Đề tài Thị trường hàng điện tử Việt Nam, thực trạng và giải pháp trong hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I 4

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ 4

I. KHÁI QUÁT VỀ HÀNG ĐIỆN TỬ 4

1. Một số khái niệm cơ bản 4

a. Hàng điện tử 4

b. Ngành công nghiệp điện tử 4

c. Giao dịch hàng điện tử 4

d. Thị trường hàng điện tử 4

2. Nguồn gốc phát triển của ngành công nghiệp điện tử 4

II. CƠ CẤU CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ 6

1. Cơ cấu về thị trường 6

2. Cơ cấu về mặt hàng 8

III. CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG TỚI THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ 11

1. Công nghệ và tốc độ thay đổi công nghệ 11

2. Tâm lý tiêu dùng,thị hiếu thị trường. 14

3. Hệ thống phân phối,dịch vụ 15

4. Chính sách phát triển của Nhà Nước 18

CHƯƠNG II 19

THỰC TRẠNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 19

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM 19

1. Đặc điểm của thị trường 19

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 22

1.Quy mô và tốc độ phát triển 22

III. NHỮNG KẾT LUẬN TỪ NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 26

1.Những mặt tích cực,cơ hội 26

2.Những hạn chế,nguy cơ 27

CHƯƠNG III 31

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 31

I. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG 31

II. GIẢI PHÁP 31

KẾT LUẬN 36

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường hàng điện tử Việt Nam, thực trạng và giải pháp trong hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung Quốc, Ấn Độ là 2 quốc gia đang dẫn đầu trên con đường này. Ngày nay, khi nghĩ đến Trung Quốc, người ta liên tưởng ngay đến việc gia công sản xuất vì giá nhân công ở đó rẻ. Nhưng Trung Quốc đang bắt đầu thực hiện những dịch vụ thiết kế theo dạng “chìa khóa trao tay” thay vì chỉ đơn thuần gia công sản phẩm. Trong khi đó, Ấn Độ lại phát triển về gia công phần mềm. Với đội ngũ nhân viên CNTT có trình độ tiếng Anh cao, cộng thêm sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ, quốc gia này đã trở thành một môi trường kinh doanh rất thân thiện cho các đồng nghiệp ở Mỹ. *Rút ngắn chu kì sống của sản phẩm Thường thì hiện nay,việc nghiên cứu, phát minh ra các công nghệ mới và việc ứng dụng đưa các công nghệ mới này vào sản xuất phục vụ nhu cầu thị trường là khá nhanh và mang tính liên tục,chính vì vậy nó đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với các nhà kinh doanh mặt hàng điện tử. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh những đặc thù riêng của ngành kinh doanh này, chu kì sống sản phẩm ngắn, giá có xu hướng giảm, công nghệ đổi mới liên tục khiến các nhà sản xuất kinh doanh loại mặt hàng này phải điều chỉnh các chính sách từ chính sách sản phẩm,chính sách thị trường,chính sách giá sao cho phù hợp với thị trường và thu được lợi ích lớn nhất. Ví dụ,vào những năm cuối thế kỉ 20 thì những thiết bị nghe điện tử cầm tay vẫn rất hạn chế về tính năng và chủng loại và đặc biệt có giá thành rất cao,những thiết bị điện tử hỗ trợ cá nhân PDA (personal digital assistant) hay máy nghe nhạc chỉ có rất ít loại với giá thành lên đến hàng ngàn $/chiếc, thì hiện nay trên thị trường thế giới có rất nhiều nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm này với giá thành cạnh tranh. Các chủng loại mặt hàng mới ra đời cũng kéo theo những thay đổi trong chiến lược bán hàng của các nhà cung ứng. Nhà cung ứng đóng một vai trò mới trên thị trường đó là làm người hướng dãn tiêu dùng,cách đây 5 năm,khi sản phẩm Ipod đầu tiên của Apple ra đời,trên thị trường chưa hề có loại sản phẩm nào tương tự và nhà sản xuất và phân phối vào cuộc,hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng sản phẩm mới của họ,đến nay thì khái niệm Ipod đã trở nên thông dụng trên toàn cầu. Chiến lược sản phẩm cũng đã thay đổi theo sự bùng nổ của công nghệ,ngày nay các sản phẩm công nghệ không còn quá chú trọng đến độ bền như trước kia nữa,do tốc độ thay thế sản phẩm ngày càng nhanh nên các nhà sản xuất đề nghị những sản phẩm mới với độ bền tương đối nhưng hình thức thiết kế đẹo và đa tính năng tạo điều kiện thuận lơi cho người tiêu dùng thay đổi,lựa chọn. Hay khá gần gũi với với đại bộ phận người dân là chiếc ti vi đã thay đổi đáng kể trong vòng khoảng 20 năm trở lại đây với sự ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất,cho ra đời những chiếc ti vi Plasma,hay LCD,tích hợp thêm nhiều tinh năng nữa như đầu đọc thẻ, tích hợp đầu đọc đĩa. Công nghệ mới mở ra cơ hội kinh doanh với những chủng loại mặt hàng mới và là nguy cơ nghiêm trọng với những mặt hàng theo công nghệ cũ.Các loại ti vi theo công nghệ cũ đang mất dần chỗ đứng trên thị trường,các nhà sản xuất thì thu hẹp sản lượng,tìm cách chuyển dần sang loại mặt hàng cáo cấp hơn,ứng dụng công nghệ mới hơn. Chính sách giá của các nhà sản xuất cũng thay đổi phù hợp theo sự biến đổi của công nghệ,hầu hết các nhà sản xuất khi giới thiệu sản phẩm mới của mình đều đặt chính sách giá hớt phần ngon,nghĩa là đặt mức giá rất cao cho sản phẩm nhằm thu phần lời cao từ những nhóm khách hàng ưa thích công nghệ mới, và sau đó thì họ giảm giá để cạnh tranh khi các công ty khác bắt đầu tung ra những sản phẩm tương tự. Có thể thấy rõ nhất chính sách này củ các công ty sản xuất điện toại di động,mặt hàng có sức tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong vài năm trở lại đây,năm 2007 số lượng điện thoại di động bán ra tăng 12,4% so với 2006 và đạt 1.14 tỷ chiếc. Đây là mặt hàng rất được ưa chuộng và các hãng liên tục đưa ra các mẫu mã mới,công nghệ mới. Mỗi sản sẩm mới đưa ra thị trường trong vòng một năm đầu có thể hạ đến 30-40% giá thành sau khi sản phẩm đã hết “hot” trên thị trường, điều này mở đường cho các sản phẩm tiếp theo ra đời tiếp tục thu lợi nhuận cao cho các nhà sản xuất. Ngoài ra,trong quá trình nghiên cứu phát minh ra các công nghệ mới và đưa chúng vào ứng dụng trong sản xuất các sản phẩm thì các nhà nghiên cứu-sản xuất tiên phong thiết lập nên những chuẩn công nghệ mà những nhà sản xuất đi sau phải tuân thủ. 2. Tâm lý tiêu dùng,thị hiếu thị trường. Đây cũng là nhân tố rất quan trọng đến thị trường hàng điện tử vì các công ty hiện nay khi đưa ra các sản phẩm mới đều nghiên cứu rất kĩ những đặc tính của người tiêu dung nhằm thỏa mãn cao nhất nhu cầu của họ. Bất kì công ty nào,dù là sản xuất hay công ty thương mại muốn tiêu thụ được hàng hóa dịch vụ của mình thì đều phải bám theo thị trường,tức là cung cấp những sản phẩm dịch vụ đúng nhu cầu của khách hàng. Trong ngành hàng kinh doanh mặt hàng điện tử, đặc biệt là nhóm mặt hàng điện tử tiêu dùng thì vấn đề này còn quan trọng gấp bội vì đây là nhóm hàng mà người tiêu dùng có phản ứng khá nhạy cảm.Hiện nay đối người tiêu dùng các mặt hàng điện tử chia ra làm hai trạng thái tâm lý khá khác biệt,tùy theo tưng nước,khu vực. Ở những nước phát triển thì nhu cầu của thị trường là khá cao,các sản phẩm muốn thâm nhập được vào các thị trường này thì ngoài đáp ứng được các tiêu chuẩn nhà nước còn phải đáp ứng đúng nhu cầu của các nhóm khách hàng trong nước.Ở các nước đang phát triển thì nhu cầu đơn giản hơn và các tiêu chuẩn cũng không khắt khe như thị trường các nước phát triển,điều này tạo điều kiện để các nhà sản xuất nhỏ có cơ hội phát triển thị trường. Yếu tố tâm lý tiêu dùng và thị hiếu thị trường cần phải được nghiên cứu kỹ khi quyết định đưa ra sản phẩm,hay tiến hành các chiến dịch marketing, không có một chuẩn sản phẩm hay chuẩn marketing nào cho thị trường toàn cầu vì mỗi thị trường có tập quán tiêu dùng (văn hóa tiêu dùng) khác nhau. Lấy ví dụ như Nokia,một hãng sản xuất điện thoại di động nổi tiếng,chiếm gần 40% lượng máy bán ra trên toàn thế giới nhưng tại thị trường Bắc Mỹ thì họ chỉ chiếm phần nhỏ do không đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường này. Các nhà sản xuất điện tử tiêu dùng của Trung Quốc là một trong những ví dụ thành công về việc nghiên cứu thị hiếu,nhu cầu thị trường,các sản phẩm điện tử tiêu dùng giá thành thấp của họ đã dễ dàng xâm nhập thị trường các nước đang phát triển do đánh đúng vào tâm lý thích sử dụng hàng giá rẻ của đại bộ phận người dân các nước này. Tuy vậy,khi phát triển đến một mức nhất định,có đủ tiềm lực để phát triển thì ngành công nghiệp điện tử của Trung Quốc đang chuyển dần sang các mặt hàng cao cấp hơn,có thể mang lại lợi nhuận cao hơn,nhưng họ luôn chú trọng đến gắn kết sản xuất với nhu cầu thị trường nhằm gặt hái thành công. 3. Hệ thống phân phối,dịch vụ Trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay,vai trò của hệ thống phân phối đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ quảng bá,khuyêch trương thương hiệu hàng hóa. Đặc biệt là với loại mặt hàng điện tử-loại mặt hàng khá phức tạp,có những đặc tính kĩ thuật nên cần sự hỗ trợ của hệ thống bán hàng,hệ thống dịch vụ sau bán hàng như hậu mãi,lắp đặt,bảo hành. Hiện nay,đa số các nhà sản xuất nhường lại việc phân phối hàng hóa cho các nhà phân phối chuyên nghiệp,để có thể tập trung vào sản xuất,tuy nhiên,quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối là hết sức chặt chẽ có ảnh hưởng qua lại và là sự quyết định đến sự thành công của sản phẩm trên thị trường. vẫn có những trường hơp mà các nhà sản xuất hàng điện tử tự mình tổ chức các hệ thống phân phối sản phẩm riêng của mình,nhưng là số ít,và phải là những thương hiệu lớn,có tên tuổi then thị trường. Việc lựa chọn nhà phân phối chính xác sẽ giúp sản phẩm dễ dàng chiếm lĩnh thị trường,mở rộng thương hiệu,tuy nhiên đây là một việc hết sức khó khăn,thường thì các nhà sản xuất sẽ lựa chọn ở mỗi quốc gia một nhà phân phối chính thức để đảm bảo sự nhất quán về các chính sách marketing,hệ thống phân phối sẵn có,có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường nội địa,có thể dễ dàng đưa sản phẩm mới đến tay người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ là nhân tố cuối cùng của hệ thống phân phối,tiếp xúc trực tiếp với người mua nên cần thường được chú trọng đầu tư với đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp,đặc biệt am hiểu về loại hàng hóa của mình bán ra,điều này sẽ dễ dàng chiếm được long tin của khách hàng,thúc đẩy quá trình quyết định mua hàng của khách hàng diễn ra nhanh hơn. Đối với từng loại sản phẩm thì nhà sản xuất và nhà phân phối thực hiên các chiến lược marketing khác nhau,với các sản phẩm điện tử tiêu dùng,thì áp dụng các hình thức quảng cáo qua các phương tiện thông tin đại chúng: truyền hình,báo chí,quảng cáo ngoài trời… Đối với những loại hàng hóa cao cấp,đặc chủng như: các thiết bị sản xuất, hệ thống thông tin liên lạc,các loại máy chủ… thì hình thức bán hàng cá nhân sẽ được áp dung. Ngoài ra,việc hình thành các hệ thống bán hàng,với các chuỗi cửa hàng điện tử chuyên dụng tiện lợi bán nhiều loại mặt hàng với nhiều dải chọn lựa cũng là biểu hiện của sự chuyên nghiệp dần của quá trình phân phối. Một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định mua hàng của khách hàng chính là chính sách bảo hành của nhà sản xuất,loại hình hàng điện tử là loại sản phẩm cao cấp có nhiều tính năng khá phức tạp,khách hàng thường lo sợ có sự cố,trục trặn xảy ra và luôn quan tâm đến chế độ hậu mãi,bảo hành của doanh nghiệp. Có thể nói,một laoij sản phẩm điện tử không thể tiêu thụ được nếu như không có chính sách bảo hành hợp lý. Hiện tại trên thị trường hàng điện tử thế giới có 2 phương thức bảo hành chính là: + Phương thức thứ nhất: nhà sản xuất tự duy trì hệ thống bảo hành tại các thị trường,như vậy khách hàng sẽ yên tâm khi mua hàng vì hàng hóa của mình sẽ được bảo hành bởi chính nhà sản xuất,tạo dựng thương hiệu.. nhưng điểm bất lợi là nhà sản xuất không tập trung nguồn lực vào sản xuất,và tại mỗi thị trường phải có chi nhánh chuyên bảo hành,việc quản lý sẽ thêm khó khăn,chỉ những tập đoàn cực lớn mới có thể thực hiện được. Hiện tại thì HP là tập đoàn đang thực hiện chế độ bảo hành này với chế độ bảo hành toàn cầu,đây chính là một công cụ cạnh tranh rất mạnh của HP mà không phải nhà sản xuất nào cũng có thể dễ dang có được + Phương thức thứ hai: đây là phương thức được áp dụng phổ biến,các nhà phân phối sẽ là người phụ trách bảo hành cho sản phẩm,nhà sản xuất sẽ trích số phần trăm nhất định cho hệ thống bảo hành của nhà phân phối để tiến hành công việc bảo hành sản phẩm cho khách hàng. Ưu điểm của phương pháp này là các nhà sản xuất có thể tập trung vào sản xuất,không phải phân tán nguồn lực cho hệ thống bảo hành nhưng đòi hỏi nhà phân phối phải có nguồn nhân lực có trình độ,đủ đảm đương trách nhiệm với khách hàng, nhược điểm chính là nếu trình độ của nhà phân phối yếu kém thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới thương hiêu hàng hóa và của nhà sản xuất vì vậy sẽ vẫn phải có sự hỗ trợ kỹ thuật,giám sát đánh giá của nhà sản xuất về chất lượng dịch vụ bảo hành và phản hồi từ phía khách hàng. 4. Chính sách phát triển của Nhà Nước Chính sách của Nhà nước về phát triển ngành hàng điện tử là nhân tố có ảnh hưởng tươn đối quan trọng với các nhà sản xuất và xuất nhập khẩu loại hình mặt hàng này. Nó ảnh hưởng đến môi trường pháp luật và sự hỗ trợ của nhà nước tới các dự án đầu tư, thuế,nguồn cung nhân lực,thị trường…Trong đó anh hưởng to lớn nhất đối với nhà sản xuất và cả hệ thông phân phối là chính sách thương mại của Nhà Nước có khuyến khích phát triển ngành hàng điện tử hay không,chính sách mở của thị trường. Nếu Nhà nước coi ngành công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp chủ chốt thì sẽ có rất nhiều thuận lợi đối với các nhà đầu tư và hệ thống phân phối vì,các điều kiện phục vụ sản xuất sẽ được đáp ứng đầy đủ,đặc biệt là về nguồn nhân lực chất lượng cao,trong những năm đầu thường thì các dự án đầu tư sẽ được hưởng ưu đãi vê thuế,đây là một thuận lợi không nhỏ với các nhà đầu tư,các chính sách ưu đãi sẽ thu hút các nhà đầu tư rót vốn vào thị trường và giúp phát triển nền kinh tế,đưa đất nước phát triển đi lên. Chính sách phát triển ngành công nghiệp điện tử sẽ định hướng phát triển của cả ngành,những dự án đi theo định hướng này sẽ gặp thuận lợi hơn. Ngoài chính sách về phát triển ngành công nghiệp điện tử ra thì còn có nhưng chính sách khác như chính sách chung về thương mại,chính sách đầu tư… CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM 1. Đặc điểm của thị trường Do đang ở giai đoạn phát triển ban đầu nên thị trường hàng điện tử Việt Nam mang đầy đủ những đặc điểm thụ động của một nền sản xuất nhận chuyển giao công nghệ. Hiện tại các nhà sản xuất nội địa chưa thể sáng tạo phát minh công nghệ mà mới chỉ gia công các sản phẩm mà thôi,các nhà máy sản xuất các thiết bị,linh kiên điện tử hiện đại vơi công nghệ hàng đầu đã có mặt tại Việt Nam tuy nhiên đều là các nhà sản xuất nước ngoài. Về tốc độ phát triển của thị trường,trong những năm gần đây,Việt Nam đã tham gia hội nhập kinh tế quốc tế mà đỉnh cao là gia nhập tổ chức thương mại thế giới-WTO,giao lưu buôn bán hàng hóa với các nước trên thế giới tăng mạnh,mặt hàng điện tử không phải là ngoại lệ,vì vậy người dân có cơ hội tiếp xúc,tiêu dùng các mặt hàng này ngày càng nhiều. Với việc hàng điện tử ngày càng giảm giá ,mức giá hàng nhập khẩu trong nước không cao hơn nhiều so với hàng nước ngoài do có sự cạnh tranh và đời sống nhân dân tăng cao đã khiến sức tiêu thụ tăng mạnh. Tổng giá trị thị trường bán lẻ hàng điện tử-CNTT năm 2007 ước tính đạt 3,1 tỷ đô-la Mỹ, tăng 29,2% so với cùng kỳ năm ngoái và cao hơn mức dự đoán của GfK là 3 tỷ đô-la. Đặc biệt, nếu tính đến cả yếu tố giảm giá của sản phẩm thì thị trường tăng trưởng còn nhanh hơn. Điều này diễn ra là nhờ giá nhiều nhóm hàng này trong những năm qua đã liên tục giảm, mở rộng cơ hội tiêu dùng đồng thời thúc đẩy thị trường phát triển nhanh hơn. Gần 17 triệu sản phẩm ước tính được tiêu thụ trong năm nay so với năm trước là 13,4 triệu. Doanh thu hai nhóm hàng điện tử tiêu dùng và CNTT tăng đến 43%, tương đương 641 triệu và 700 triệu đô-la. Trong 700 triệu đô-la chi tiêu cho sản phẩm CNTT, có đến 83% dành cho máy tính các loại. Đáng chú ý là có hơn sáu triệu chiếc điện thoại di động được tiêu thụ trong năm nay so với 4,4 triệu hồi năm ngoái, tăng 37%. Mặt hàng này dù dẫn đầu về doanh số với 910 triệu đô-la, nhưng chỉ tăng 16% so với năm trước. Về nhóm hàng gia dụng và máy ảnh kỹ thuật số, doanh thu tăng 25% và 26%, đạt 772 triệu và 61 triệu đô-la. GfK Vietnam, dự đoán thị trường bán lẻ các sản phẩm nói trên sẽ tiếp tục tăng trưởng khả quan vào năm 2008 với doanh thu 3,9 tỷ đô-la, tương đương 21 triệu sản phẩm các loại. Trong đó dẫn đầu vẫn là điện thoại với xấp xỉ 9 triệu chiếc, kế tiếp là ti-vi màn hình phẳng với hơn 2,4 triệu chiếc. GfK cũng ước tính năm nay mỗi người dân Việt Nam chi tiêu 36,2 đô-la cho các sản phẩm này (năm 2006 khoảng 28,4 đô-la). Chi tiêu cho điện thoại vẫn dẫn đầu với hơn 10,7 đô-la ; cho hàng gia dụng 9 đô-la ; sản phẩm CNTT 8,2 đô-la và hàng điện tử là 7,5 đô-la. Người Hà Nội dẫn đầu chi tiêu với 186 đô-la, TP.HCM 148 đô-la và Đà Nẵng là 117 đô-la. Chỉ số này cũng cho thấy sự chênh lệch về tiêu dùng giữa vùng nông thôn và thành thị còn khá cao. Cuộc nghiên cứu của GfK cũng cho thấy người tiêu dùng đang dần chuyển sang lựa chọn những sản phẩm có giá trị lớn, công nghệ cao hơn và nhiều tiện ích hơn. Có đến 85% điện thoại được tiêu thụ là sản phẩm tích hợp camera. Khoảng 65% ti-vi được tiêu thụ là loại trên 21 inch, loại dưới 21 inch chỉ chiếm 4%, trong khi năm trước đến 10%. Ti-vi màn hình lớn (LCD và plasma) là sản phẩm dẫn đầu về mức tăng trưởng và ở mức cao nhất từ trước đến nay với 191%. Sở dĩ mức tăng trưởng cao như vậy là nhờ giá giảm khá nhanh. Tính từ tháng 6-2006 đến tháng 6-2007, mức giá sản phẩm này đã giảm đến 70%. Một chiếc ti-vi LCD tháng 6-2006 khoảng 1.980 đô-la thì đến tháng 6-2007 chỉ còn 1.148 đô-la, tương tự như vậy, ti-vi plasma giảm từ 2.116 đô-la còn 1.470 đô-la. Trong vài năm tới, những mặt hàng tiêu dùng cơ bản vẫn là dòng sản phẩm chủ đạo trên thị trường, nhưng những dòng sản phẩm cấp cao hơn như LCD, máy tính xách tay, điện thoại đa phương tiện sẽ đạt mức tăng trưởng cao. GfK cũng dự báo giá các mặt hàng sẽ tiếp tục giảm do công nghệ thay đổi, kênh phân phối phát triển và mức độ cạnh tranh ngày càng cao. Kênh phân phối sẽ phát triển nhanh hơn Những yếu tố cơ bản kích thích thị trường tăng trưởng nhanh hơn là thị trường Việt Nam đang thay đổi và thị hiếu tiêu dùng cũng thay đổi. Dân chúng ngày càng có sự lựa chọn đa dạng, có nhiều kinh nghiệm về sản phẩm, sự hiểu biết về các tiện nghi tiêu dùng và thu nhập ngày càng gia tăng. Các chuyên gia GfK cũng dự báo thị trường vẫn còn nhiều cơ hội cho tất cả các nhà cung cấp, nhưng cũng có hàng loạt thách thức trong hoạt động bán lẻ và cạnh tranh. Trước hết, các chỉ số nghiên cứu của GfK cho thấy khoảng cách tiêu dùng giữa nông thôn và thành thị khá lớn sẽ là yếu tố tác động lớn đến chính sách bán hàng của các doanh nghiệp, khoảng cách này càng lớn thì thách thức càng cao : Làm sao để kênh bán lẻ phủ rộng trong khi vẫn bảo đảm được lợi nhuận, giữ tốc độ tăng trưởng tỷ lệ thuận với giá trị tăng trưởng. Lee Risk, chuyên gia của GfK Asia, nhận định sự chuyển dịch tiêu dùng đang diễn ra khá mạnh mẽ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó. Trong tương lai, hiệu quả kinh doanh và mức lợi nhuận phụ thuộc không chỉ vào doanh số của phần cứng mà còn từ các tính năng và dịch vụ đi kèm. Vì thế, thách thức cho thị trường công nghệ Việt Nam là phát triển cân bằng giữa phần cứng và phần mềm – dịch vụ. Các chuyên gia cũng khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ ứng dụng công nghệ để quản lý hệ thống của mình có hiệu quả hơn II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.Quy mô và tốc độ phát triển Tăng trưởng cao, lợi nhuận thấp Nở rộ đầu tư nước ngoài Theo thống kê, kim ngạch XK các mặt hàng điện tử của Việt Nam đã vượt qua mốc 1 tỷ USD/năm: Năm 2005, đạt XK 1,04 tỷ USD; năm 2006 đạt 1,23 tỷ USD và tính đến hết tháng 11-2007 đạt 1,96 tỷ USD. Theo dự báo của Bộ Công Thương, doanh số XK của nhóm hàng này trong năm 2007 có khả năng đạt 2,2 tỷ USD và được xếp hàng thứ 6 trong nhóm các sản phẩm XK của nước ta. Mặc dù những con số “ấn tượng” này cho thấy mức tăng trưởng CNĐT trong 3 năm qua khá tốt, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, giá trị XK của nhóm hàng điện tử chủ yếu tập trung trong khối DN liên doanh với nước ngoài như Hanel, Panasonic hoặc các DN có 100% vốn nước ngoài như Canon, Fujitsu... Chỉ trong vòng 3 năm qua, hàng chục DN nước ngoài đã tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực CNĐT và thực tế họ đã rất thành công khi sản lượng XK mỗi năm đạt hàng trăm triệu USD. Theo thống kê của Hội Tin học Việt Nam, chỉ tính riêng trong năm 2006, Canon XK đạt 650 triệu USD còn Fujitsu khoảng 500 triệu USD. Nhóm các công ty liên doanh có tên tuổi như Hanel, Panasonic hoặc nhóm các công ty của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ… có nhà máy tại khu chế xuất hoặc khu công nghiệp, chiếm khoảng vài trăm triệu USD. Theo Hiệp hội Các doanh nghiệp điện tử Việt Nam, năm 2007, ngành CNĐT Việt Nam đang có nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới như Foxcon (thuộc tập đoàn HonHai), Compaq… Dự báo, khi Intel chính thức đi vào sản xuất (nhà máy đặt tại khu công nghệ cao TPHCM), trị giá XK sẽ còn cao hơn nữa, có thể đạt ngưỡng vài chục tỷ USD/năm. Doanh nghiệp trong nước “bí” lối ra Khác với các DN có vốn đầu tư nước ngoài, số các DN trong nước sản xuất hàng điện tử XK rất ít và giá trị XK cũng chiếm không quá 10% so với tổng giá trị toàn ngành. Những DN trong nước có hàng XK như Công ty Viettronics Tân Bình (VTB) chuyên sản xuất linh kiện tivi, Công ty Điện tử Bình Hòa thuộc Tổng Công ty cổ phần Điện tử và Tin học Việt Nam (VEIC) chuyên gia công các sản phẩm điện tử dành cho xe hơi hay một số DN vừa và nhỏ khác chuyên về các loại linh kiện như bộ biến áp đèn dành cho ampli, loa... Điều đáng nói là các DN này chỉ thuần túy ký hợp đồng nhỏ lẻ với đối tác nước ngoài để đem hàng về gia công, lắp ráp. Đơn cử, Công ty Viettronics Tân Bình được xem là DN năng nổ khi mang sản lượng XK đến khu vực Đông Nam Á tương đối khá cũng chỉ đạt 3,4 triệu USD/năm và chủ yếu là gia công; tăng trưởng hàng năm ở mức 5%. Ông Ngô Quang Vị, Giám đốc VTB cho rằng, hạn chế và khó khăn lớn nhất của CNĐT trong nước là công nghệ, kỹ thuật sản xuất quá kém. “Mặt khác chúng ta xây dựng thương hiệu chưa tốt, lại là thị trường độc lập nên rất khó khi mang sản phẩm XK ra các nước”. Nhiều DN sản xuất CNĐT còn cho biết, ngoài năng lực bị hạn chế, CNĐT trong nước đang phải đối mặt với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc với giá rẻ hơn nhiều. Đồng quan điểm trên, một số chuyên gia cũng cho rằng, nhược điểm của CNĐT Việt Nam là chưa xây dựng được những DN phụ trợ để tăng giá trị nội địa hóa. Như vậy, theo kế hoạch tổng thể phát triển CNĐT Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, mục tiêu đến năm 2010 sẽ đạt doanh số khoảng 4 - 6 tỷ USD và kim ngạch XK 3 - 5 tỷ USD, đạt tốc độ tăng trưởng 20% - 30%/năm, sẽ không quá khó. Vấn đề đặt ra là các DN trong nước cần có biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá thành, cải thiện mẫu mã, tăng cường tính năng sản phẩm để đạt được giá trị gia tăng cao nhằm tăng thị phần và thị trường trong nước cũng như XK. Có như thế, may ra kim ngạch XK mới thu về lợi nhuận cao cho ngành CNĐT Việt Nam. Việt Nam – Trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực điện tử Theo Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đến nay đã có nhiều dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực điện tử với số vốn khoảng 3 tỷ USD. Có thể nói Việt Nam đang trở thành một trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực điện tử. Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO thì Tập đoàn Intel ( Mỹ) đã nâng vốn đầu tư từ 600 triệu USD lên 1 tỷ USD. Tiếp đến là Tập đoàn Nidec (Nhật Bản) cũng đầu tư 1 dự án tại Bình Dương với số vốn 1 tỷ USD sản xuất đầu đọc quang học dùng cho đầu DVD, VCD và môtơ siêu nhỏ dùng trong máy ảnh, máy in... Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đầu tư vào Việt Nam tổng vốn 5 tỷ USD, trong đó riêng sản xuất linh kiện điện tử khoảng 1 tỷ USD. Ngoài ra còn Tập đoàn Meikom (Nhật Bản) đầu tư 300 triệu USD sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Tây... Bộ Kế Hoạch và Đầu tư cũng cho biết, sắp tới sẽ cấp phép đầu tư cho Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) vào Khu công nghiệp huyện Yên Phong (Bắc Ninh) với số vốn 650 triệu USD sản xuất linh kiện điện tử. Có thể nói Việt Nam đang trở thành một trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực điện tử. Rất nhiều các tập đoàn lớn với những dự án quan trọng, vốn đầu tư lớn đã đổ vào Việt Nam. Hiện các doanh nhân trong lĩnh vực điện tử của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn đang đổ về Việt Nam để tìm kiếm cơ hội đầu tư và thời gian tới sẽ còn nhiều dự án lớn được cấp phép trong lĩnh vực này. Tổng Thư ký Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam, đang có xu hướng chuyển các nhà máy sản xuất linh kiện điện tử từ Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông Nam Á sang Việt Nam. Với lý do, Việt Nam hiện có quỹ đất lớn với nhiều vị trí đẹp, thuận lợi cho sản xuất điện tử và giá công nhân rẻ. Bên cạnh đó sản xuất điện tử được coi là lĩnh vực công nghệ cao nên Việt Nam có các chính sách ưu đãi lớn. Trong khi đó tại các nước như Trung Quốc, Malaysia... giá thuê đất, giá nhân công tăng vì vậy Việt Nam trở nên có lợi thế. Tất cả các dự án đầu tư vào lĩnh vực điện tử thời gian qua và tới đây đều là sản xuất linh kiện. Điều này sẽ làm cho công nghiệp phụ trợ của ngành điện tử nở rộ trong những năm tới, góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam. Lúc đầu các sản phẩm sản xuất chủ yếu để xuất khẩu, nhưng khi các DN trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần thì có thể sử dụng ngay tại chỗ. Bên cạnh đó với việc sử dụng nhiều nhân công, sẽ tạo điều kiện để Việt Nam có được đội ngũ lao động trong ngành điện tử được đào tạo. Đây chính là những hiệu quả to lớn mà đầu tư nước ngoài mang lại. Tuy nhiên đầu tư vào nhiều, nhưng chủ yếu các DN này chỉ sử dụng đất đai và lao động tại Việt Nam là chính. Việc sử dụng các nguyên vật liệu tại chỗ rất ít, chủ yếu vẫn nhập khẩu và chỉ gia công tại Việt Nam, vì vậy hiện tại giá trị gia tăng còn rất thấp. Năm 2007 xuất khẩu trong lĩnh vực điện tử đạt 2,2 tỷ USD, nhưng giá trị gia tăng chỉ từ 5%-10%. Việc các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư vào sản xuất linh kiện điện tử là cơ hội để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp điện tử của mình. Nhưng chỉ sản xuất linh kiện không thì chưa đủ. Để có được ngành công nghiệp điện tử thì cần có đội ngũ các nhà thiết kế có chất lượng, điều này Việt Nam lại rất yếu. Qua điều tra của Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam thì trong 10 năm qua, các DN đầu tư nước ngoài trong ngành điện tử hầu như không đào tạo đội ngũ thiết kế. Họ chỉ đào tạo lao động trông coi dây chuyền sản xuất, công nghệ và sửa chữa bảo hành. Bản thân các trường đại học của Việt Nam cũng chạy theo nhu cầu này của DN và gần như không có đào tạo về thiết kế. Nếu không

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThị trường hàng điện tử Việt Nam,thực trạng và giải pháp trong hội nhập kinh tế quốc tế.DOC
Tài liệu liên quan