MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương I. Lý luận chung về thị trường bản chất chức năng và vai trò của thị trường 2
1. Bản chất của thị trường 2
2. Chức năng của thị trường 2
3. Vai trò của thị trường 4
Chương II. Cơ cấu, chức năng và đặc điểm của thị trường thuỷ sản 6
I. Cơ cấu, chức năng của thị trường thuỷ sản 6
II. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản 7
1. Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản 8
2. Sự hình thành giá cả theo thời vụ 9
3. Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản 10
4. Thị trường sản phẩm trong nước còn mang tính nhỏ, lẻ 11
Chương III. Thị trường sản phẩm thuỷ sản thực trạng và tiềm năng 12
I. Thị trường nội địa 12
1. Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước 12
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa 18
3. Những tiềm năng của thị trường thuỷ sản nội địa 19
II. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 20
1. Thị trường các nước Châu Á 20
2. Thị trường EU 21
3. Thị trường Mỹ 22
III. Một số nhận xét và đánh giá về thực trạng và tiềm năng 24
1. Khai thác hải sản 24
2. Chế biến và dự trữ 26
3. Tiêu thụ sản phẩm 26
Kết luận 28
Tài liệu tham khảo 29
31 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2673 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản: Thực trạng và tiềm năng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tiêu dùng thủy sản từ hai khía cạnh của quá trình.
Thứ nhất là với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng, người tiêu dùng các lượng sản phẩm thuỷ sản chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông dân sử dụng sản phẩm thuỷ sản thô do mình tự đánh bắt hoặc nuôi trồng lấy nhiều hơn, còn ở thành phố thì người tiêu dùng các sản phẩm đã qua chế biến với số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những người tiêu dùng khác nhau có những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức chất lượng và dịch vụ cung cấp hàng hoá khác nhau.
Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng với sự phát triển cao hơn của nền kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên đối với các dịch vụ làm tăng giá trị của sản phẩm thuỷ sản. Kết quả là trong cơ cấu giá mua hàng thuỷ sản của người tiêu dùng, phần trả cho cho các dịch vụ có chiều hướng tăng lên, còn trả cho sản phẩm thô, sơ chế có chiều hướng giảm xuống. Cùng với sự phát triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ tăng lên. Độ cận biên thị trường giữa giá bán lẻ và giá tại các cơ sơ đánh bắt ( ngư trường, trang trại nuôi cá, hộ gia đình...) là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng cho người tiêu dùng cuối cùng và giá mà người sản xuất thuỷ sản nhận được khi bán sản phẩm thuỷ sản sơ chế.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến và nhu cầu đối với một loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến gọi là nhu cầu phái sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp cả sản phẩm thuỷ sản thô và dịch vụ. Đường cầu này được tạo ra khi đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về các dịch vụ. Tương tự như vậy, đường cung phái sinh cũng được tạo ra khi đem các giá trị trên đường cung ban đầu cộng với các giá trị về các dịch vụ mà người tiêu dùng yêu cầu đối với người sản xuất. Giao điểm của các đường cung và cầu này sẽ tạo nên giá cả của sản phẩm thuỷ sản trên thị trường.
Khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống thị trường tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm...thì ở đây độ cận biên thị trường phản ánh mức chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho người tiêu dùng. Mức độ và các loại chi phí cho sự “ chuẩn bị “ này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường
Muốn phân tích đầy đủ và cụ thể ta phải đi xét hai trường hợp cụ thể đó là:
Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi ( trong thời gian ngắn) và trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi ( xét trong khoảng thời gian dài).
Sự hình thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một ngành sản xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó tình thời vụ khá cao là nét đặc trưng nhất. Tình thời vụ của sản xuất thuỷ sản thể hiện rõ ở sự biến động của giá cả thị trường theo thời vụ, đặc biệt là tính không ổn định của giá cả thị trường đầu ra. ở đây, việc phân tích thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản tập trung vào sự hình thành giá cả thị trường theo thời gian.
Do đặc của ngành thuỷ sản, việc sản xuất kinh doanh phải dựa trên các qui luật sinh học động thực vật thuỷ sinh nên tính mùa vụ của ngành thuỷ sản là khá cao. Vào đúng mùa vụ, người sản xuất cung ứng sản phẩm theo nhu cầu của người tiêu dùng và do đó giá cả được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu. Nhưng vào lúc trái vụ, trong khi nhu cầu của người tiêu dùng là không thay đổi thì người sản xuất lại không có sản phẩm để bán hoặc do chi phí để dự trữ sản phẩm thuỷ sản là quá lớn làm cho giá cả của sản phẩm trên thị trường tăng lên, và ta dễ dàng nhận thấy là mức tăng lên của giá phải lớn hơn chi phí mà người cung ứng bỏ ra để dự trữ sản phẩm( ở đây ta phải hiểu là sản phẩm thuỷ sản rất khó dự trữ vì đặc tính mau ươn, chóng hỏng của nó..)
Qua những phân tích trên ta thấy rằng tính mùa vụ trong sản xuất thuỷ sản đã làm cho giá cả của sản phẩm thuỷ sản thay đổi rất lớn theo thời gian. Người sản xuất, cung ứng sản phẩm cần nắm rõ đặc điểm này để có chiến lược kinh doanh phù hợp sao cho mức lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của mình là lớn nhất.
Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản.
Trên thị trường thuỷ sản ta thấy thường chỉ tồn tại dạng độc quyền nhất thời. Tính chất độc quyền này do trình độ sản xuất của ngành thuỷ sản chưa cao mang lại,thêm vào đó ngành thuỷ sản lại là ngành sản xuất phân tán ở nhiều vùng trên cả nước dẫn tới tình trạng độc quyền nhất thời là không tránh khỏi.
Ta hiểu, độc quyền nhất thời trên thị trường thuỷ sản như sau: Với một hệ thống các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố ở khắp nơi trên cả nước, trong khi đó trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng cón thấp dẫn tới trang thiết bị vận chuyển, cơ sở chế biến còn thiếu thốn lạc hậu, cả một vùng rộng lớn sản xuất và đánh bắt mới có một cơ sở mua gom, chế biến. Điều này dẫn tới sự độc quyền trong mua gom sản phẩm và phân phối các sản phẩm chế biến của các cơ sơ nói trên. Tuy nhiên, đây chỉ là tình trạng độc quyền nhất thời, khi trình độ phát triển của nền kinh tế cao hơn, sự trang bị cho ngành thuỷ sản hiện đại hơn, trình độ sản xuất, đánh bắt cũng như chế biến của ngành thuỷ sản ở mức độ hiện đại hơn, các cơ sở mua gom được xây dựng nhiều hơn thì tình trạng độc quyền này sẽ mất đi và như vậy việc ép giá của người mua với người sản xuất, nuôi trồng sẽ không còn nữa, tiến tới một thị trường cạnh tranh hoàn hoả cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam.
Thị trường sản phẩm trong nước còn mang tính nhỏ, lẻ.
Với vị thế của hệ thống bờ biển và sông ngòi, ao hồ của Việt Nam dẫn tới các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố rộng khắp trên cả nước. Trình độ phát triển của ngành thuỷ sản chưa cao làm cho hệ thống thị trường sản phẩm thuỷ sản cũng phân bố rộng khắp trên cả nước với tính chất là nhỏ và lẻ. Ở trong nước, sản phẩm thuỷ sản được bán chủ yếu tại các chợ ở các địa phương với quy mô không lớn. Các khu chế biến cung ứng sản phẩm thuỷ sản lớn chưa được hình thành hoặc đang manh nha, không đáng kể. Do vậy, hình thành nên một mạng lưới hệ thống thị trường nhỏ và lẻ phân bố rộng trên các vùng trong cả nước.
CHƯƠNG III
THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM THUỶ SẢN
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG
I- THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.
1- Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước.
Trong một vài năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển rất mạnh vươn lên là một ngành lớn trong hệ thống kinh tế của cả nước. Năm 2000,tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản đạt 1.4 tỷ USD chiếm tỷ trọng gần 10% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đến năm 2003,ngành thuỷ sản quyết tâm đạt chỉ tiêu 2.3 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản. Tuy vậy, có một thực trạng đặt ra là ngành thuỷ sản đã quá chú trọng tới xuất khẩu, trong khi đó theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia của FAO tiến hành tại Việt Nam từ cuối 2001 đến nay, thông qua 85 cuộc phỏng vấn và 2000 cuộc điều tra mẫu với các đối tượng người tiêu dùng khác nhau ở 12 tỉnh, thành của cả ba miền thì có tới 70% lượng thuỷ sản hàng năm được tiêu thụ tại thị trường nội địa. Như vậy, có thể khẳng định thị trường trong nước cho sản phẩm thuỷ sản là rất lớn, cần được chú trọng phát triển.
Vì là nghiên cứu nhấn mạnh vào thị trường trong nước nên người ta đặc biệt quan tâm đến các vấn đề vốn dĩ còn yếu kém của Việt Nam như cách tiếp cận thị trường ở ngay tại vùng nuôi, cảng cá cũng như nhu cầu và tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản ở cấp độ người tiêu dùng liên quan đến các hoạt động của người bán sỉ, lẻ và các cơ sở chế biến. Tính đến năm 2002, tổng số dân cả nước khoảng 80 triệu(17 triệu hộ gia đình), trong đó có khoảng 62.315 triệu người ( chiếm 77%) đang sống ở vùng nông thôn, cho thấy phần lớn người tiêu dùng trong nước hiện đang sống ở vùng nông thôn. Về mặt dân tộc, tôn giáo không thấy có rào cản hoặc hạn chế nào đối với người tiêu thụ thuỷ sản vì phần lớn dân cư thuộc dân tộc Kinh và theo đạo Phật hoặc các tôn giáo khác. Tất cả những khía cạnh này tạo ra cơ sở có lợi cho tiêu thụ thuỷ sản trong người tiêu dùng nội địa dựa vào nghề nghiệp và thu nhập của người dân, đặc biệt là phải ưu tiên cho chiến lược phát triển thị trường vào người tiêu dùng ở đô thị và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ.
Xét về hành vi tiêu thụ thuỷ sản của người tiêu dùng dựa vào thói quen ăn uống thì hộ gia đình được coi là đơn vị tiêu dùng cơ bản, hầu hết các thành viên trong gia đình ăn tại nhà(95% thành viên có mặt trong bữa tối) do đó thường thấy hành vi tiêu thụ thuỷ sản trong mô hình tiêu thụ hộ gia đình. Ngoài ra có tới 34.4% số người ăn ở các hàng ăn bình dân. Từ đấy cho thấy rằng, sản phẩm thuỷ sản được chấp nhận rộng rãi trong người tiêu dùng. Có tới 79.7% số người rất thích ăn cá và không có sự khác biệt về vùng, miền nơi họ đang sống, chỉ có một số rất ít nói rằng họ không thích.
Vậy mô hình tiêu thụ thuỷ sản nào là phù hợp với người tiêu dùng trong nước? Về tần suất mua hàng, trong một gia đình người phụ nữ thường đảm trách vai trò này ( 83.8%). Cứ hai ngày người ta đi mua thuỷ sản một lần, mỗi lần mua khoảng chừng 1kg, ở thành thị người tiêu dùng sẵn sàng bỏ trung bình 20 ngàn đồng/lần còn ở khu vực cận đô thị và nông thôn các con số tương ứng là 15 và 10 ngàn đồng/lần. Nói tóm lại, hiện nay mức tiêu dùng thuỷ sản đủ lớn trong các hộ gia đình, tuy nhiên có hạn chế là đa số thuỷ sản tiêu dùng có trọng lượng dưới 1 kg.
Nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản trong nước là lớn như vậy, song phần lớn là chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ, nếu biết khai thác tiềm năng về thị trường trong nước sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Ở nông thôn, ngoài sản phẩm thuỷ sản do người nông dân tự đánh bắt được qua hệ thống sông ngòi , ao hồ tự nhiên thì nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản ngon cũng khá lớn nhất là trong điều kiện hiện nay, do việc đánh bắt bừa bãi, không khoa học đã làm cho lượng cá, tôm ở các dòng sông lâm vào tình trạng cạn kiệt.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha trộn tính ôn đới. Đặc điểm này tạo cho ngành thuỷ sản một số thuận lợi đó là: sự phong phú về giống loài sản phẩm dẫn tới sự đa dạng trong các mặt hàng thuỷ sản đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu; việc nuôi trồng thuỷ sản diễn ra quanh năm làm cho thị trường thuỷ sản luôn phong phú.
Một số loại sản phẩm thuỷ sản nội đồng được ưa chuộng trên thị trường như:
- Đối với vùng nông thôn: cá mè, cá chép, cá bống, cá trắm cỏ, trắm đen,trê, rô phi, tôm đồng, trôi ấn độ....
- Đối với vùng thành phố và đô thị thì những sản phẩm được tiêu dùng chủ yếu là: Cá ba sa, trê lai, trắm cỏ, tôm rảo, chim trắng, chim hồng, cá nục, cá đối, mực, cua, ram.....
Để thấy được sự đa dạng của thị trường thuỷ sản trong nước ta tìm hiểu một vài thị trường cá chủ yếu ở các, vùng, miền trong cả nước:
a- Thị trường miền Bắc
Ở miền Bắc, thị trường cá chủ yếu là ở các chợ, đối với vùng nông thôn thì chợ cá có quy mô nhỏ, vừa. Sản phẩm chủ yếu là các loài cá nội đồng, tôm, sản phẩm biển không nhiều. Một vài con số thống kê cho thấy thị trường tôm ở miền Bắc ( gồm 8 tỉnh như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) trong mấy năm gần đây phát triển khá nhanh:
Năm 1998 nuôi tôm trên diện tích 6153 ha cho 838 tấn, năm 1999: 9155 ha cho 1612 tấn, năm 2000: 14305 ha cho 3090 tấn. Đến năm 2002 trở lại đây, mô hình nuôi tôm công nghiệp( thâm canh), bán thâm canh với năng suất cao đã phát triển ở các tỉnh Quảng Ninh, Thái Bình,...đã làm cho thị trường tôm được mở rộng và phong phú hơn. Khối lượng tôm cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước tăng nhanh đáng kể: năm 2002, sản lượng tôm sú của 8 tỉnh miền Bắc đã đạt 12805 tấn cao gấp 3 lần sản lượng tôm năm 2000 với đà phát triển trên, năm nay Bộ Thuỷ sản dự kiến sẽ phấn đấu tổ chức nuôi đạt sản lượng 15000 tấn và kết quả này sẽ được tổng kết vào cuối năm nay.
Riêng đối với sản phẩm cá ba sa, sau thất bại tại thị trường Mỹ Agifish đã quyết định mở rộng, tìm kiếm thị trường ở ngoài Bắc cho sản phẩm này và đã chọn Công ty TNHH Thái Bình An Giang-một đối tác có bề dày về tiêu thụ sản hàng thuỷ sản làm tổng đại lý phân phối độc quyền cá ba sa tại khu vực phía Bắc. Thành lập từ tháng 12/2002 (trụ sở tại 345 phố Vọng-Hà Nội), đến nay Thái Bình An Giang đã có 42 đại lý phân phối sản phẩm từ Nghệ An, Thanh Hoá đến Quảng Ninh, Lạng Sơn,... Các mặt hàng mang thương hiệu Agifish rất đa dạng và phong phú, với danh mục dài hơn 50 món, gồm 4 nhóm sản phẩm chính: khai vị, làm sẵn, khô, sơ chế như lạp xưởng cá ba sa, bánh phồng, khô cá, chà bông, kho tộ, ốc biêu nhồi ba sa hoành thánh, cải cuộn ba sa... Các bà mẹ biết đến bởi nó có giá trị dinh dưỡng rất cao đặc biệt là thành phần DHA, ômêga3 giúp tăng cường trí não, chống lão hoá. Đa số khách hàng đều cho rằng, các món ăn cá ba sa của Agifish đa dạng hấp dẫn, tiện dụng cho nhu cầu người tiêu dùng trong thời đại công nghiệp.
Những sản phẩm được người tiêu dùng Hà Nội mua nhiều nhất là cá kho tộ, philê đông lạnh, chả quế, canh chua ba sa.
Khảo sát thực tế ở một số đại lý phân phối tại Hà Nội cho thấy tình hình kinh doanh của công ty nói chung tại các đại lý nói riêng là rất khả quan. Doanh thu tại một số đại lý là 25-30 triệu đồng/tháng, siêu thị 45 triệu đồng/tháng. Đa số người dân Hà Nội đã bắt đầu quen với tên tuổi loại thực phẩm này. Trước đây, Thanh Trì là địa bàn thường xuyên trung chuyển cá tươi cho người dân trong thành phố, cá nhiều, giá lại rẻ nhưng khi sản phẩm của Agifish xuất hiện trên thị trường, người dân nơi đây đã và thường xuyên dùng cá ba sa cho bữa ăn hàng ngày. Hiện nay, Thái Bình An Giang đã có một số mạng lưới phát triển thị trường vững mạnh tại một số tỉnh, tạo tiền đề để thương hiệu Agifish thâm nhập đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong mọi thành phần dân cư. Mở rộng thị trường, mở rộng mạng lưới kinh doanh, đặc biệt tại một số tỉnh, nhằm đưa sản phẩm cá ba sa đến được với mọi người dân một cách nhanh, hiệu quả, chất lượng và chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường nội địa là tham vọng của Thái Bình An Giang nói riêng và của người sản xuất thuỷ sản nói chung.
b- Thị trường miền Trung.
Đối với miền Trung, do điều kiện địa lý tạo nên cho vùng một lợi thế
lớn để phát triển thuỷ sản dẫn tới các thị trường thuỷ sản rất đa dạng. Việc đánh bắt hải sản ngoài biển khơi phát triển hơn các vùng khác. Các chợ cá miền trung thường sôi động và mang nhiều nét riêng. Trước hết, đó chủ yếu là những chợ bán buôn, là nơi trung chuyển sản phẩm đánh bắt, nuôi trồng từ những ngư dân qua tay các chủ nậu vựa, người mua buôn. Phải qua một vài bàn tay nữa sản phẩm mới đến được với tay người tiêu dùng. Thứ hai, các chợ này đều hoạt động từ nửa đêm đến sáng. Ví dụ như tại cảng cá Thuận Phước-cảng cá lớn nhất của Đà Nẵng- là một trong những cảng cá được xây dựng trong dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá mới đưa vào sử dụng.
Cập cảng Thuận Phước ngoài tàu thuyền bản địa còn là nơi tập trung nguồn nguyên liệu từ các nơi khác đến cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Thời gian hoạt động chính của cảng từ 2 giờ đến 11 giờ, cao điểm từ 3 đến 7 giờ. Tuỳ thuộc vào lượng cá đưa về từng ngày, trung bình có 1000-2000 người tham gia vào các hoạt động buôn bán ở đây. Cảng có Ban quản lý và những đơn vị phục vụ như: đội bảo vệ, đội thu phí, đội vệ sinh môi trường, tổ dịch vụ điện nước, văn phòng giao dịch. Ngoài ra còn tổ giữ hàng, người gánh thuê, tổ cho thuê bạt thuê cân, đội xuồng vận chuyển nhỏ. Nghĩa là moị nhu cầu dịch vụ đều được đáp ứng.
Các chủ nậu có vai trò rất quan trọng. Họ là những người cung ứng nhu yếu phẩm, nhiên liệu cho tầu cá, đồng thời cũng là người tiếp nhận hàng từ các tàu thuyền cập cảng giao cho người buôn, chịu trách nhiệm thu tiền giao cho các chủ thuyền. Họ thường là người địa phương, có nhiều kinh nghiệm, manh mối trong làm ăn, gồm khoảng 20 đến 30 người. Người buôn được phân làm hai loại, những người buôn với số lượng lớn tập trung để xuất khẩu và những người mua với lượng nhỏ hơn để tiêu thụ tại địa phương. Quang cảnh của chợ cá Thuận Phước càng về sáng càng sôi động.
Tại miền Trung, tuy nghề thuỷ sản phát triển từ khá sớm, rất đông các hộ tham gia làm thuỷ sản nhưng ngoài cảng Thuận Phước của Đà Nẵng là khá lớn thì các chợ cá khác chỉ vừa và nhỏ như cảng cá Cù Lao-Nha Trang. Tại đây, lượng hàng nhập rất thưa thớt, một vài năm gần đây tàu không đưa cá về cảng nữa do diện tích cảng chật hẹp, không có đủ các cơ sở dịch vụ hậu cần và những tư thương tại đây mua sản phẩm với giá không cao. Hiện nay, Nha Trang đang bắt tay vào để xây dựng một cảng mới-cảng Hòn Rớ với hy vọng thị trường sản phẩm thuỷ sản ở đây phát triển hơn. Giá cá và hàng thuỷ sản khác thường xuyên giao động nhưng ở mức độ không lớn. Tuỳ theo lượng hàng về bến hay nhu cầu tiêu thụ mà sản phẩm có giá khác nhau, nhưng được chia làm hai nhóm rõ rệt: nhóm sản phẩm cao cấp có giá trị rất cao chỉ dành cho xuất khẩu và một số ít được đưa vào các nhà hàng, chẳng hạn như cá mú 70000 đồng/kg, ngừ đại dương 72000 đồng/kg, mực ống 70000 đồng/kg...nhóm còn lại có giá trị phải chăng, phù hợp với tiêu thụ nội địa như cá dũa 7000 đồng/kg, cá thu 22000 đồng/kg.
c- Thị trường miền Nam.
Thị trường miền Nam, đây là một thị trường hết sức đa dạng và phong phú, có thể nói là thị trường rộng và lớn nhất trong cả nước. Với lợi thế tự nhiên nhiều ao hồ, cộng với một hệ thống sông ngòi dày đặc, miền Nam là một nơi lý tưởng để nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển. Trước đây, trong những năm tháng chiến tranh, khi mà nền kinh tế nước nhà còn nghèo nàn, lạc hậu, người dân đồng bằng Nam bộ đã coi nghề đánh bắt cá là nghề nuôi sống họ qua những năm tháng đói khổ. Giờ đây, khi đất nước đang trên đà phát triển, người dân đồng bằng sông Cửu Long đã biết tận dụng những lợi thế do thiên nhiên ưu đãi để phát triển nghề cá một cách khá thành công, điều đó được minh chứng qua sự sôi động của thị trường thuỷ sản. Các sản phẩm thuỷ sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng và phong phú bao gồm tất cả các loại cá, tôm nội đồng và hải sản biển như: cá trê lai, cá quả, cá rô phi, cá tra, cá ba sa, tôm nội đồng và tôm biển, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long có nghề nuôi cá lồng, bè rất phát triển cung cấp rất nhiều sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và nước ngoài.
Một số thị trường sản phẩm thuỷ sản lớn của khu vực phía Nam là: Bạc Liêu, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu....
Ở Bạc Liêu, với diện tích nuôi trồng thuỷ sản lên tới 38000 ha, bờ biển dài 56 km, diện tích các ngư trường rộng hàng chục ngàn km2...Bạc Liêu là một trong những vùng biển có trữ lượng hải sản lớn nhất của cả nước, cung cấp cho thị trường một lượng lớn sản phẩm hải sản các loại, đặc biệt là trong đó có các loại tôm chiếm đến 20% tổng sản lượng khai thác của vùng. Trong hai năm qua ngành thuỷ sản Bạc Liêu đã có tốc độ tăng trưởng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu (khoảng 30%/năm)
Đối với ngành thuỷ sản của Bà Rịa-Vũng Tàu, sản lượng hải sản đánh bắt đạt51.845 tấn, sản lượng nuôi trồng thực hiện được 735 tấn. Nói chung, ngành thuỷ sản của nơi đây khá phát triển, đặc biệt là ngành nuôi trồng, đánh bắt, chế biến xuất khẩu và công tác dịch vụ hậu cần...
Trong năm qua, tuy ngành thuỷ sản của đồng bằng sông Cửu Long có nhiều biến động, nhưng nói chung thị trường của nó vẫn rất sôi động và thu hút đối với nhà đầu tư ngành thuỷ sản, và có thể khẳng định rằng đây vẫn là một thị trường hấp dẫn, mang lại lợi nhuận cao cho những người đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản, trở thành một thành viên trong kênh phân phối của san phẩm thuỷ sản.
2- Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa.
- Thứ nhất: Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên đã ưu đãi, ban tặng cho nước ta những điều kiện tuyệt vời để phát triển ngành sản xuất thuỷ sản, thì đồng thời cũng chính những yếu tố tự nhiên đã làm cho ngành thuỷ sản nước ta gặp không ít những rủi ro do hạn hán, bão, lụt gây nên. Tất cả những điều đó làm cho ngành sản xuất thuỷ sản luôn ở thế bấp bênh dẫn tới thị trường sản phẩm thuỷ sản luôn biến động bất thường, giá cả hàng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên này. Khi thời tiết thuận lợi, người sản xuất nuôi trồng, đánh bắt được nhiều làm cho lượng hàng thuỷ sản cung cấp trên thị trường nhiều hơn, giá cả rẻ hơn. Ngược lại, lúc mất mùa do thiên tai gây nên, lượng cung sản phẩm trên thị trường ít hơn đẩy giá hàng hoá cao lên. Và những biến động do thiên tai gây nên này là khó tránh khỏi đồng thời cũng khó biết trước được. Đây là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn tới sự biến động của thị trường sản phẩm thuỷ sản.
- Thứ hai: Do điều kiện phát triển kinh tế của nước ta chưa cao, trình độ phát triển của ngành thuỷ sản còn ở mức lạc hậu so với thế giới dẫn tới thị trường của sản phẩm thuỷ sản chưa phát triển ở trình độ cao. Những sản phẩm thuỷ sản khi đánh bắt, nuôi trồng với số lượng nhiều nhưng khâu bảo quản, chế biến còn chưa đáp ứng được một cách thoả đáng làm cho hàng thuỷ sản nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và khó tính của người tiêu dùng trong cũng như ngoài nước. Tình trạng công nghệ bảo quản, chế biến, thu gom còn thấp dẫn tới nhiều sản phẩm thuỷ sản sau khi đánh bắt bị hỏng, ôi làm lãng phí một lượng đáng kể, và đây là một nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của thị trường thuỷ sản trong nước.
-Thứ ba: Do những biến động về kinh tế trong khu vực và trên thế giới làm cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới khó tiêu thụ và điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động của thị trường thuỷ sản trong nước. Sản phẩm hàng hoá không xuất khẩu được dẫn tới lượng tạm trữ trong nước cũng như lượng hàng cung cấp cho thị trường trong nước tăng lên, giá sản phẩm rẻ, gây nên những biến động không nhỏ trên thị trường.
- Thứ tư: Một vài năm gần đây, để tạo điều kiện cho ngành sản xuất thuỷ sản Nhà nước ta đã cho phép ngành thuỷ sản tự tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm đồng thời tự trang trải kinh phí để phát triển do đó đã làm cho thị trường sản phẩm của thuỷ sản được mở rộng và có những bước phát triển đáng kể.
Đó là một vài nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động và phát triển của thị trường thuỷ sản nội địa của nước ta.
3- Những tiềm năng của thị trường thuỷ sản nội địa.
Khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản đã được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam trong thế kỷ 21. Và phải khẳng định rằng, thời gian qua, chúng ta đã làm được không ít tiền đề quan trọng trong việc tạo lực bẩy, khơi thông luồng ra, phát triển năng suất và phát huy hiệu quả kinh tế của ngành. Tuy nhiên, để nâng ngành thuỷ sản lên tương xứng với tầm vóc của nó, chúng ta đang rất cần có những chiến lược lâu dài và sự phối hợp đồng bộ của nhiều ban ngành khác nhau đặc biệt là việc khơi thông tiềm năng về thị trường đầu ra cho sản phẩm. Ở phạm vi bài này, em xin được nêu một số tiềm năng nội lực cơ bản để phát triển thị trường đầu ra cho sản phẩm hàng hoá như sau;
Trước tiên, về mặt thông tin-tiếp thị thị trường, ngành thuỷ sản đã có nhiều nỗ lực cải thiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, đi vào thực tế, vẫn có nhiều vấn đề khách quan cần phải được nhìn nhận. Cũng như nhiều ngành nghề khác, hiện nay, ngành kinh doanh thuỷ sản đang rất chú trọng tới phát triển thị trường cho sản phẩm đầu ra. Có thể nói thị trường trong nước đối với sản phẩm này đang có rất nhiều tiềm năng lớn: số lượng người tiêu dùng đông đảo, việc tiêu dùng cá trong mỗi bữa ăn của các hộ gia đình đã trở thành một thói quen, phong tục; Việt Nam đang xây dựng và phát triển một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó mọi thông tin thị trường đều được cung cấp một cách tự do và đặc biệt luật cạnh tranh cho ngành thuỷ sản đang còn nhiều thuận lợi...
Bên cạnh vấn đề thông tin- tiếp thị thị trường, một việc quan trọng cũng cần được quan tâm nghiên cứu như là một tiềm năng lớn đó là tăng cường đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến sau đánh bắt để khai thác hết giá trị của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của khách hàng. Không ai có thể phủ nhận trong thời gian qua nước ta đã có nhiều nỗ lực cải tiến trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, thực tế mà nói, những gì phần đông doanh nghiệp trong nước đã và đang có vẫn chưa thể gọi là hiện đại, đủ để đáp ứng yêu cầu gắt gao của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Sản phẩm sản xuất ra chưa được đưa vào chế biến một cách kịp thời, đúng cách dẫn tới chất lượng hàng hoá chưa cao đồng thời cùng không khai thác được hết những giá trị vốn có của sản phẩm tươi sống.. Với điều kiện công nghệ hiện đại như hiện nay, việc áp dụng những thành tựu phù hợp để khai thác giá trị của sản phẩm chế biến đang được coi là một tiềm năng lớn của ngành thuỷ sản của nước ta và nó đang được chú trọng khai thác.
Cuối cùng, đó là việc tận dụng những tiềm năng sẵn có mà thiên nhiên ban tặng cho nước ta để phát triển một ngành thuỷ sản tương xững với tiềm năng sẵn có của Việt Nam.
II- THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.
Thị trường các nước Châu Á
Ngoài việc xuất khẩu sang các nước của khu vực ASEAN ,Đài Loan, Trung Quốc thì hàng thuỷ sản của Việ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLTV1074.doc