Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục hình và bảng biểu
Lời mở đầu
Chương I: Khái quát về thị trường bảo hiểm nông nghiệp . 3
I. Vài nét về thị trường . 3
1. Khái niệm. . 3
2. Yếu tố cấu thành thị trường . 4
3. Đặc điểm . 4
II. Quy luật điều tiết thị trường: . 5
1. Quy luật giá trị: . 5
2. Quy luật cung cầu: . 5
3. Quy luật giá cả: . 5
4. Quy luật cạnh tranh: . 6
III. Thị trường bảo hiểm . 6
1. Khái niệm . 6
2. Đặc trưng cơ bản. . 7
3. Phân loại thị trường bảo hiểm: . 10
4. Một số quy luật chung của thị trường bảo hiểm: . 12
IV. Thị trường bảo hiểm nông nghiệp . 13
1. Vài nét về thị trường bảo hiểm nông nghiệp. 13
2. Việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở các quốc gia trên thế giới . 13
Chương II: Thực trạng thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam . 20
I. Cơ sở phát triển . 20
1. Dân số quốc gia . 20
2. Điều kiện tự nhiên các vùng miền . 21
2.1 Miền Bắc . 21
2.1.1 Đồng bằng sông Hồng. 21
2.1.2 Vùng Tây Bắc . 21
2.1.3 Vùng Đông Bắc . 22
2.2 Miền Trung . 22
2.2.1 Vùng Bắc Trung Bộ . 22
2.2.2 Vùng duyên hải Nam Trung Bộ . 23
2.3 Miền Nam . 24
2.3.1 Vùng Tây Nguyên . 24
2.3.2 Vùng Đông Nam Bộ . 24
2.3.3 Vùng đồng bằng sông Cửu Long . 24
3. Đặc điểm ngành nghề sản xuất . 25
3.1 Trồng trọt . 25
3.1.1 Cây lương thực . 25
3.1.2 Cây công nghiệp . 27
3.2 Chăn nuôi . 31
3.2.1 Ngành chăn nuôi Việt Nam trong thời gian qua . 31
3.2.2 Lợi thế ngành chăn nuôi ở Việt Nam . 33
3.2.3 Các ngành chăn nuôi chính . 33
3.2.4 Những thách thức và rủi ro của ngành chăn nuôi . 34
3.2.5 Những bất cập khác . 35
4. Các cơ sở phát triển khác . 35
II. Diễn biến tình hình thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam . 36
1. Vài nét về thị trường. . 36
2. Các yếu tố cấu thành thị trường. . 37
2.1 Khả năng cung cấp dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp của các công ty bảo
hiểm. . 37
2.1.1 Tổng công ty BH Việt Nam . 37
2.1.2 Công ty Groupama . 39
2.1.3 Tổng công ty cổ phần Bảo Minh . 41
2.1.4 Công ty cổ phần BH Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam . 41
2.1.5 Tổ chức phi chính phủ GRET (Groupe de Recherche et d’Échanges
Technologiques) . 43
2.2 Nhu cầu thị trường với bảo hiểm nông nghiệp . 44
2.2.1 Nhu cầu của người nông dân . 44
2.2.2 Nhận thức của Hiệp hội bảo hiểm và các Cơ quan Nhà nước . 45
2.3 Mức phí bảo hiểm và các loại hình dịch vụ của bảo hiểm nông nghiệp . 46
2.3.1 Mức phí chưa phù hợp . 46
2.3.2 Sản phẩm chưa đa dạng, phong phú . 47
3. Tình hình thực hiện thí điếm và nghiên cứu triển khai bảo hiểm nông
nghiệp . 47
3.1 Mô hình bảo hiểm chỉ số . 47
3.1.1 Những lợi thế của BH theo chỉ số . 48
3.1.2 Nhược điểm của BH chỉ số . 49
3.1.3 Các dự án triển khai trong thời gian qua . 50
3.2 Bảo hiểm tín dụng nông nghiệp . 51
3.2.1 Trách nhiệm của ABIC . 52
3.2.2 Phí BH . 52
3.2.3 Phương án cụ thể . 53
4. Đánh giá các hoạt động trên thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt nam. . 53
4.1 Những thất bại trong quá trình triển khai . 53
4.2 Kết quả hoạt động bảo hiểm nông nghiệp của Việt Nam . 55
4.3 Nguyên nhân bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam chưa phát triển . 56
4.3.1 Sản phẩm nông nghiệp chịu nhiều yếu tố rủi ro . 56
4.3.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động bảo hiểm nông nghiệp ở Việt nam còn
hạn chế. . 58
4.3.3 Thị trường tái bảo hiểm chưa phát triển mạnh . 59
4.3.4 Trình độ và nhận thức người dân chưa cao . 60
4.3.5 Chưa có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước . 63
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt
Nam . 66
I. Định hướng phát triển TT BH nông nghiệp ở Việt Nam . 66
1. Quan điểm của Nhà nước . 66
2. Định hướng phát triển TT. 67
II. Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam . 68
1. Giải pháp về phía Nhà nước . 68
2. Giải pháp về phía hiệp hội bảo hiểm. . 71
3. Giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm . 72
4. Giải pháp về phía người nông dân . 73
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
83 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2967 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường bảo hiểm nông nghiệp và một số giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long (nhất là ở Bến Tre, Cà Mau) và ở
duyên hải Nam Trung Bộ.
- Cây điều mới được trồng phổ biến trong một số năm gần đây, nhưng có triển vọng
lớn để xuất khẩu. Điều được trồng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Bộ.
* Các vùng chuyên canh cây công nghiệp
Trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, các vùng chuyên canh cây công
nghiệp đã và đang hình thành ở những vùng có điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi
cho một số cây công nghiệp có giá trị. Việc hình thành các vùng chuyên canh đã và sẽ
thu hút nhiều lao động trẻ, khoẻ, góp phần phân bố lại dân cư và lao động giữa các
vùng.
Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm và hàng năm lớn nhất
nước ta. Ở đây có nhiều điều kiện thuận lợi : đất đai của vùng phần lớn là đồng bằng
cao, đất xám bằng phẳng kề liền với vùng đồi badan lượn sóng, nguồn nhân lực khá dồi
dào, nhiều cơ sở chế biến sản phẩm cây công nghiệp, có các chương trình hợp tác đầu
30
30
tư với nước ngoài để phát triển cây chức năng. Các cây trồng chính trong vùng là cao
su, cà phê, điều, đậu tương, lạc, mía, thuốc lá. Riêng cây cao su, Đông Nam Bộ chiếm
gần 70% diện tích, gần 90% sản lượng cả nước, tập trung chủ yếu ở Bình Phước, Bình
Dương và Đồng Nai.
Tây Nguyên là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn thứ hai nhờ có diện tích đất
badan lớn nhất cả nước và có khí hậu phân hoá theo độ cao. Các sản phẩm chính của
vùng là cà phê, cao su, hồ tiêu, chè, dâu tằm. Riêng về cà phê, Tây Nguyên chiếm gần
80% diện tích và gần 90% sản lượng của cả nước. Hiện nay, trong vùng đang phát triển
một số cây công nghiệp khác như ca cao, bông, điều…
Ở trung du và miền núi phía Bắc, các vùng chuyên canh chè tạo thành một dải trên hầu
khắp các vùng đồi trung du (ở Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên) và một
số cao nguyên (ở Hà Giang, Nghĩa Lộ, Sơn La); lạc và thuốc lá trồng ở vùng đất bạc
màu của Lạng Sơn, Bắc Giang; hồi trồng ở Lạng Sơn, Cao Bằng.
Ở Bắc Trung Bộ có các vùng chuyên canh với quy mô không lớn lắm (trồng lạc, cà
phê, cao su).
Ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung chủ yếu
là các vùng chuyên canh cây công nghiệp hàng năm.
31
31
Bảng 2: Diện tích các loại cây trồng phân theo nhóm cây ( 2000-2007)
Đơn vị: nghìn ha
Năm
Trong đó
Tổng số
Cây hàng năm Cây lâu năm
Tổng số
Trong đó
Tổng
số
Trong đó
Cây lương
thực có
hạt
Cây CN
hàng
năm
Cây CN
lâu năm
Cây ăn
quả
2000 12644.3 10540.3 8399.1 778.1 2104.0 1451.3 565.0
2001 12507.0 10352.2 8224.7 786.0 2154.8 1475.8 609.6
2002 12831.4 10595.9 8322.5 845.8 2235.5 1491.5 677.5
2003 12983.3 10680.1 8366.7 835.0 2303.2 1510.8 724.5
2004 13184.5 10817.8 8437.8 857.1 2366.7 1554.3 746.8
2005 13287.0 10818.8 8383.4 861.5 2468.2 1633.6 767.4
2006 13409.8 10868.2 8359.7 841.7 2541.6 1708.6 771.4
2007 13495.2 10862.7 8270.2 845.8 2632.5 1796.6 775.5
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
3.2 Chăn nuôi
Việt Nam là một nước nông nghiệp có nhiều tiềm năng ở châu Á và thế giới. Việt Nam
đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều, cao su và đứng đầu thế giới về
xuất khẩu hồ tiêu. Dù ngành chăn nuôi chưa đóng góp nhiều ngoại tệ và chưa thực sự
nổi bật nhưng không phải vì thế nó không có những lợi thế trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Để chăn nuôi thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, rất cần
phải nhìn thẳng vào sự thật và đổi mới thực sự nhận thức chung về vấn đề này.
3.2.1 Ngành chăn nuôi Việt Nam trong thời gian qua
32
32
Kinh tế phát triển, nhu cầu thực phẩm của người tiêu dùng ngày càng tăng, song sản
phẩm chăn nuôi vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Do chưa thực sự
có cách tiếp cận mới, chăn nuôi truyền thống vẫn chiếm tỷ lệ cao, với những đặc điểm
nổi bật là nhỏ lẻ, phân tán, số lượng không tập trung đủ lớn để trở thành sản phẩm hàng
hóa, không đồng nhất về chất lượng, chưa chú trọng đến tính kế hoạch TT và hạch toán
về hiệu quả kinh tế. Phương thức chăn nuôi này tuy có nhiều nhược điểm, nhưng là
nguồn thu nhập tối cần thiết nâng cao mức sống của người nghèo. Theo tính toán của
các chuyên gia, thu nhập từ chăn nuôi chiếm 70% thu nhập của người nghèo hiện nay.
Nhu cầu về thực phẩm ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh khá lớn, chưa
kể nhu cầu thực phẩm của 70 triệu dân ở các vùng khác nhau trong cả nước. Rõ ràng,
nếu không chuyển đổi phương thức sản xuất chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa,
ứng dụng công nghệ cao, sẽ không đáp ứng được nhu cầu thực phẩm thịt, sữa, trứng có
chất lượng và an toàn vệ sinh phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu...
Những năm gần đây, nhiều chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển kinh tế,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi, đã đi vào thực tiễn cuộc sống, góp phần thúc đẩy quá trình phát
triển ngành chăn nuôi. Một phương thức sản xuất mới - sản xuất theo hướng hàng hóa
bền vững - trong ngành chăn nuôi đang từng bước hình thành.
Thep báo cáo kết quả Tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thủy sản cuối năm
2006, cả nước có 17.721 trang trại (chưa kể những trang trại chuyên chăn nuôi thỏ, lợn
rừng, nhím và các loại động vật sống trong nước ngoài cá), trong đó có 7.475 trang trại
chăn nuôi lợn, 2.837 trang trại chăn nuôi gia cầm, 6.405 trang trại chăn nuôi bò (có
2.011 trang trại chăn nuôi bò sữa), 247 trang trại chăn nuôi trâu, 757 trang trại chăn
nuôi dê. Chăn nuôi trang trại đang trên đà phát triển mạnh, nhưng không phải vì vậy
mà không có những vấn đề đang đặt ra. Số liệu tổng kết cho thấy, chăn nuôi nhỏ lẻ đáp
ứng đến 60% nhu cầu tiêu dùng trong nước, đồng thời là nguồn thu nhập đáng kể của
các hộ nông dân cá thể. Chăn nuôi thực sự đang là một trong những phương thức quan
trọng góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo trong nông thôn. Tuy nhiên, làm thế nào
33
33
để người chăn nuôi tiếp cận được nguồn vốn, ứng dụng tốt nhất các thành tựu của khoa
học - công nghệ, góp phần phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đang là vấn đề có nhiều bức xúc.
3.2.2 Lợi thế ngành chăn nuôi ở Việt Nam
Nhà nông phấn khởi khi có Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg ngày 10-12-1999 và
Quyết định số 17/2006/QĐ-TTg ngày 29-01-2007 của Thủ tướng Chính phủ về
Chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi và giống cây lâm nghiệp đến năm 2010.
Hàng loạt các trang trại chăn nuôi bò sữa, lợn hàng hóa, dê, gà thả vườn, vịt, ngan... đã
phát triển mạnh mẽ. Hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến địa phương đã từng
bước phổ biến rộng rãi tiến bộ mới về giống, kỹ thuật, nhờ đó các tiến bộ kỹ thuật về
chuồng trại theo quy trình công nghệ mới, con giống mới cho chăn nuôi đã được người
dân áp dụng, hàng triệu nông hộ thoát đói, giảm nghèo.
Theo Quyết định phê duyệt của Chính phủ về định hướng phát triển chăn nuôi đến
2020, “chăn nuôi sẽ được thay đổi cơ bản theo hướng công nghiệp có năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; kiểm soát được dịch bệnh và bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm; đáp ứng đủ nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và hướng
tới xuất khẩu”, “nâng cao tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp: đạt 32% vào năm
2010; 38% năm 2015 và 42% năm 2020”. Tất cả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
Nhà nước là điểm tựa vững chắc giúp ngành chăn nuôi có cơ sở pháp lý để phát triển
trong thời hội nhập.
3.2.3 Các ngành chăn nuôi chính
- Chăn nuôi lợn, gà công nghiệp.
Chăn nuôi lợn, gà công nghiệp không cạnh tranh về đất đai làm chuồng trại, có thể phát
triển trên đất cằn sỏi đá, nghèo dinh dưỡng. Trên cùng một đơn vị diện tích đất này,
nếu đủ nước có thể tạo ra khối lượng sản phẩm chăn nuôi lớn, đem lại hiệu quả kinh tế
cao.
Thực tế cho thấy, khi đầu tư đồng bộ về chuồng trại, thiết bị phục vụ nuôi lợn trên một
héc-ta (cho dù đất rất xấu), hằng năm sẽ sản xuất được từ 10.000 con đến 15.000 con
34
34
lợn thịt (tương đương từ 100 tấn đến 150 tấn thịt hơi), doanh thu đạt từ 40 tỉ đến 60 tỉ
đồng
- Chăn nuôi gia súc có sừng công nghiệp.
Để chăn nuôi gia súc có sừng cần quy hoạch đất đủ cho trồng cỏ. Khi chăn nuôi phát
triển, chỗ nào có chăn nuôi nơi đó có cơ hội cải thiện được chất lượng đất, cung cấp
nhiều nguyên liệu có giá trị dinh dưỡng cao cho chế biến thực phẩm, đa dạng hóa sản
phẩm tiêu dùng hằng ngày cho người dân, bảo đảm an toàn thực phẩm và phục vụ xuất
khẩu, giúp cơ cấu lại bữa ăn, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trong dân, nâng cao văn minh
ăn uống, tăng cường sức khỏe cộng đồng, nâng cao dân trí XH.
3.2.4 Những thách thức và rủi ro của ngành chăn nuôi
- Ngành chăn nuôi hàng hóa ở nước ta mới hình thành nên không có truyền thống
“cha truyền con nối” như ở các nước khác. Chính vì điều khác biệt này mà chăn
nuôi chưa có cơ hội phát triển lâu dài, bền vững ở từng hộ, nếu không có chính sách
thích hợp khuyến khích.
- Khi chăn nuôi phát triển sẽ lôi cuốn được hàng triệu người dân tham gia vào sản
xuất và các hoạt động dịch vụ cộng đồng khác sẽ hình thành, cải thiện nhanh chóng
môi trường an sinh XH.
- Cho đến nay, ngành chăn nuôi Việt Nam tự nó chưa có mô hình sản xuất mang tính
cộng đồng để đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài hiện có ở Việt Nam và
các nước trên thế giới. Trong hành lang pháp lý vĩ mô cũng chưa đủ chính sách rõ
nét về chuỗi sản phẩm khép kín (từ chăn nuôi gia súc cho thịt, sữa, trứng, thức ăn,
thức ăn đạm, thức ăn bổ sung, dụng cụ chuồng trại cho chăn nuôi, thuốc thú y, giết
mổ công nghiệp, chế biến thịt, sữa công nghiệp và TT dịch vụ).
- Chưa có một chính sách và kế hoạch dài hạn cho đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học -
kỹ thuật chuyên ngành cũng như về kỹ thuật đồng bộ về giống, công nghệ sinh học,
thiết bị, chế biến, thú y... có trình độ chuyên môn sâu. Thực tế đã bắt đầu có sự hụt
hẫng về đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên sâu, tâm huyết với nghề không chỉ trong
chăn nuôi mà còn thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác khi chăn nuôi phát triển.
35
35
- Đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn dàn trải, những đề tài nghiên cứu không mang
tính toàn diện và lâu dài; chưa đáp ứng cho việc nâng cao sản xuất ở từng giai đoạn
và thiếu tính liên tục; thiếu những giải pháp kỹ thuật mới, cụ thể, ứng dụng ngay
cho phát triển sản xuất; thiếu tính đặc thù vùng sinh thái, vùng kinh tế trong nghiên
cứu để triển khai phù hợp; nhiều đề tài không mang yếu tố kinh tế, khó áp dụng vào
sản xuất.
- Thống kê của ngành chăn nuôi còn quá hời hợt, thiếu cụ thể, không phong phú và
chi tiết, bỏ qua nhiều chỉ tiêu rất cần cho định hướng phát triển tương lai.
- Các quy định thanh toán, quyết toán đề tài nghiên cứu do Bộ Tài chính đưa ra
không thực tế khi áp dụng. Các nhà khoa học phải thực hiện theo những quy định
bất hợp lý. Ví như kinh phí khi được cấp theo dự toán lúc xây dựng đề tài về giá cả
vật tư, xăng xe, công cán đã quá thấp so với giá cả thực tế khi được cấp kinh phí
thực hiện, nhưng nội dung đề tài vẫn giữ nguyên, không được điều chỉnh.
3.2.5 Những bất cập khác:
- Chăn nuôi đối mặt với nhiều loại bệnh nguy hiểm, nhất là những bệnh lây sang
người như cúm gia cầm.
- Nhu cầu nguyên liệu cho chăn nuôi ngày một tăng, không đủ và không chủ động
được nguồn nguyên liệu cơ sở, cho phát triển dù chỉ 70%.
- Kế hoạch sản phẩm không chủ động và chưa điều tiết được. Trong sản xuất lúc dư
thừa, lúc thiếu hụt.
- Chưa coi trọng công tác quản lý giống quốc gia vì chưa thấy hết tầm quan trọng lâu
dài trong công tác chọn lọc nâng cao năng suất, chất lượng vật nuôi một cách chủ
động. Việc tổ chức bộ máy không phù hợp từ trong đầu tư về kỹ thuật, con người
và cả chính sách.
4. Các cơ sở phát triển khác
- Quy mô ngành nông nghiệp: Tính đến 1/7/2006, cả nước có 2136 DN nông nghiệp,
lâm nghiệp và thủy sản; 571 cơ sở nông lâm thủy sản trực thuộc các DN phi nông
lâm thủy sản; 7237 hợp tác xã nông lâm thủy sản; 10,46 triệu hộ nông lâm thủy sản
36
36
( trong đó nông thôn là 9,78 triệu hộ), trong đó có 113699 trang trại. Mặt khác, khi
phân theo ngành kinh tế, 93,09% là các đơn vị nông nghiệp, 6,58% là đơn vị thủy
sản và đơn vị lâm nghiệp chiếm 0,33%.
- Giá trị sản xuất nông nghiệp cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu nhập quốc
nội. Số liệu thống kê năm 2008 cho thấy giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 212,0 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so
với năm 2007, bao gồm giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 155,2 nghìn tỷ đồng, tăng
5,4%; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 6,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% ; giá trị sản xuất
thuỷ sản đạt 50,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7%.( Nguồn: Tổng cục thống kê)
- Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp thấp: khoảng 20 triệu
đồng/ha. Tại thời điểm 1/7/2006 vốn tích lũy của một hộ nông nghiệp ở nông thôn
là 4,77 triệu đồng/năm ( Nguồn : Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2006 của Ban Chỉ đạo TW)
Với vị trí quan trọng trong đời sống, kinh tế XH nước ta, ngành nông nghiệp dù quy
mô lớn nhưng khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất, lại luôn gặp nhiều thiên tai, dịch
bệnh,… nên ngành nông nghiệp phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề không chỉ đối
với bản thân người nông dân mà còn với cả nền kinh tế quốc dân.
II. Diễn biến tình hình thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam
1. Vài nét về thị trường.
- TT có tiềm năng lớn nhưng đang bị bỏ trống
Theo thống kê của Hội Nông dân Việt Nam, tổng giá trị thiệt hại trong sản xuất nông
nghiệp hàng năm ở nước ta rất lớn: 8,2% GDP năm 1994, 10,5% GDP năm 1997, 4,8%
GDP năm 1999, và 4,57% GDP năm 2000. Nông dân chiếm gần 80% dân số, sản
lượng nông sản chiếm khoảng 30% GDP. Vậy tại sao TT BHNN đầy tiềm năng lại bị
bỏ ngỏ?
Hiện Việt Nam có hàng chục công ty BH trong và ngoài nước đang hoạt động, trong đó
các tập đoàn lớn của Anh, Mỹ, Canada, Nhật với bề dầy kinh nghiệm. Tuy nhiên chỉ có
một vài DN hoạt động trong lĩnh vực BH tài sản hoặc tái BH cho ngành có mức phí lớn
37
37
như dầu khí hay hàng không. Số còn lại đều nhằm vào mảng BH nhân thọ. Không có
DN nào khai thác mảng BH các sản phẩm nông nghiệp. Ngay cả Bảo Việt, tập đoàn
BH nhà nước lớn nhất Việt Nam cũng không còn quan tâm đến bởi BH các sản phẩm
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, lại rủi ro cao. Cách đây khoảng 5 năm, một công ty
BH nước ngoài đã tiến hành BH chăn nuôi. Sau các đợt dịch lở mồm long móng ở trâu
bò, dịch lợn tai xanh và dịch cúm H5N1 ở gia cầm khiến DN này lao đao và đành bỏ
cuộc. Tất nhiên BH các sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam không dễ dàng vì sản xuất
nhỏ và manh mún. Giá trị lại không cao. Mặt khác, bản thân người nông dân vốn quen
tâm lý “được ăn mất mùa chịu” nên họ cũng không muốn BH. Họ cho rằng nuôi vài
trăm con gà lời lãi không nhiều mà mua BH thì hết lãi. Theo các chuyên gia trong lĩnh
vực này, BH sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam không dễ dàng nhưng không có nghĩa
là không làm được. Thậm chí còn đầy tiềm năng bởi theo chủ trương đến năm 2020
Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp mới song vẫn còn tới 50% nông dân sống
bằng nghề nông. Đầu năm 2009, sau tác động của thiên tai, dịch bệnh, của khủng
hoảng tài chính thế giới khiến giá nông sản bất ngờ sụt giảm mạnh và những hệ luỵ đã
đổ lên vai người nông dân, BHNN lại được nhắc đến như một giải pháp cứu cánh, đây
chính là lỗ hổng lớn của ngành BH.
- Tỷ trọng tham gia BHNN ở Việt Nam ở mức rất thấp
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ trọng tham gia vào BHNN chỉ khoảng 1% tổng diện tích cây
trồng, 0,24% số trâu- bò, 0,1% đàn lợn và 0,04% số gia cầm được BH. Có thể thấy,
BHNN chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với quy mô nông nghiệp tại nước ta.
2. Các yếu tố cấu thành thị trường.
2.1 Khả năng cung cấp dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp của các công ty bảo hiểm
Với một TT BHNN khá lớn, tuy nhiên hiện nay, trên toàn quốc số lượng các DN
BHNN không nhiều. Trong số 26 DN BH phi nhân thọ, có 2 DN (Bảo Việt, Groupama)
đang triển khai BHNN, 2 DN ở dạng tiềm năng (Bảo Minh, Công ty BH ngân hàng
nông nghiệp) và một số tổ chức khác.
2.1.1 Tổng công ty BH Việt Nam
38
38
Theo thống kê của Vụ BH (Bộ Tài chính), mặc dù được triển khai ở Việt Nam từ đầu
những năm 80 của thế kỷ trước do tập đoàn Bảo Việt thực hiện, song đến nay tỷ trọng
tham gia BHNN ở Việt Nam, chỉ chiếm chưa đến 1% tổng diện tích cây trồng và số vật
nuôi. Năm 1983 Tập đoàn Bảo Việt đã mở rộng dịch vụ tới 26 tỉnh, nhận BH cho
200.000 ha lúa, nhưng sau 15 năm hoạt động, đến năm 1999 phải bỏ cuộc vì không có
lãi (thu phí được 13 tỷ đồng nhưng phải bồi thường 14,4 tỷ đồng). Các dịch vụ BHNN
khác cũng trong tình trạng tương tự và nay đã thu hẹp hoạt động. Ngay cả Phòng BH
nông nghiệp của Tập đoàn cũng phải sát nhập vào Phòng BH xe cơ giới.
Trong thời gian gần đây, Bảo Việt có tiến hành BH cây cao su, bạch đàn, vật nuôi( bò
sữa), nhưng tổn thất quá lớn, hiệu quả đem lại còn thấp.
- Chương trình bảo hiểm cây lúa
Từ năm 1982, chương trình thí điểm đầu tiên tại huyện Vụ Bản và Nam Ninh nhưng
chỉ được duy trì trong 2 năm. Nguyên nhân thất bại là do tổn thất lớn, số tiền bồi
thường không đủ bù đắp thiệt hại cho người nông dân.
Bảng 3: Bảo hiểm cây lúa của Bảo Việt (1982-1983)
Năm Tỉnh Phí BH Bồi thường Tỷ lệ tổn thất
1982 Nam Định 556.000đ 464.000đ 83.5%
1983 Nam Định 790.000đ 300.000đ 37.9%
(Nguồn: Báo cáo đánh giá về BH nông nghiệp Việt Nam)
Sau đó, từ năm 1993, BH mùa màng được triển khai tới 12 tỉnh trong cả nước ( An
Giang, Bình Đinh, Bình Thuận, Bắc Giang, Bến Tre, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp,
Hà Tĩnh, Kiên Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long). Tuy nhiên tổng diện tích BH chỉ chiếm
1,16% tổng diện tích gieo trồng toàn quốc năm 1995 và 0.27% năm 1996 khiến cho
BHNN chưa phát huy hết tính tích cực của nó. Vào năm 2000, chương trình này cũng
đã chấm dứt.
39
39
* Bảo hiểm nông nghiệp khác:
- Rừng và cao su: Đây là hai sản phẩm BH cây công nghiệp chính của Bảo Việt
nhưng cũng chỉ được BH rất nhỏ so với diên tích gieo trồng thực tế. Cao su có
doanh thu phí BH trong 3 năm ( 1996-1998) là 3,4 tỷ đồng còn bồi thường là 200
triệu đồng, tức là chỉ được khoảng 10%. Rừng cũng chỉ được BH một vùng
20.000ha ở Kiên Giang.
- Cây bạch đàn: Loại cây này là nguyên liệu sản xuất ra giấy. Việc triển khai BH mới
chỉ dừng lại ở một dự án liên doanh trồng rừng 44.000ha trong 2 năm 1997 và 1998
với phí BH là 120.000 USD
- BH vật nuôi: năm 1982, giới thiệu chương trình BH vật nuôi tại Hà Tây (cũ), Hòa
Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa thông qua hệ thống Hợp tác
xã. Tuy nhiên do khu vực nông nghiệp có tái cấu trúc lại vào năm 1986 nên mô
hình đã không tồn tại.Từ năm 1993 và năm 2000, Bảo Việt triển khai BH vật nuôi
tại Mộc Châu, Sơn La nhưng đã chấm dứt sau 2 năm hoạt động.
2.1.2 Công ty Groupama
Năm 2001, Groupama- một công ty BH của Pháp triển khai dịch vụ BHNN tại Việt
Nam. Công ty có nhiều kinh nghiệm trong việc cung cấp BHNN tại Pháp và đã chủ
động trong việc khởi động BHNN tại các quốc gia khác. Các dịch vụ mà công ty cung
cấp là BH vật nuôi, cây trồng; BH tài sản, thiệt hại dùng trong sản xuất nông nghiệp;
BH việc cung ứng nguyên vật liệu thiết bị và bao tiêu các sản phẩm nông nghiệp; BH
tai nạn lao động nông nghiệp và trách nhiệm dân sự trong sản xuất nông nghiệp; BH
hoạt động nuôi tôm từ năm 2002.
Khi bắt đầu bước chân vào TT Việt Nam, công ty chỉ có phương châm kinh doanh duy
nhất là BHNN. Nhưng đường lối đúng đắn đó đã không thể thành công bởi vấp phải
quá nhiều rào cản khách quan từ việc tiếp cận đối tượng đến xử lý tình huống. Từ
tháng 9/2002 khi bắt đầu hoạt động tại Việt Nam tới cuối tháng 12/ 2002, Groupama đã
bồi thường 17 tổn thất. Nhưng con số này đã tăng lên (tháng 1 đến tháng 10/2003) là
874 số hợp đồng phải bồi thường. Thực chất từ năm 2003, công ty đặt yêu cầu BH cực
40
40
thấp, ngay khi khách hàng chỉ BH một con bò cũng được chấp thuận. Tuy nhiên, sau
hàng loạt sự kiện gia súc chết và được chuyên gia kiểm tra xác minh, nguyên nhân
chính lại vì nông dân chăn nuôi không đúng cách, chuồng trại không đủ tiêu chuẩn và
thức ăn không đảm bảo chất lượng, song Công ty vẫn phải bồi thường cho nông dân
theo đúng hợp đồng. Sau đó, nhận thấy rủi ro từ hoạt động kinh doanh và rút kinh
nghiệm từ Bảo Việt, Groupama quy định chặt chẽ với sản phẩm được BH: vật nuôi
phải được tiêm phòng đầy đủ, quy mô đàn đối với lợn là 5 con, bò là 3 con trở lên và từ
chối BH những rủi ro mang tính thảm hoạ như thiên tai, dịch bệnh. Sau gần 5 năm triển
khai tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Groupama ký được 2.000 hợp đồng
BHNN. Nhưng sau đó, nhiều hộ nuôi thuỷ sản khiếu nại Groupama không bồi thường
cho nông dân theo đúng cam kết trong hợp đồng. Theo bà Nguyễn Thị Như Loan
(quyền Tổng giám đốc Groupama), lý do DN từ chối bồi thường vì nhận thấy các chủ
hộ khai báo không đúng sự thật về tính chất, nguyên nhân, hoàn cảnh, hậu quả của tổn
thất. Nông dân mất lòng tin, Groupama cũng mất dần khách hàng.
Groupama cũng thử nghiệm cung cấp dịch vụ BH đối với hoạt động ngư nghiệp, chủ
yếu là nuôi tôm. Tuy nhiên, sau thiệt hại nặng nề do một cơn bão gây ra, công ty đã
chấm dứt cung cấp dịch vụ này.
41
41
Bảo Việt
10.27%
124.83%
71.56% 78.35%
20.68%
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
100.00%
120.00%
140.00%
2004 2005 2006 2007 2008
Tỷ lệ bồi thường
Groupama
192.86%
4426.67%
85.93% 27.30% 29.26%0.00%
1000.00%
2000.00%
3000.00%
4000.00%
500 .00%
2004 2005 2006 2007 2008
Tỷ lệ bồi thường
Hình 3: Tỷ lệ bồi thường của Bảo Việt và Groupama (2004-2008)
Từ sau thất bại của Bảo Việt và Groupama, ít có một hãng BH nào dám dấn thân vào
TT này.
2.1.3 Tổng công ty cổ phần Bảo Minh
Bảo Minh triển khai BH tín dụng khoản vay phục vụ sản xuất nông nghiệp theo chỉ số
thời tiết ở Đồng Tháp. Theo đó, Bảo Minh sẽ đứng ra BH cho người nông dân trong
trường hợp họ muốn vay vốn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp từ ngân hàng. Tuy
nhiên do mức phí tương đối cao ( khoảng 15% giá trị khoản vay vốn ) nên phía ngân
hàng lẫn người nông dân cũng không mặn mà lắm. Hoạt động này đến nay cũng chưa
phát triển mạnh.
2.1.4 Công ty cổ phần BH Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam
Công ty cổ phần BH ABIC được phép triển khai BHNN nhưng đến nay chưa triển khai
về nghiệp vụ này. Tuy nhiên trong thời gian qua, Ngân hàng Agribank cũng có nhiều
hỗ trợ cho người nông dân trong vấn đề vay vốn để mở rộng sản xuất, tăng năng suất
42
42
cây trồng vật nuôi từng bước nâng cao đời sống theo hướng bền vững. Hiện nay trong
12 triệu dân nông dân trên toàn quốc thì có 10 triệu nông dân đang có mối quan hệ tín
dụng với Agribank. Tính đến cuối năm 2007, dư nợ cho vay hộ nông dân đạt 134.377
tỷ đồng, chiếm 55,55% tổng dư nợ, tính chung khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm
70,8% tổng dư nợ.
Tuy nhiên, do tính rủi ro cao trong hoạt động nông nghiệp gây ra bởi thiên tai, dịch
bệnh… mà người nông dân gặp nhiều khó khăn trong than toán các khoản vốn vay cho
ngân hàng. Tính trong năm 2006, nợ xấu của các đối tượng hộ nông dân và cá nhân là
3.092.473 tỷ đồng. Tổng số dư nợ xấu trong các năm từ năm 2002 đến năm 2006 là
8.428.142 tỷ đồng.
Bảng 4: Số liệu thống kê về cơ cấu nợ xấu tính theo nguyên nhân hộ sản xuất và
cá nhân năm 2002-2006
Đơn vị : triệu đồng
STT Năm
Tổng số nợ
xấu
Các nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu
Chết, thương
tật, mất tích
Thiên tai,
dịch bệnh
Chết, ốm đau,
bệnh tật và khác
1 2 (3)= 4+5+6 4 5 6
1 2002 755.540 22.817 492.897 239.826
2 2003 1.222.058 39.593 815.946 366.519
3 2004 1.205.762 45.245 632.105 528.412
4 2005 2.152.309 81.585 1.074.410 996.314
5 2006 3.092.473 82.684 1.794.516 1.215.273
(Nguồn: Ban tín dụng hộ sản xuất và cá nhân – Agribank)
43
43
Agribank dự tính khoảng 40% nợ xấu không có khả năng thu hồi, do vậy hằng năm đều
trích dự phòng nghiệp vụ để bù đắp. Ví dụ năm 2007 đã trích gần 6300 tỷ đồng, trong
đó phần quỹ dự phòng nghiệp vụ hoạt động tín dụng hộ chiếm khoảng 60%.
2.1.5 Tổ chức phi chính phủ GRET (Groupe de Recherche et
d’Échanges Technologiques)
Tổ chức GRET có mặt tại Việt Nam từ năm 1988. Từ đó GRET đã triển khai nhiều
hình thức trợ giúp rất đa dạng trong các lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn,
sức khoẻ cộng đồng và phát triển thể chế. Tổ chức sẽ hỗ trợ chăn nuôi gia súc, đặc biệt
là nuôi lợn, bằng việc kết hợp giữa hệ thống hỗ trợ tài chính, thành lập các tủ thuốc thú
y, giới thiệu những giống mới và bằng các phương pháp đào tạo.
- Tủ thuốc thú y: Những tác động tiêu cực của dịch bệnh và tổn thất trong chăn
nuôi lợn, đặc biệt trong các hộ nghèo, những dịch vụ thú y địa phương kém phát triển
hoặc không tồn tại và thiếu các phương pháp mở rộng chăn nuôi vật nuôi/ lợn đều là
các nguyên nhân chính dẫn tới thành lập tủ thuốc thú y. Nông dân đóng góp một số tiền
nhất định để lập các tủ thuốc dưới sự quản lý chuyên môn của bác sỹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường Bảo hiểm nông nghiệp và một số giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam.pdf