Đề tài Thị trường tài chính và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường

 

 

Lời nói đầu 1

Nội dung 2

I. Khái niệm, đặc điểm của TTTC. 2

II. Chức năng, vai trò của thị trường tài chính. 2

1. Chức năng của thị trường tài chính. 2

1.1. Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính 2

1.2. Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán. 3

1.3. Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá 3

2. Vai trò của thị trường tài chính 3

2.1. Vai trò trong thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần quan trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. 3

2.2. Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính 5

2.3. Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước. 5

III. Thực trạng TTTC Việt Nam. 7

IV. Phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. 8

1. Hoàn thiện TTTC ở Việt Nam . 8

2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. 8

Kết luận 10

Tài liệu tham khảo 12

 

 

doc13 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thị trường tài chính và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ đại hội Đảng toàn quốc ( tháng 12- 86), nước Việt Nam ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự mạnh dạn đổi mới của Đảng đã giải phóng hàng loạt các mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đem lại những biến đổi tích cực, khả quan bước đầu. Mọi nguồn lực của xã hội được khai thác, phát huy tạo đà cho một nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường XHCN phát triển nhanh, ổn định năng động. Chính những biến đổi toàn diện đó đã và đang tạo nên một cơ sở quan trọng ban đầu để hình thành,phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Tuy vậy,sau 15 năm đổi mới, thị trường tài chính còn là một vấn đề khá mới mẻ khi mà phát triển và hoàn thiên thị trường tài chính là một tất yếu khách quan cho phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt,cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực năm 97 xảy ra còn để lại nhiều hậu qủa nặng nề buộc chúng ta phải nhận thấy rằng vấn đề phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính càng trở nên quan trọng hơn, cấp bách hơn cho việc xây dựng một thị trường tài chính lành mạnh, ổn định, năng động. Thị trường tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế đang trên đà phát triển của chúng ta,nó góp phần thúc đẩy mói quan hệ giữa các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới ,cung cấp vốn cho các doanh nghiệp sản suất.... Thị trường tài chính ngày càng lớn mạnh sẽ đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc khác trong một tương lai gần. Để góp một ý kiến chung vào việc tìm hiểu,đánh giá nghiên cứu "nền kinh tế thị trường"em đã chọn đề tài “Thị trường tài chính và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường” cho bai viết của mình. Vì thời gian tìm hiểu ngắn cộng với kiến thức về lĩnh vực này còn rất nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Nên em rất mong được sự đánh giá ,góp ý kiến của các thầy cô.Em xin chân thành cảm ơn thầy cô. nội dung Ngày nay, trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá các nền kinh tế, TTTC đã mở rộng ra phạm vi toàn thế giới và đang ngày càng đóng góp và nền kinh tế thế giới. Chính xu thế toàn cầu hoá đã hội nhập các TTTC lại với nhau biến các TTTC nhỏ bé độc lập thành những TTTC khổng lồ, hoạt động phụ thuộc lẫn nhau và tạo ra động lực cho nhau cùng phát triển. Việt Nam chúng ta cần đánh giá đúng bản chất ra đời, tồn tại của TTTC từ đó mà dựa trên các quy luật khách quan để xây dựng một TTTC hợp lý, từng bước phát triển, hội nhập vào quốc tế và khu vực. I. Khái niệm, đặc điểm của TTTC. TTTC là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Mọi nền kinh tế đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển vào có thể được huy động từ nguồn Nhà nước, ngân hàng... và cuối cùng là qua trung gian TTTC – một công cụ hết sức quan trọng của nền kinh tế thị trường về phương diện cung cấp và chuyển vốn. Như vậy, TTTC là một thực tế trừu tượng gắn liền với việc phân bố sử dụng các nguồn lực tài chính với các loại hàng hóa đặc biệt, đó là vốn, quyền sử dụng vốn. Các công cụ chủ yếu trên TTTC là các loại chứng khoán có giá đưa lưu hành qua lại trong các hoạt động tài chính. ii. Chức năng, vai trò của thị trường tài chính. 1. Chức năng của thị trường tài chính. 1.1. Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi thu hút mạnh mẽ mọi nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển giao những nguồn này cho các nhu cầu đầu tư phát triển nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc thoả mãn nhu cầu khác nhau của chủ thể cần nguồn tài chính. Thị trường tài chính được xem như cầu nối giữa tích luỹ và đầu tư,giữa người cùng nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính. Nó giúp họ gặp nhau, cung ứng nguồn tài chính cho nhau giữa hình thức mua bán các chứng khoán. 1.2. Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán. Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Bởi vậy, nhờ thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc các chứng khoán khác họ muốn. Khả năng thành khoản ( khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những chủ yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư. Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán bảo đảm cho thị trường tài chính hoạt động năng động có hiệu quả. 1.3. Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá Chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố nội tại của chủ thể phát hành, tức là tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mặt khác, giá trị của doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị trường tài chính phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của các cổ phần đang lưu hành. Vì vậy, thông qua giá cổ phiếu của một doanh nghiệp người ta có thể đánh giá được giá trị của doanh nghiệp đó. 2. Vai trò của thị trường tài chính Thực hiện các chức năng của thị trường tài chính sẽ phát huy được vai trò của thị trường tài chính. Các vai trò đó là: 2.1. Vai trò trong thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần quan trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Để phát triển kinh tế xã hội cần huy động tối đa các nguồn tài chính cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, trong khi đó nền kinh tế luôn luôn tồn tại các nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi với thời hạn ngắn, dài và quy mô khác nhau. Sự hoạt động của thị trường tài chính với các công cụ là các loại chứng khoán, đa dạng về hình thức, phong phú về mệnh gía và thời hạn sử dụng kết hợp với cơ chế linh hoạt: mua bán chứng khoán thuận lợi nhanh chóng, do đó thị trường tài chính đã thu hút, chuyển giao các nguồn tài chính nhàn rỗi,bé nhỏ, phân tán trong xã hội thành nguồn tài chính to lớn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Thị trường tài chính với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, bộ máy quản lý hữu hiệu và sự phổ biến hướng dẫn rộng rãi về chứng khoán và đầu tư chứng khoán, người dân sử dụng nguông tài chính tiết kiệm được của mình để mua chứng khoán với niềm tin là khoản vốn và lãi của mình sẽ được đảm bảo. Nguồn tiết kiệm này, nếu không có thị trường tài chính sẽ có khả năng tiếp tục nằm yên dưới dạng tích trữ không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm và cũng không đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt động có hiệu quả của thị trường tài chính đã giảm bớt được nhu cầu tiêu dùng cao, dành nguồn tài chính vào đầu tư thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Do chứng khoán không có tính lỏng như tiền mặt, một khi đã mua chứng khoán, nguồn tài chính đã vận động vào đầu tư, số tiền mặt trong tay người tiêu dùng giảm xuống nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ được giảm xuống . Những nhu cầu thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động bán chứng khoán của người sử dụng chứng khoán. Như vậy tính thanh khoản cao của chứng khoán trên thị trường tài chính đã thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư. Thị trường tài chính là kênh huy động vốn đầu tưtất lớn. Nó không chỉ thu hút huy động nguồn tài chính trong nước mà còn thu hút huy động nguồn tài chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể bỏ vào đầu tư mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ dàng, nhờ đó nguồn tài chính với các quy mô khác nhau được vận động từ nước ngoài vào trong nước mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Thị trường tài chính là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Nó là cầu nối giữa vốn đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư trong nước, góp phần thực hiện chính sách “mở cửa nền kinh tế “. Như vậy, thị trường tài chính bổ xung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn tài chính của nước ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước. 2.2. Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra trên cơ sở quan hệ cung cầu. Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải trả giá. Điều đó buộc người cần nguồn tài chính phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn bằng việc lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn hình thức và thời điểm thích hợp để giảm giá của việc tài trợ. Mặt khác, thị trường tài chính bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố các vấn đề tài chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính xác của các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoán của doanh nghiệp có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi và dân chúng chỉ mua chứng khoán của những doanh nghiệp thành đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự do lựa chọn của người mua chứng khoán, không còn cách nào khác hơn là các nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả đi vay phải có hiệu quả . Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sự dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong từng doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế. Sự đa dạng hoá về thời hạn sử dụng các nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài chính trong nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho nguồn tài chính vận động từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả hơn. với chức năng cung cấp thông tin chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích và có quyết định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động đúng đến nơi mà chúng được sử dụng có hiệu quả. 2.3. Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước. Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu...., giải quyết khó khăn về mặt tài chính, phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện chính sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính hay chính sách tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính sách ngân sách. Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu quả, giải quyết bộ chi và cân đối thu chi ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra trong chính sách tài chính của một quốc gia. Thị trường tài chính lại là nơi Nhà nước tiên shành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước cũng có thể vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ. ở hầu hết các nước, việc Nhà nước vay tiền của dân đã trở thành thông dụng và tiền vay đã trở thành nguồn thu thường xuyên để cân đối ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phải phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết một trong những nguyên nhân chủ yếu của luật pháp, làm giảm áp lực của lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả cũng giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ. Thị trường tài chính còn là nơi cung cấp các dữ liệu giúp cho Nhà nước có biện pháp điều hoà lưu thông tiền tệ. Việc dân chúng đầu tư vào thị trường tài chính sẽ giúp Nhà nước điều tiết được lượng tiền trong lưu thông qua cơ chế thị trường mở. Việc Nhà nước mua chứng khoán vào có tác dụng bơm thêm tiền vào chu chuyển kinh tế và ngược lại việc bán chứng khoán ra sẽ rút bớt lượng tiền khỏi chu chuyển kinh tế. Nhà nước cũng có thể thay đổi lãi suất tiền gửi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu để thực hiện điều hoà lưu thông tiền tệ. Điều hoà nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế, nhằm thoả mãn nhu cầu nguồn tài chính cho nền kinh tế đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính luôn luôn là mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Thông qua sử dụng các công cụ trên thị trường và cơ chế hoạt động của thị trường, bằng hoạt động phát hành và mua bán chứng khoán cả thị trường tập trung và phi tập trung, dưới tác động của quy luật cung cầu, nguồn tài chính sẽ vận động từ những ngành, những vùng thừa nguồn tài chính đến những ngành, những vùng thiếu nguồn tài chính thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đặt được mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Khi xem xét vai trò thị trường tài chính cũng cần thấy rằng: ngoài những vai trò, những tác động tích cực, thị trường tài chính cũng có những hạn chế, những khuyết tật thể hiện qua hoạt động đầu cơ, bán khống các chứng khoán... Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải nẵm vững cơ chế vận hành của thị trường, có những biện pháp hữu hiệu kiểm soát các hoạt động của thị trường làm cho thị trường hoạt động lành mạnh. IIi. Thực trạng TTTC Việt Nam. Nhìn về tổng thể, số vốn huy động được trên TTTC tăng, nhưng tổng giáo trị tín phiếu cổ phiếu giai đoạn 1991- 1997 đạt 2,5% GDP. Nó còn quá nhỏ bé so với nhu cầu kinh tế xã hội (trong khi ở các quốc gia phát triển, khoản vay trong nước chiếm hơn 50% GDP). Kho bạc Nhà nước, theo ước tính, mới chỉ huy động được 15% số tiền nhàn rỗi trong dân, khi mà lượng tiền này ước đạt 25- 30 ngàn tỷ đồng. Lãi suất trái phiếu luôn cao hơn lãi suất như là một điềukhông thực tế so với nhiều nước trên trong mà một nguyên nhân chính là do sự yếu kém của hệ thống ngân sách, do tài sản này của họ thiếu, nợ khó đòi tăng, tình hình kinh doanh khó khăn buộc phải tăng lãi suất tiền gửi lên cao hơn quy định, do đó mà người dân thích gửi tiền vào ngân sách hơn là mua trái phiếu cổ phiếu và trái phiếu công ty. Để có thể thu hút cổ phiếu đã phải nâng lãi suất lên rất cao. Mặc dù còn nhiều yếu kém, bất cập, song về cơ bản, TTTC Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đã thu hút được một lượng vốn nhất định cho đầu tư phát triển đất nước. Bước đầu hình thành TTCK ở Việt Nam tạo cho mọi cá nhân tham gia, tiếp xúc với một TTTC hiện đại, phát triển. IV. Phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. 1. Hoàn thiện TTTC ở Việt Nam . Xuất phát từ nhu cầu cấp bách hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có một TTTC hoàn thiện nhằm phát huy mọi nguồn nội lực và ngoại lực, tài trợ đủ vốn, công nghệ kỹ thuật cho quá trình phát triển hoàn thành công nghiệp hoá đất nước. Xuất phát từ thực trạng nhỏ bé, yếu kém của TTTC Việt Nam hiện nay cần phải phát triển và hoàn thiện để có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra, từng bước nâng cao vai trò của mình đối với nền kinh tế và hội nhập vào quốc tế, khu vực. Chính vì vậy, phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam luôn là vấn đề ta phải quan tâm.. 2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Để phát triển TTTC cần dựa trên một nền kinh tế thị trường hoàn thiện đây là điều hiển nhiên. TTTC vững mạnh góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược lại kinh tế thị trường hoàn thiện sẽ tác động ngược trở lại chính TTTC và làm nền tảng cơ sở, làm môi trường cho TTTC phát triển bền vững. Để phát triển hoàn thiện kinh tế thị trường, từ ngay bây giờ cần có các chính sách cho phù hợp. Đường lối phát triển kinh tế đóng một vai trò quyết định bao trùm lên cả sự phát triển, điều này phụ thuộc lớn vào hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Phát triển đồng bộ các ngành, lĩnh vực dựa trên việc khai thác tối đa các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp. Mặc dù vậy vẫn phải hướng nền kinh tế vào mô hình hướng về xuất khẩu mà nhiều nước châu á (Nhật Bản, các NICS) đã rất thành công; ưu tiên vào các ngành mũi nhọn và ngành thế mạnh: chế biến nông lâm thuỷ sản, dệt may, dầu khí... và đặc biệt là điện tử- tin học, ngành học có nhiều triển vọng. Luôn luôn coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu do chúng ta có gần 80% dân số nông thôn, nâng cao thu nhập cho họ sẽ là tăng thu nhập cho một phận rất lớn dân cư, từ đó tăng được tiêu dùng, tích luỹ cho nền kinh tế và vượt được ra khỏi giới hạn khả năng sản xuất. Đối với Việt Nam, cần lưu ý rằng, phát triển hoàn thiện TTTC phải dựa trên một nền kinh tế thị trường XHCN đề cao vai trò của Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước về quản lý kinh tế, dựa trên chế độ đa sở hữu song công hữu vẫn là ưu thế, đại bộ phận nhân dân làm chủ. Kết luận “Thị trường tài chính” mặc dù là một vấn đề còn khá mới mẻ cho một nền kinh tế 15 năm mở cửa đổi mới, song bước đầu TTTC ở Việt Nam đã có bước hình thành và chuyển biến mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Khẳng định vai trò to lớn của TTTC không chỉ là huy động mọi nguồn lực xã hội và công cuộc phát triển đất nước mà còn nâng cao hiệu quả nền kinh tế, điều hòa hoạt động kinh tế vĩ mô và mở cửa hội nhập khu vực quốc tế là một tất yếu khách quan; đó là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, đánh giá kịp thời và đang từng bước xây dựng, phát triển hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI với trách nhiệm nặng nề. Muốn nâng cao và phát huy được nội lực trong nền kinh tế cũng như thu hút tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, hơn bao giờ hết xây dựng một TTTC phát triển , ổn định, lành mạnh và hoàn thiện là yêu cầu cất bách hiện nay. Điều quan trọng nhất để có được một TTTC theo đúng nghĩa của nó chính là lòng tin của dân chúng, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và sự an toàn, lành mạnh, hấp dẫn của nền kinh tế thị trường. Yếu tố này chỉ có thể có được trong một môi trường kinh tế xã hội ổn định, một môi trường đã được đảm bảo bằng pháp lý với cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển. Nhà nước là trọng tài trung tâm của nền kinh tế cần phát huy đúng vai trò kinh tế của mình, hài hòa giữa quản lý kinh tế và quản lý hành chính, tạo cho đất nước một thế và lực mới với những cơ hội lớn lao bước vào thế kỷ XXI. Chính vì vậy, mỗi chúng ta, đặc biệt là các nhà doanh nghiệp tương lai luôn phải ý thức tìm tòi, nghiên cứu các phạm trù về thị trường tài chính-tiền tệ, không ngừng học hỏi nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để có thể tham gia và đóng góp nhiều nhất năng lực của mình vào việc xây dựng phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Trước mắt cần phải tìm cách để đưa các hoạt động tài chính vào các phương tiện thông tin đại chúng, vào cuộc sống hàng ngày của dân chúng làm cơ sở, tiền đề để có thể huy động tối đa nguồn lực con người cho sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đó cũng là con đường để đưa nền kinh tế thị trường của Việt Nam có vị trí trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Tài liệu tham khảo 1. SGK Tài chính (Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội) 2. Thị trường Tài chính (NXB Thông tin lý luận 1991) 3 . Sự hình thành và phát triển TTTC của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam - Nguyễn Đình Tài (NXB Chính trị Quốc gia 1999) 4. Lý thuyết tiền tệ (NXB thống kê 1998) 5. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường-Ngô Thị Cúc 6. Tiền và hoạt động ngân hàng (NXB Chính trị quốc gia 1996). 7.Lý thuyết tài chính (NXB Tài chính 2000). Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0696.doc
Tài liệu liên quan