một số tỉnh, thành phố phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống các sân bay của cả nước, trước mắt xây dựng mới một sân bay quốc tế hiện đại cho Thủ đô Hà Nội (Cảng Hàng không Quốc tế 2), Long Thành - Biên Hoà, Đà Nẵng (nhà ga), Cam Ranh - Khánh Hoà (nhà ga) và Phú Quốc - Kiên Giang.
Trong giai đoạn này, Chính phủ cũng sẽ tập trung vốn ODA để xây dựng một số cảng nước sâu, trong đó có các cảng Vân Phong - Khánh Hoà, cảng Lạch Huyện - Hải Phòng, và các cảng trung chuyển. Ngoài ra sẽ hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống các tuyến đường thuỷ nội địa quan trọng ở Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL.
Thể chế, tăng cường năng lực con người trong lĩnh vực giao thông, nhất là an toàn giao thông, cũng sẽ là một hướng đầu tư.
Chính phủ cũng định hướng cụ thể trong việc sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với nguồn vốn ODA hoàn lại, đặc biệt là các khoản vay có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài và có ân hạn) thì ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế.
Các khoản vay ODA có điều kiện ưu đãi kém hơn (lãi suất cao, thời gian trả nợ và ân hạn ngắn) sẽ được sử dụng cho các chương trình, dự án có tính khả thi cao về mặt kinh tế và có khả năng trả nợ.
Theo đánh giá của Bộ Giao thông Vận tải, thời gian tới vốn ODA dành cho phát triển hạ tầng giao thông về cơ bản vẫn sẽ đến từ các nhà tài trợ lớn, truyền thống JBIC, WB, ADB, AFD (Cơ quan Phát triển Pháp) và KFW (Ngân hàng Tái thiết Đức).
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA
Theo nhận định của các chuyên gia, mặc dù nguồn cung cấp ODA trên thế giới vẫn còn hạn chế, nhưng nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ vẫn tăng trưởng mạnh.
Dự báo từ nguồn vốn ODA ký kết cho thấy, bên cạnh 8 tỷ USD vốn ODA thời kỳ 2001 - 2005 chuyển tiếp sang, trong giai đoạn từ 2006 - 2010, vốn ODA ký kết mới sẽ đạt khoảng từ 12,35 - 15,75 tỷ USD, đưa tổng nguồn vốn ODA được ký kết lên con số 23,75 tỷ USD.
Dự báo tổng vốn ODA sẽ giải ngân thời kỳ 2006 - 2010 đạt khoảng 11,46 - 12,41 tỷ USD. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, trong bản đề án Chính phủ đã nêu rõ: "Trong giai đoạn 2006 - 2010, chủ trương thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam" là tiếp tục tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 -2010".
Bản đề án của Chính phủ cũng nêu rõ: "Chính sách thu hút và quản lý ODA trong thời gian tới cần tập trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án ODA đã ký kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả".
Mặc dù xác định ODA là nguồn vốn vô cùng quan trọng đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng từ những bài học chủ yếu được rút ra qua thực tế thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn 2001- 2005, Chính phủ đã nêu rõ rằng các cơ quan tiếp nhận nguồn vốn này cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh đối với quá trình phát triển ở cấp độ quốc gia, ngành, địa phương và đơn vị thụ hưởng.
Vì xét cho cùng, ODA không phải là "thứ cho không" mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín và trách nhiệm quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế.
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CÁC NGUỒN VỐN FDI VÀ ODA TRÊN THẾ GIỚI
Xu hướng vận động của FDI
Sau ba năm suy thoái, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên toàn cầu năm 2004 đạt 648 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2003, nhưng xu hướng không đồng nhất. Dòng chảy FDI đổ vào các nước đang phát triển tăng 40%, đạt 233 tỷ USD, trong khi FDI ở các nước phát triển giảm 14%, còn 380 tỷ USD.
Xu hướng FDI toàn cầu
Dòng FDI:
Đầu 90s:100 tỷ USD/năm.
Đầu những năm 2000: 1200 tỷ USD/năm
Bảy trong số mười nền kinh tế đạt tăng trưởng lớn nhất về thu hút FDI năm 2004 là các nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi; trong khi mười nền kinh tế có sự sụt giảm lớn nhất trong lĩnh vực này lại rơi vào các nước phát triển. Năm điểm nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất trong số các nước đang phát triển là Trung Quốc, Hồng Công thuộc Trung Quốc, Brazil, Mexico và Singapore
Khu vực châu Á và châu Đại Dương đạt tăng trưởng lớn nhất về thu hút FDI với mức tăng 46%, khu vực Mỹ Latinh và Caribe tăng 44%, trong khi dòng chảy FDI vào châu Phi không thay đổi. FDI vào các nước kém phát triển nhất đạt mức cao nhất từ trước đến nay với 11 tỷ USD.
Báo cáo của UNCTAD cho thấy sự khác biệt lớn trong dòng chảy FDI tại các nước phát triển. FDI vào Mỹ tăng 62%, đạt mức 96 tỷ USD; FDI vào Anh tăng gấp ba lần với con số 78 tỷ USD. Australia thu hút mạnh FDI với mức kỷ lục 43 tỷ USD nhờ việc đầu tư cổ phiếu và tăng cường mua bán, sáp nhập các công ty lớn. Tuy nhiên, FDI vào Liên minh châu Âu (EU) giảm 38% trong năm 2004, xuống mức 216 tỷ USD
Các nước EU có sự đối lập lớn về thu hút FDI giữa các thành viên cũ và mới. Tại 15 nước thành viên cũ của EU, dòng FDI giảm 40%, ở mức thấp nhất kể từ năm 1998. Tại Đan Mạch, Đức và Hà Lan, FDI giảm do việc trả các khoản nợ trong công ty và việc chuyển vốn về nước của các công ty mẹ.
Trong khi đó, năm 2004 FDI vào tất cả các nước thành viên mới của EU tăng gần 70% so với năm 2003, đạt mức 20 tỷ USD. Ba Lan, Séc, Hungary là những nước thu hút phần lớn dòng đầu tư này.
Châu Á đạt kỳ tích về thu hút FDI
Báo cáo đánh giá khu vực châu Á và châu Đại Dương đạt mức kỷ lục về thu hút FDI trong năm 2004 với 148 tỷ USD, nhiều hơn 46 tỷ USD so với năm 2003.
Đây là khu vực tiếp nhận nhiều FDI nhất trong số các nước đang phát triển nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chính sách được cải thiện, các tập đoàn xuyên quốc gia có cam kết chiến lược về đầu tư vào thị trường này. Trung Quốc nổi lên như một nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất không chỉ so với các nước trong khu vực mà so với các nước đang phát triển trên toàn thế giới. Lượng FDI năm 2004 vào Trung Quốc đạt mức kỷ lục mới với 60,6 tỷ USD.
Theo UNCTAD, Đông Á với mức tăng trưởng FDI 46% vẫn là điểm đến được ưa chuộng đối với dòng chảy FDI năm 2004, Tây Á đứng đầu với mức tăng trưởng FDI là 51%, đạt 9,8 tỷ USD.
Lượng FDI vào khu vực Đông Nam Á tiếp tục tăng, từ 17 tỷ USD năm 2003 lên 26 tỷ USD năm 2004, mức tăng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997-1998.
Khu vực Nam Á đạt tăng trưởng FDI là 31%, trong khi FDI vào châu Đại Dương giảm 54%, còn 67 triệu USD trong năm 2004.
Báo cáo đánh giá nguyên nhân chủ yếu khiến FDI vào khu vực châu Á tăng là do số vụ sáp nhập và mua bán các công ty xuyên quốc gia tiếp tục gia tăng. Trong khi đó, FDI dành cho nghiên cứu và phát triển, một lĩnh vực tăng trưởng khá mới đối với các nước đang phát triển đã tăng lên nhanh chóng ở châu Á trong thời gian qua.
Lượng FDI từ châu Á và châu Đại Dương ra bên ngoài trong năm 2004 tăng gấp bốn lần, lên tới 69 tỷ USD, trong đó có 40 tỷ USD từ Hồng Công (Trung Quốc). Các dòng đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ cũng tăng mạnh. Vì môi trường về FDI trong khu vực tiếp tục được cải thiện nên dòng FDI ra và vào khu vực vẫn có nhiều triển vọng
Theo dự đoán, năm nay FDI vào Trung Quốc sẽ tăng, các dòng đầu tư vào khu vực Đông Nam Á cũng có chiều hướng gia tăng trong năm thứ ba liên tiếp. FDI vào khu vực Tây Á có thể tăng liên tục trong năm 2005, đặc biệt trong ngành công nghiệp dầu khí để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu đang gia tăng trên thế giới
Dự báo của UNCTAD cho thấy, năm nay các công ty Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong các dòng FDI từ khu vực ra bên ngoài thông qua các vụ sáp nhập và mua bán quy mô lớn giữa các công ty nội địa và công ty nước ngoài. Trung Quốc có khả năng sẽ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn ở châu Mỹ Latinh.
Chuyên gia kinh tế của UNDP tại Việt Nam Jonathan Pincus cho biết, năm 2004, FDI vào Việt Nam đạt 1,6 tỷ USD, tăng so với mức 1,45 tỷ USD năm 2003 và 1,2 tỷ USD năm 2002. Những lĩnh vực có tiềm năng thu hút FDI của Việt Nam là dầu khí, khai thác khoáng sản. Năm 2004 Việt Nam xếp hạng 50 theo chỉ số thực hiện dòng FDI từ bên ngoài vào.
Ông Pincus đánh giá, tiềm năng thu hút FDI của Việt Nam rất lớn do Việt Nam có vị trí thuận lợi trong khu vực, đạt được nhiều tiến bộ, môi trường chính trị ổn định, các tập đoàn lớn quan tâm đến thị trường này. Tuy nhiên, những thách thức Việt Nam phải đối mặt đó là, thủ tục cấp phép đầu tư còn chậm, một số chi phí và dịch vụ vẫn ở mức cao, sự phối hợp giữa chính quyền các cấp chưa đồng bộ. Việt Nam cần nâng cao tính cạnh tranh trong việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia
Ngành dịch vụ càng ngày càng chiếm một thị phần lớn của thương mại toàn cầu.
Khu vực dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau từ du lịch, qua tài chính cho đến lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe... Trong những nền kinh tế thế giới phát triển, các dịch vụ này thường chiếm trên phân nửa các hoạt động kinh tế.
Dòng chảy đầu tư vào dịch vụ
Theo UNCTAD, tỷ trọng dịch vụ trong xuất nhập khẩu hiện chiếm khoảng 70% giá trị xuất nhập khẩu toàn cầu. Điều này có nghĩa là muốn thu hút đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển, Việt Nam phải mở cửa khu vực dịch vụ và thu hút đầu tư, liên doanh trên các lĩnh vực dịch vụ.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2007 cũng chỉ ra rằng dòng vốn FDI trên thế giới đang có xu hướng tập trung vào lĩnh vực dịch vụ. Là một nước tiếp nhận đầu tư, Việt Nam có nhiều cơ hội để thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này.
Việc mở cửa thị trường dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển của các ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ngược lại, sự tăng trưởng và phát triển của các ngành dịch vụ cũng tạo điều kiện để Việt Nam tăng sức hấp dẫn và cạnh tranh thu hút FDI vào các ngành kinh tế khác.
Trong xu thế vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều, dòng vốn đang có sự chuyển dịch cơ cấu “chảy” mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước trong năm 2007 vừa qua, trong đó tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%).
Trong số các ngành dịch vụ, lĩnh vực dịch vụ du lịch đang nổi lên là điểm sáng đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam với số lượng các dự án lớn đang tìm hiểu và xúc tiến đầu tư tăng mạnh.
Chỉ tính riêng năm 2007, số liệu thống kê của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cho thấy: ngành du lịch Việt Nam đã thu hút 47 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký lên đến trên 1,86 tỷ USD, tăng 19,57% so với năm 2006.
Xu hướng vận động của ODA
Dòng ODA:
Đầu 90s: mức luân chuyển 60 tỷ USD/năm
Những năm 2000: mức luân chuyển là 38 tỷ USD/năm
Hiện nay, trên thế giới có 2 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: các nhà tài trợ song phương (các nước thành viên của Ủy ban Hỗ trợ Phát triển – DAC, Trung – Đông Âu, một số nước Ả Rập và một số nước công nghiệp mới), các tổ chức tài trợ đa phương (chủ yếu WB, ADB, FDB, IMF), ngoài ra còn có các khoản tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong số các nguồn này thì ODA từ các nước thành viên của DAC là lớn nhất. Hàng năm, dòng vốn này trung bình đạt khoảng 50.000 triệu USD, năm 1996 đạt 55.438 triệu USD, năm 1997 đạt 47.580 triệu USD, năm 1998 đạt 51.521 triệu USD, năm 1999 đạt 56.526 triệu USD, năm 2000 đạt 53.700 triệu USD và lượng vốn này chiếm một tỷ lệ đáng kể là từ GNP của các nước DAC.
Tuy nhiên, theo tính toán của UNDP, để thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, mỗi năm toàn thế giới cần 96 – 116 tỷ USD. So với con số hỗ trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển hiện nay là 54 tỷ USD thì khoản hỗ trợ này cần tăng gấp đôi và chiếm 0,5% GDP của các nước thuộc DAC của OECD. Hiện tại, trong số 22 nước thành viên của DAC có tới 17 nước dành dưới 0,5% GDP cho viện trợ nước ngoài, 11 nước dành dưới 0,3% GDP.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Song tại Hội nghị quốc tế về tài trợ phát triển của UN diễn ra vào tháng 3/2002 tại Môngtơrây (Mehico) cho thấy, xu hướng này sẽ thay đổi, một số nước đã cam kết mới về hỗ trợ, tổng ODA tính theo giá trị thực tế sẽ tăng thêm khoảng 15 tỷ USD vào năm 2006. Trong đó, Mỹ tuyên bố trong 3 năm tài chính (2003 – 2005) sẽ tăng dần viện trợ để từ năm thứ 3 trở đi, mỗi năm Mỹ sẽ dành thêm 5 tỷ USD cho viện trợ nước ngoài (tăng 50% so với năm 2002), đưa tổng viện trợ nước ngoài của Mỹ lên 0,15% GNP. Các nước EU cũng tuyên bố đến năm 2006 viện trợ nước ngoài sẽ chiếm 0,39% GNP. Như vậy, mỗi năm chi viện cho viện trợ nước ngoài của EU sẽ tăng thêm 7 tỷ USD. Tại Hội nghị cao cấp các nướ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24744.doc