Đề tài Thị trường tài chính

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Nội dung 2

1. Khái niệm thị trường tài chính 2

2. Chức năng, vai trò của thị trường tài chính 2

2.1. Chức năng 2

2.2. Vai trò 3

3. Cấu trúc của thị trường tài chính 6

3.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần 6

3.2. Thị trường cấp một và thị trường cấp hai 6

3.3. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn 9

4. Các công cụ của thị trường tài chính 10

4.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ 10

4.2. Các công cụ trên thị trường vốn 13

5. Chủ thể của thị trường tài chính 17

5.1. Chủ thể đi vay 17

5.2. Chủ thể cho vay hay đầu tư 18

6. Điều hành thị trường tài chính 21

6.1. Ban hành qui định buộc các công ty phải cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư 21

6.2. Đảm bảo sự lành mạnh của các trung gian tài chính 21

6.3. Cải thiện việc Kiểm soát chính sách tiền tệ 22

Kết luận 23

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất kinh doanh lành mạnh và có hiệu quả ngày càng cao hơn. - TTTC tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch tài chính. TTTC là con kênh dẫn truyền vốn từ những chủ thể thặng dư tiết kiệm sang các chủ thể thiếu hụt tiết kiệm. Nhờ vào sự phát triển của công nghệ thông tin liên lạc (thông qua vệ tinh, cáp quang, tia laser, máy fax và các tiến bộ công nghệ khác) mà các định chế tài chính tác hợp cho các đơn vị thặng dư tiết kiệm và thiếu hụt tiết kiệm cánh nhau hàng ngàn dặm có thể giao dịch với nhau một cách có hiệu quả, từ đó tiết kiệm chi phí liên quan đến các giao dịch tài sản tài chính như: chi phí thu thập thông tin, chi phí nghiên cứu, chi phí tìm gặp... 3. Cấu trúc của thị trường tài chính 3.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần - Thị trường nợ. Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, trong đó người vay thanh toán cho người nắm giữ công cụ nợ một khoản tiền lãi cố định trong những khoảng thời gian đều đặn (thanh toán lãi) cho tới một thời điểm qui định trước (ngày mãn hạn) là lúc đợt thanh toán cuối cùng được thực hiện. Kỳ hạn thanh toán của một công cụ nợ là thời gian tính tới ngày kết thúc của công cụ. Nếu kỳ hạn thanh toán của công cụ nợ dưới 1 năm, người ta gọi đó là công cụ nợ ngắn hạn, nếu từ 10 năm trở lên gọi là công cụ nợ dài hạn và trong khoảng từ 1 năm đến 10 năm thì là trung hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên. - Thị trường vốn cổ phần. Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty và có quyền được chia lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty (sau khi trừ chi phí và thuế). Việc sở hữu cổ phiếu khác với sở hữu công cụ nợ (trái phiếu công ty) là ở chỗ người sở hữu cổ phiếu chỉ nhận được tiền lãi sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ (người sở hữu công cụ nợ). Nhưng lợi ích của việc nắm các cổ phần vốn là ở chỗ, cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận hoặc do giá trị tài sản cuả công ty tăng lên. Trong khi đó, người nắm giữ công cụ nợ lại không nhận được gì từ khoản lợi nhuận này. Như vậy, thị trường vốn cổ phần là nơi diễn ra việc mua bán cổ phiếu kể trên. 3.2. Thị trường cấp một và thị trường cấp hai - Thị trường cấp một (hay còn được gọi là thị trường sơ cấp). Thị trường cấp một là TTTC trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Các loại hàng hoá như cổ phiếu, trái phiếu của công ty và của chính phủ, khi mới phát hành đều được đem bán ở thị trường này. Thị trường cấp một được sử dụng bởi các doanh nghiệp, Chính phủ và các hộ gia đình để tăng vốn cho nhu cầu chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Chẳng hạn, các doanh nghiệp muốn huy động vốn cho một dự án đầu tư họ có thể phát hành cổ phiếu và giao dịch trên thị trường cấp một; tương tự như vậy, nếu Chính phủ thực hiện phát hành trái phiếu để tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu của mình thì hành vi phát hành đó sẽ được thực hiện trên thị cấp một. Đặc điểm nổi bật của các giao dịch trên thị trường này là nó tạo lên các công cụ tài chính mới. Việc mua bán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian đó là ngân hàng. Ngân hàng này thường được xem như ngân hàng đầu tư hay ngân hàng bảo hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng khoán trong quá trình phát hành. Ngân hàng bảo hiểm thường trực tiếp bỏ tiền để mua hết lô chứng khoán (với giá thấp hơn giá thông báo), sau đó bán lại ngay trên thị trường với giá cao hơn (giá công bố) để kiếm lời. Người cung ứng vốn Người vay vốn vốn Phát hành công cụ tài chính mới Sử dụng vốn để mua hàng hoá, dịch vụ hoặc đầu tư Giao dịch trên thị trường cấp một - Thị trường cấp hai (hay còn gọi là thị trường thứ cấp). Thị trường cáp hai là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành (chứng khoán cũ). Ngược lại với thị trường cấp một, thị trường cấp hai mặc dù có mức độ giao dịch lớn hơn nhiều so với thị trường cấp một, nhưng thị trường cấp hai không có tác dụng huy động thêm vốn, không hỗ trợ việc đầu tư mới. Việc mua bán ở thị trường cấp hai thường được thực hiện thông qua các công ty môi giới. Thị trường cấp hai thực hiện hai chức năng: Thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằmthu tiền mặt tức là nó làm tăng thêm tính thanh khoản cho các công cụ tài chính đã được phát hành, khiến chúng trở lên hấp dẫn hơn, được ưa chuộng hơn và do đó làm dễ dàng hơn cho các công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp một. Với ý nghĩa này, mức độ tích cực của thị trường tài chính có ảnh hưởng gián tiếp đến qui mô của thị trường cấp một và do đó đến qui mô đầu tư của xã hội. Thứ hai, thị trường cấp hai xác định giá của chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường cấp một. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận nó. Giá chứng khoán ở thị trường cấp hai càng cao, thì giá công ty phát hành sẽ nhận được do phát hành chứng khoán ở thị trường cấp một, sẽ càng cao và vì vậy, công ty phát hành nhận được tổng vốn đầu tư cao hơn. chính vì lý do này mà khi nghiên cứu thị trường tài chính, người ta thường tập trung vào nghiên cứu phương thức diễn biến của thị trường cấp hai hơn là thị trường cấp một. Giao dịch trên thị trường cấp hai Người nắm giữ các công cụ tài chính đã được phát hành trướcđây Người tiết kiệm 1 Người tiết kiệm 2 Người tiết kiệm n Bán các chứng khoán Nhận tiền Thị trường cấp hai có thể được tổ chức theo hai cách: - Thứ nhất, là tổ chức các cơ sở giao dịch, ở đó người mua và người bán (hoặc đại lý môi giới của họ) gặp nhau tại vị trí trung tâm để tiến hành mua bán. - Thứ hai, là thị trường trao tay, trong đó các nhà buôn bán tại các địa điểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến với họ, có ý định chấp nhận giá của họ. Do những nhà buôn bán thẳng có tiếp xúc với nhau qua mạng máy tính và biết các giá mà người này đặt ra cho người kia, lên thị trường theo kiểu này có tính cạnh tranh cao và không khác nhiều so với thị trường ở trung tâm giao dịch nói trên. 3.3. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn 3.3.1. Thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là một thị trường tài chính, trong đó chỉ có các công cụ tài chính ngắn hạn được trao đổi mua bán. Chứng khoán của thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn so với chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn. Hay nói cách khác, hàng hoá mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao. Ngoài ra, chứng khoán ngắn hạn có giao động giá trị nhỏ hơn với các chứng khoán dài hạn, do vậy chúng là những khoản đầu tư an toàn hơn. Chức năng cơ bản của thị tiền tệ nếu nhìn từ góc độ người đi vay là nhằm bù đắp chênh lệch giữa cung và cầu vốn khả dụng. Đây là thị trường quan trọng để tài trợ các nhu cầu về vốn lưu động của các doanh nghiệp và Chính phủ. Thị trường tiền tệ có thể được chia thành thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở rộng căn cứ vào sự khác biệt về chức năng cũng như phạm vi thị trường. 3.3.2. Thị trường vốn Thị trường vốn là thị trường tài chính trong đó diễn việc trao đổi mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn và do đó mà thoả mãn các nhu cầu về vốn cho các khoản đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp, Chính phủ và các hộ gia đình. Các công cụ trên thị trường vốn có thời gian đáo hạn trên 1 năm. Những người huy động vốn trên thị trường vốn chủ yếu và quan trọng nhất là các doanh nghiệp. Những người cung cấp vốn trên thị trường vốn là các tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư... và công chúng. Nếu như trọng tâm của thị trường tiền tệ là cung cấp phương tiện giúp các cá nhân, doanh nghiệp nhanh chóng điều chỉnh tình hình thanh khoản thực của họ theo số lượng tiền mong muốn, thì ngược lại, thị trường vốn gắn bó gần gũi với tiết kiệm và đầu tư hơn, thị trường vốn là một nhịp cầu để chuyển tiết kiệm của những đơn vị thặng dư qua những cuộc đầu tư của những đơn vị thiếu hụt. Qua đó, thị trường vốn đóng góp vào sự ổn định kinh tế bằng cách mở rộng tổng khối lượng tiết kiệm và đầu tư. Do đó một thị trường vốn có hiệu quả, sẽ đóng góp tích cực vào việc nâng cao mức sống cho dân chúng. Xét về đặc điểm hoạt động cũng như đối tượng cụ thể, thị trường vốn được chia thành thị trường tín dụng trung, dài hạn và thị trường chứng khoán. Thị trường tín là nơi vốn được chuyển từ người tiết kiệm đến người đầu tư qua trung gian tài chính. Công cụ tài chính vận động ngược chiều với sự vận động của vốn, được thể hiện dưới dạng các khế ướcvay do người đi vay phát hành. Tính lỏng của loại công cụ này rất thấp vì thị trường cấp một của chúng không phát triển. Thị trường chứng khoán là nơi mua bán trao đổi các chứng khoán có thời hạn trên một năm thể hiện dưới hình thức trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ chứng khoán phái sinh. 4. Các công cụ của thị trường tài chính 4.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ 4.1.1. Tín phiếu kho bạc Tín phiêu kho bạc là chứng nhận nợ ngắn hạn của Chính phủ được phát hành để tài trợ vốn cho các thâm hụt ngắn hạn thường xuyên của Chính phủ. Thông thường tín phiếu kho bạc mang đặc điểm của loại chứng khoán chiết khấu, mà lợi tức của nó là phần chênh lệch giữa giá bán của tín phiếu kho bạc (được bán theo hình thức chiết khấu mệnh giá) và mệnh giá nhận được khi đến hạn thanh toán tín phiếu kho bạc. Tín phiếu kho bạc là loại công cụ có tính thanh khoản cao nhất bởi tính an toàn của nó. Chính phủ luôn có khả năng đáp ứng được các món nợ phải trả vì Chính phủ có thể tăng thuế hoặc phát hành thêm giấy bạc nên rủi ro tín dụng tiềm năng hầu như không xảy ra. Tín phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng nắm giữ, còn một lượng nhỏ do các gia đình, các công ty và những trung gian tài chính khác nắm giữ. Tín phiếu kho bạc không những quan trọng do ý nghĩa về số lượng mà còn vì nó được Ngân hàng Trung ương cũng như nhiều tổ chức tài chính và phi tài chính sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ. Tín phiếu kho bạc là phương tiện truyền thống để điều chỉnh thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra nó còn có một tầm quan trọng khác, Ngân hàng Trung ương thực hiện các hoạt động thị trường mở chủ yếu bằng tín phiếu kho bạc. 4.1.2. Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng (CD) Giấy chứng nhận tiền gửi (CD) là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ hạn thanh toán, thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Trước 1961, CD là loại không thể chuyển nhượng. First National City Bank ở New York (City Bank), một trong những ngân hàng lớn nhất của Mỹ là ngân hàng đầu tiên có thể chuyển nhượng vào năm 1966 nhằm làm cho CD lỏng hơn và hấp dẫn hơn với những người đầu tư. Chúng có thể được bán lại ở thị trường cấp hai. Hiện nay, công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được thành công lớn. Với sự phát triển của CD ngân hàng có thể huy động quỹ chẳng những bằng cách thanh lý tài sản Có của mình (như bán các tín phiếu), mà còn bằng cách bán những CD, đáp ứng các nhu cầu dự trữ ngắn hạn. Việc xuất hiện chứng chỉ tiền gửi cho phép các ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động mà không phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng. Khả năng chuyển nhượng tạo nên sự hấp dẫn hơn nhiều cho chứng chỉ tiền gửi so với các hình thức tiền gửi có kỳ hạn khác. Sự phát triển của chứng chỉ tiền gửi và các hình thức huy động vốn chủ động khác tạo điều kiện cho ngân hàng có thể thích ứng với môi trường cạnh tranh mới. 4.1.3. Thương phiếu Thương phiếu là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi tiếng phát hành. Thương phiếu thường không có bảo đảm và hầu hết có thời hạn dưới 270 ngày, nhưng trên thực tế phần lớn thương phiếu có thời hạn 30 ngày hay nhỏ hơn. Uỷ ban giao dịch chứng khoán qui định những thương phiếu dài hạn hơn phải được đăng bạ. Thương phiếu đựơc bán với giá dưới mệnh giá theo phương thức chiết khấu. Ngược lại với tín phiếu kho bạc và chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu được mua bán chủ yếu trên thị trường cấp một. Các cơ hội bán lại trên thị trường cấp hai rất hạn chế, do đó tính linh hoạt của nó kém hơn. Mặc dù vậy, thị trường thương phiếu vẫn phát triển mạnh và trở thành một trong những thành phần phát triển nhanh nhất của các thị trường tiền tệ trong kỷ nguyên hậu chiến, xuất phát bởi những thuận lợi đáng kể của thương phiếu đối với người vay lẫn người cho vay trên thị trường. Đối với người vay, lãi suất thấp và chi phí thấp hơn vay tiền từ các ngân hàng thương mại. Đối với người cho vay, là người mua thương phiếu, được hưởng tỷ suất lợi tức cao hơn tín phiếu kho bạc. Ngoài ra, kỳ hạn thương phiếu có thể thích ứng theo nhu cầu của nhà đầu tư, trong khi đó tín phiếu kho bạc có kỳ hạn cố định. 4.1.4. Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận Một trong các công cụ thị trường tiền tệ cổ điển và chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trên thị trường tiền tệ là những hối phiếu được ngân hàng chấp nhận theo nghĩa bảo lãnh thanh toán. Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là các hối phiếu ngân hàng (sự hứa hẹn thanh toán tương tự một tấm séc), do một công ty phát hành, được thanh toán trong thời hạn sắp tới và được ngân hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu phải gửi món tiền bắt buộc vào tài khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. Nếu công ty không có khả năng thanh toán, thì ngân hàng buộc phải thanh toán theo số tiền đã ghi trên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu có thêm khả năng được chấp nhận khi mua hàng hoá ở nứơc ngoài vì nhà xuất khẩu ngoại quốc biết rằng ngay cả trường hợp công ty đã phá sản, thì hối phiếu vẫn được ngân hàng thanh toán đầy đủ. Các hối phiếu “đã chấp nhận” này thường được bán lại ở thị trường cấp hai và như vậy nó có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc. 4.1.5. Hợp đồng mua lại Hợp đồng mua lại thực tế là những món vay ngắn hạn(thường với kỳ hạn thanh toán ít hơn 2 tuần lễ), trong đó các tín phiếu kho bạc được dùng làm vật bảo đảm cho một tài sản Có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán đựơc nợ. Hợp đồng mua lại được tạo ra trên cơ sở người cho vay cho người kinh doanh(ngân hàng...) vay tiền nhàn rỗi bằng cách mua lại các tín phiếu kho bạc của người kinh doanh với điều kiện người kinh doanh đồng ý mua lại các tín phiếu kho bạc đó với giá cao hơn khi đến hạn thanh toán nợ. Hợp đồng mua lại là một nguồn vốn quan trọng đối với các ngân hàng và người cho vay quan trọng nhất ở thị trường này là các công ty lớn. 4.1.6. Dự trữ của các ngân hàng Dự trữ của các ngân hàng thực chất đó là những khoản tiền gửi của các ngân hàng tại Ngân hàng Trung ương. Là một tài sản Có đối với các ngân hàng và là tài sản Nợ đối với Ngân hàng Trung ương. Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng những số dư dự trữ đó để cho vay ngắn hạn giữa các ngân hàng. Các ngân hàng thương mại vay tiền trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng khi có nhu cầu bổ sung vốn khả dụng nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, thanh toán cho khách hàng hoặc thực hiện nghĩa vụ tài chính khác. Lãi suất các khoản vay được hình thành căn cứ vào quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. 4.2. Các công cụ trên thị trường vốn Công cụ thị trường vốn là các công cụ nợ và cổ phiếu với kỳ hạn thanh toán trên 1 năm. Chúng có giao động giá rộng hơn nhiều so với các công cụ thị trường tiền tệ và được coi là những đầu tư thực sự có rủi ro lớn nhưng mức lợi tức lại thường cao. 4.2.1. Chứng khoán Chứng khoán là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử, xác nhận quyền tài chính hợp pháp của chủ chứng khoán và có thể mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán. 4.2.2. Cổ phiếu Khi một công ty cổ phần gọi vốn để thành lập hoặc mở rộng hiện đại hoá sản xuất, thì số vốn đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần, người mua cổ phần được gọi là cổ đông. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Theo đó, cổ phiếu là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể đối với một doanh nghiệp cổ phần. Mức lợi tức cổ phần được hưởng thụ thuộc vào lợi nhuận và chính sách phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp cổ phần đó. Trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản, giá trị tài sản thanh lý (nếu có) sẽ được dùng để trang trải cho các khoản nợ trước khi thanh toán cho các cổ đông. Cổ phiếu có thể được chia thành hai loại: - Cổ phiếu thông thường là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, lợi tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo qui luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều nghịch với biến động lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng. - Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính công ty. Như vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức, mà quan trọng hơn chính là giá cổ phiếu được mua bán trên thị trường giao động mang lại lợi nhuận nhiều hơn nhiều hơn số cổ tức thu được. Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua, chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và ngược lại. Một nhà đầu tư chứng khoán không phải chỉ giỏi trong xác định thời điểm mua bán, mà còn phải biết trung hoà rủi ro bằng cách xây dựng được danh mục chứng khoán có các mức độ rủi ro khác nhau hoặc chu kỳ giao động lệch nhau. 4.2.3. Trái phiếu Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định. - Trái phiếu công ty. Trái phiếu công ty là trái phiếu do công ty phát hành với mục đích huy động vốn để bổ sung vốn tạm thời thiếu phục vụ cho đầu tư phát triển. Trái phiếu công ty là loại trái phiếu dài hạn và có lãi suất cao. Ngoài ra, trái phiếu công ty còn có khả năng chuyển đổi, và một số loại có thể chuyển thành cổ phiếu vào bất cứ lúc nào cho tới lúc đến kỳ hạn thanh toán. Đặc điểm này khiến các trái phiếu chuyển đổi được hấp dẫn đối với những người mua tương lai hơn là hơn là những trái phiếu không có khả năng chuyển đổi, và cho phép công ty giảm tiền lãi thanh toán vì các trái phiếu nàycó thể tăng thêm giá trị nếu giá của cổ phiếu tăng lên một cách đầy đủ. Do tổng số dư của cả trái phiếu chuyển đổi và không chuyển đổi đối với một công ty là nhỏ nên chúng gần như không lỏng bằng các chứng khoán khác. Tuy rằng tầm cỡ của thị trường trái phiếu công ty nhỏ hơn nhiều so với thị trường cổ phiếu, nhưng tổng giá trị của những trái khoán mới được phát hành mỗi năm lớn hơn nhiều so với tổng giá trị các cổ phiếu mới được phát hành. Như vậy, diễn biến của thị trường trái phiếu công ty có thể quan trọng hơn nhiều đối với các quyết định về tài chính của một công ty so với diễn biến của thị trường cổ phiếu. Những người mua quan trọng đối với các trái phiếu công ty là các hãng bảo hiểm, các quỹ trợ cấp và các hộ gia đình những người cầm giữ tài sản lớn khác. - Trái phiếu chính phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng khoán nợ do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương phàt hành, nhằm mục đích bù đắp sự thiếu hụt ngân sách và tài trợ cho các dự án xây dựng các cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng trung ương và địa phương. Đặc điểm của trái phiếu Chính phủ là độ tin cậy về khả năng thanh toán rất cao trong điều kiện kinh tế bình thường, không có chiến tranh, đảo chính quân sự. Do đó, các nhà đầu tư thường đầu tư vào trái phiếu Chính phủ nhằm giảm thấp mức rủi ro bình quân của danh mục đầu tư được lựa chọn. Trái phiếu Chính phủ có thể tồn tại dưới 2 hình thức: Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển trong kế hoạch nhà nước được duyệt. Trái phiếu công trình: (tương tự như trái phiếu Chính phủ) gồm 2 loại: Trái phiếu Chính phủ huy động vốn cho các công trình trung ương do Bộ tài chính (ngân sách trung ương) bảo lãnh thanh toán. Trái phiếu Chính phủ huy động vốn cho các công trình địa phương, do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố (ngân sách địa phương) bảo lãnh thanh toán. 4.2.4. Các chứng khoán phái sinh Các chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính được thể hiện dưới dạng các hợp đồng mua, bán được chuẩn mực hoá về loại hàng hoá, về giá trị hợp đồng, về thời hạn và thị trường giao dịch. Các hàng hoá được mua bán theo hợp đồng này bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, dầu lửa, cà phê, bông, ngoại tệ... Có hai loại hợp đồng: hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. - Hợp đồng tương lai cho phép những người tham gia hợp đồng mua hay bán hàng hoá được lựa chọn vào một ngày xác định trong tương lai theo giá đã được xác định vào thời điểm ký hợp đồng. - Hợp đồng quyền chọn trái lại cho phép người mua hợp đồng được quyền (không phải là nghĩa vụ) mua hoặc bán hàng hoá được lựa chọn vào một ngày xác định trong tương lai theo giá đã được xác định trước vào thời điểm ký hợp đồng. Việc tham gia vào các hợp đồng mua bán trong tương lai theo giá xác định trước thực chất là nhằm bảo hiểm những rủi ro tiềm năng do các biến động về giá cả, về lãi suất, hoặc về tỷ giá. Trong khi hợp đồng tương lai giúp cho người tham gia có thể chắc chắn về giá trị thu nhập hoặc giá trị các khoản nợ trong tương lai mà không bị ảnh hưởng bởi những biến động bất thường về tỷ giá, giá cả hoặc lãi suất thì loại hợp đồng này cũng triệt tiêu luôn khả năng lợi dụng những biến đổi có lợi của thị trường. Hợp đồng lựa chọn, trái lại, cho phép người tham gia bảo hiểm tránh khỏi các rủi ro do sự biến động của thị trường, đồng thời cũng cho phép họ lợi dụng được những biến đổi có lợi của thị trường bằng cách rút ra khỏi hợp đồng đó. Để có quyền chọn như vậy, người tham gia phải trả một giá thích hợp theo quan hệ cung cầu của thị trường các hợp đồng quyền chọn. 4.2.5. Vay thế chấp Vay thế chấp là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để đầu tư vào những công trình kiến trúc, nhà, đất đai được dùng làm vật thế chấp cho các món vay. Hình thức này chiếm một phần lớn trong nguồn tài trợ của các công ty, thậm chí còn chiếm một phần lớn tại các nước phát triển. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm là người cho vay hàng đầu trong lĩnh vực này. Những tổ chức này cung cấp vốn cho thị trường vay thế chấp bằng cách bán trái khoán và dùng tiền để mua các món thế chấp. 5. Chủ thể của thị trường tài chính 5.1. Chủ thể đi vay Chủ thể đi vay chủ chốt trên thị trường tài chính là Chính phủ, các công ty và các hộ gia đình. - Chính phủ. Chính phủ đi vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc... để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước. - Các công ty. Việc thiếu vốn sản xuất kinh doanh là điều thường xẩy ra trong hoạt động của các doanh nghiệp. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có thể giải quyết vấn đề này bằng cách vay ngân hàng. Hơn nữa, khi muốn mở rộng sản xuất, đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp thường cần vốn lớn với thời hạn dài, các ngân hàng thương mại thường ít khi có thể đáp ứng yêu cầu như vậy. Cách phổ biến nhất là các doanh nghiệp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường tài chính. - Các hộ gia đình. Hộ gia đình cũng vay trên thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình. 5.2. Chủ thể cho vay hay đầu tư Khi một chủ thể đồng ý giao tiền hoặc tài sản để nhận lại một trái phiếu của người khác, anh ta đã biến mình thành một chủ thể cho vay. Bởi vì mọi khoản vay đều được hoàn trả vốn và lãi, nên hoạt động cho vay đã làm cho tiền mặt, tài sản tạo thêm ra những giá trị mới. Chính quá trình tạo ra giá mới này đã làm cho việc cho vay trở thành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do vậy,người ta cũng gọi những người cho vay là các nhà đầu tư. 5.2.1. Các công ty và chính phủ Các công ty và chính phủ khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách làm sinh lợi dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng. 5.2.2. Các trung gian tài chính Tiền vốn ngoài cách chuyển trực tiếp từ người cho vay tới người đi vay còn được chuyển bằng con đường thứ hai gọi là con đường tài chính gián tiếp, bởi vì nó liên hệ đến một người ở giữa: một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và người vay và giúp chuyển vốn từ người này sang người kia. Một trung gian tài chính thực hiện điều này bằng cách vay vốn của n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35607.doc
Tài liệu liên quan