Đề tài Thị trường vốn Việt Nam- Lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN 1

1.1. Khái niệm về vốn - tư bản 1

1.1.1. Vốn hiện vật 1

1.1.2. Lãi suất và giá của tài sản 1

1.2. Nhu cầu về dịch vụ vốn 6

1.2.1. Cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp 6

1.2.2 Cầu về dịch vụ vốn của ngành 8

1.3. Cung về dịch vụ vốn 9

1.3.1. Chi phí của vốn 9

1.3.2. Cung về dịch vụ vốn của doanh nghiệp 9

1.3.3. Cung về dịch vụ vốn cho ngành 9

1.3.4. Cung về vốn đối với toàn bộ nền kinh tế 10

1.4. Cân bằng và sự điều chỉnh thị trường vốn 11

1.4.1. Xác định lãi suất và lợi tức vốn 11

1.4.2. Cân bằng trong ngắn hạn 11

1.4.3. Cân bằng trong dài hạn 12

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM 14

2.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 14

2.1.1. Tình hình chung 14

2.1.2. Tác động của FDI đến tăng trưởng và phát triển

kinh tế Việt Nam 15

2.2. Thị trường cho thuê tài chính 16

2.2.1. Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta hiện nay 16

2.2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động cung ứng cho thuê tài chính 18

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM 21

3.1. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 21

3.2. Giải pháp thúc đẩy thị trường cho thuê tài chính 22

3.2.1. Đối với nhà nước 22

3.2.2. Đối với các công ty CTTC 24

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4163 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường vốn Việt Nam- Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên thị trường. Vì vậy đường MRK chính là đường cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp . Đường cầu về dịch vụ vốn dốc xuống về bên phải cũng do tác động của quy luật sản phẩm cận biên giảm dần Vì vậy, doanh nghiệp sẽ tăng thuê vốn cho đến khi mà doanh thu cận biên của vốn bằng tiền thuê vốn danh nghĩa MRK = R R R0 K0 K MRK = DK Xác định giá thuê vốn và đường cầu về vốn của doanh nghiệp * Các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu về dịch vụ vốn - Giá sản phẩm của doanh nghiệp. Khi giá tăng làm cho MRK tăng dẫn đến MCK tăng, đường MRK dịch chuyển sang phải, khối lượng vốn tăng. - Mức sử dụng các yếu tố đầu vào khác. Giả sử khi lao động tăng, làm cho tổng doanh thu tăng, dẫn đến MRK tăng, đường MRK dịch chuyển sang phải, khối lượng vốn tăng. -Tiến bộ kĩ thuật , năng suất của vốn hiện vật tăng lên , làm cho tổng doanh thu tăng, dẫn đến MRK tăng, MRK dịch sang phải, khối lượng vốn tăng R R0 K1 K2 MRK2 MRK1 Dịch chuyển đường cầu về vốn 1.2.2 Cầu về dịch vụ vốn của ngành Là tổng cầu về dịch vụ vốn của các doanh nghiệp trong ngành, được xác định bằng cách cộng theo chiều ngang đường MRK của các doanh nghiệp. R R1 R2 MRK2 MRK1 R K1 K2 K’ K K1 K2 K’ K DK DK’ Đường cầu về vốn khi P không đổi Đường cầu khi P giảm Đường cầu vốn của doanh nghiệp Đường cầu vốn của ngành Đường cầu về vốn của ngành Khi tiền thuê vốn giảm (Râ), cầu về khối lượng dịch vụ vốn tăng lên (Ká), khối lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều hơn, giá của sản phẩm giảm xuống, làm cho rTRKâ => rMRKâ, đường MRK dịch chuyển sang trái từ MRK1 --> MRK2 . Đường cầu về dịch vụ vốn của ngành khi giá giảm dốc hơn đường cầu về dịch vụ vốn của ngành khi P không đổi. 1.3 Cung về dịch vụ vốn 1.3.1.Chi phí của vốn Vì mục tiêu lí giải các khoản đầu tư do doanh nghiệp cho thuê thực hiện nên chúng ta xem xét lợi ích và chi phí của việc sở hữu khối lượng vốn lớn. Lợi ích của việc sở hữu vốn là doanh thu nhận được từ việc cho các doanh nghiệp sản xuất thuê để nhận được thu nhập chính là giá thuê vốn(R) trả cho mỗi đơn vị vốn mà nó sở hữu. Chi phí của việc sở hữu vốn, mỗi khi cho thuê một đơn vị vốn thì doanh nghiệp cho thuê phải chịu 3 loại chi phí: + Chi phí lãi suất : tức là khi doanh nghiệp vay tiền để mua vốn thì phải trả lãi cho khoản vay đó. + Khoản lỗ hay lãi do giá vốn thay đổi: trong khi doanh nghiệp cho thuê vốn thì giá vốn có thể thay đổi, nếu giá vốn giảm doanh nghiệp cho thuê bị lỗ, nếu giá vốn tăng doanh nghiệp cho thuê được lãi. + Chi phí khấu hao: trong khi cho thuê, vốn bị hao mòn. 1.3.2. Cung về dịch vụ vốn của doanh nghiệp Các doanh nghiệp cung về vốn đồng thời cũng là các doanh nghiệp có nhu cầu về hàng tư liệu. Đứng trước mỗi nhu cầu nhà cung ứng tiềm tàng về vốn sẽ so sánh giữa giá mua tài sản vốn với giá trị hiện tại của tất cả các khoản tiền dự kiến có thể thu được trong tương lai từ tài sản đó để quyết định đầu tư. Đồng thời doanh nghiệp phải xác định được giá cho thuê tối thiểu. Giá cho thuê tối thiểu là tiền cho thuê cho phép người chủ sở hữu vừa đủ bù đắp chi phí cơ hội cho việc sở hữu vốn hay chi phí cho thuê vốn. Nếu giá cho thuê thực tế cao hơn giá cho thuê tối thiểu, doanh nghiệp sẽ tăng khối lượng vốn cho thuê, cung về dịch vụ vốn của doanh nghiệp tăng và ngược lại. 1.3.3 Cung về dịch vụ vốn cho một ngành Trong ngắn hạn, tổng dự trữ các tài sản vốn cho toàn bộ nền kinh tế là cố định. Do đó lượng vốn sẵn sàng cung ứng cho một ngành tương đối ổn định. Một số ngành như điện, viễn thông, luyện kim, ... không thể ngày một ngày hai có thể xây dựng thêm nhà máy mới.. Do đó cung về dịch vụ vốn cho các ngành là cố định, đường cung về vốn là thẳng đứng. Một số ngành khác có thể thu hút thêm lượng cung ứng dịch vụ vốn cho mình thông qua việc tăng tiền thuê vốn: ví dụ như ngành thương mại bằng cách trả tiền thuê cao hơn nên họ thu hút thêm được một phần vốn tài sản. Như vậy, đường cung về dịch vụ vốn cho một ngành trong ngắn hạn thường là một đường thẳng đứng hoặc là rất dốc. Trong dài hạn, dự trữ tài sản vốn trong cho từng ngành sẽ thay đổi. Các nhà máy có thể xây dựng thêm, các thiết bị có thể được sản xuất và mua sắm thêm... Dự trữ tài sản vốn lớn hơn sẽ tạo ra (luồng dịch vụ vốn) khả năng cung ứng vốn lớn hơn và ngược lại, Nhưng dự trữ vốn lớn hơn chỉ khi nào giá cho thuê vốn cao hơn. Do đó trong dài hạn đường cung về vốn cho một ngành là đường dốc lên và thoải hơn đường cung về vốn ngắn hạn. 1.3.4 Cung về vốn đối với toàn bộ nền kinh tế Trong ngắn hạn, đối với toàn bộ nền kinh tế, tổng cung các tài sản vốn như máy móc, nhà cửa, xe cộ … mà chúng ta cung cấp là cố định vì không thể trong thời gian ngắn có thể tạo ra được các máy mới. Bởi vậy đường cung của các dịch vụ vốn trong ngắn hạn là đường thẳng đứng do việc cung ứng các dịch vụ vốn trong ngắn hạn là cố định. S’ S S’ S Mức cung cố định trong ngắn hạn Lượng cung ứng dịch vụ vốn Đồ thị cung ứng vốn Tiền thuê 1 đơn vị Trong dài hạn, một lượng dịch vụ vốn nhất định được cung ứng cho nền kinh tế chỉ khi nào thu được giá cho thuê cần có. Nếu nó thu được nhiều hơn, con người sẽ tạo thêm các hàng tư liệu mới. Nếu nó thu được ít hơn, các chủ sở hữu vốn sẽ đồng ý để hàng tư liệu của họ hao mòn mà không tạo thêm các hàng tư liệu mới. Trong dài hạn, có thể có luồng dịch vụ vốn lớn hơn chỉ khi nào có dự trữ vốn thường xuyên lớn. Nhưng vốn bị hao mòn, dự trữ vốn càng cao thì tổng lượng khấu hao càng lớn. Do đó nguồn dịch vụ vốn nhiều hơn trong dài hạn đòi hỏi có dự trữ vốn thường xuyên nhiều hơn, về phần mình, dự trữ đòi hỏi các nguồn hàng hóa tư liệu mới nhiều hơn để bù đắp khấu hao và bảo quản dự trữ vốn chưa dùng đến. Nhưng các nhà sản xuất hàng tư liệu mới sẽ đòi hỏi giá cao hơn cho hàng tư liệu mới nếu họ sản xuất một lượng hàng tư liệu mới lớn hơn. Do đó để duy trì tỷ suất lợi tức cần có, chúng ta đòi hỏi giá cho thuê lớn hơn đối với các dịch vụ vốn. Một mức giá thuê cao hơn chia cho giá mua hàng tư liệu cao hơn sẽ làm cho tỷ suất lợi tức không đổi. Luồng dịch vụ vốn cao hơn trong dài hạn sẽ được cung ứng nếu giá thuê vốn tăng lên cân đối với giá mua đã tăng của hàng tư liệu. Chúng ta thấy đường cung dịch vụ vốn dốc lên trong dài hạn, khi vẽ trong hệ tọa độ lượng cung ứng dịch vụ vốn và giá cho thuê vốn. Khi mức lãi suất thực tế tăng lên, với một giá mua hàng tư liệu đã cho, giá cho thuê cần có phải tăng lên. Người cung ứng vốn cần phải có mức lợi tức cao hơn để bù đắp chi phí cơ hội cao hơn của số tiền họ bỏ ra để mua hàng tư liệu. Ta thấy hiệu ứng của sự gia tăng lãi suất thực tế như là sự dịch chuyển đường cung dài hạn đối với các dịch vụ vốn lên phía trên từ SS đến S’S’. 1.4 Cân bằng và sự điều chỉnh thị trường vốn 1.4.1 Xác định lãi suất và lợi tức vốn Khi quyết định có nên đầu tư hay không, các doanh nghiệp muốn có lợi nhuận tối đa luôn luôn so sánh giữa chi phí vay vốn và tỷ suất lợi tức thu được. Nếu tỷ suất lợi tức đầu tư cao hơn lãi suất thị trường đối với vốn vay thì doanh nghiệp sẽ tiến hành đầu tư, còn nếu lãi suất vay cao hơn tỷ suất lợi tức đầu tư thi doanh nghiệp sẽ không đầu tư. Điểm cân bằng là điểm đạt được khi sự cạnh tranh của các doanh nghiệp làm cho tỷ suất lợi tức giảm xuống tới mức bằng lãi suất thị trường. Trong nền kinh tế cạnh tranh không có rủi ro, không lạm phát, tỷ suất lợi tức cạnh tranh luôn bằng lãi suất thị trường. 1.4.2 Cân bằng trong ngắn hạn E SK DK K r0=i0 r, i Cân bằng ngắn hạn Cân bằng ngắn hạn của cung và cầu vốn Đồ thị trên cho ta thấy đầu tư trong quá khứ đã tạo ra một lượng vốn nhất định, biểu diễn bằng đường cung ngắn hạn thằng đứng SK. Các hãng sản xuất có nhu cầu vốn hiện vật được phản ánh bằng đường cầu DK dốc xuống. Tại điểm cắt nhau của đường cung và đường cầu, số lượng vốn được phân bổ hết cho các hãng có nhu cầu. Tại điểm cân bằng ngắn hạn này, các hãng chấp nhận hàng năm trả r0 lãi vay hàng năm để mua các hàng hóa vốn, đồng thời người cho vay bằng lòng thu về đúng r0=i0 lãi mỗi năm trên số vốn mà họ cung cấp. Do vậy trong một nền kinh tế cạnh tranh không có rủi ro và lạm phát, tỷ suất lợi tức bằng lãi suất thị trường, bất kỳ một mức lãi suất nào cao hơn sẽ không được các hãng chấp nhận vay để đầu tư, bất kỳ mức lãi suất thấp hơn nào sẽ làm cho vốn trở nên khan hiếm do cầu của các hãng tăng lên. Chỉ có tại điểm cân bằng với mức lãi suất r0=i0 thì cung và cầu mới bằng nhau. 1.4.3 Cân bằng trong dài hạn Nhưng điểm cân bằng E chỉ ổn định trong thời gian ngắn do tại điểm E mọi người thấy rằng mức lãi suất vẫn cao, mang lại một mức thu nhập,khuyến khích mọi người gia tăng tiết kiệm. rLR SKLR DK Cân bằng dài hạn K E’ E S S’’ S’’’ r0=i0 r,i Điểm cân bằng dài hạn của cung và cầu vốn Mức cung dài hạn của vốn được thể hiện là đường SKLR có chiều dốc lên, hàm ý mọi người muốn cho vay nhiều hơn khi lãi suất thực tế tăng lên. Tại điểm E với mức lãi suất i0, cung dài hạn về vốn vượt quá cầu về vốn. Các tác nhân kinh tế muốn tích lũy nhiều vốn hơn, gia tăng tiết kiệm. Lúc đầu vốn tích lũy ban đầu tại điểm E, sau đó theo thời gian, vốn tích lũy tăng dần. Kết quả là sau một thời gian, nền kinh tế sẽ trượt dọc theo đường cầu về vốn sang phải. Điểm cân bằng dài hạn đạt được tại điểm E’. Cân bằng ngắn hạn trượt dọc từ điểm E xuống theo đường cầu DK vì tại mức tỷ suất lợi tức r0 đầu tư là có lợi, xã hội ngày càng gia tăng tích lũy vốn. Theo thời gian cung ngắn hạn về vốn bị đẩy dần sang phải từ đường S sang S’, S’’ ... Đồng thời theo quy luật lợi tức giảm dần, tỷ suất lợi tức và lãi suất cùng giảm. Khi vốn tăng lên, các yếu tố khác không đổi, thì tỷ suất lợi tức (r0) đối với trữ lượng vốn hàng hóa sẽ giảm xuống đến rLR Tại điểm E’ cung dài hạn về vốn (SKLR) cắt đường cầu về vốn (DK). Điểm cân bằng dài hạn đạt được khi lãi suất giảm tới mức rLR, trữ lượng vốn mà các tác nhân sử dụng đúng bằng số tiền mọi người muốn cung cấp. Tại điểm này, tiết kiệm ròng bằng 0, trữ lượng vốn không còn tăng lên nữa. Lãi suất và tỷ suất lợi tức cân bằng dài hạn bằng nhau (r0=i0), giá trị tài sản tài chính mọi người muốn giữ trong dài hạn đúng bằng lượng vốn mà các hãng kinh doanh muốn sử dụng tại lãi suất đó. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM 2.1 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1.1.Tình hình chung Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 150 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước trên thế giới. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã có vai trò quan trọng phát triển năng động, chiếm 1/4 vốn đầu tư toàn xã hội, trên 35% tổng giá trị năng lượng công nghiệp, hơn 25% giá trị xuất khẩu cả nước, thu hút trên 400.000 lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Từ năm 1988 đến 1990 là 3 năm khởi đầu FDI chưa có tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Cả 3 năm cộng lại có hơn 1,5 tỷ USD vốn đăng ký, còn vốn thực hiện thì không đáng kể, bởi vì các doanh nghiệp FDI sau khi được cấp giấp phép phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam. Từ năm 1991 đến 1997 là thời kỳ FDI tăng trưởng nhanh và góp phần ngày càng quan trọng vào mục tiêu kinh tế xã hội. Trong kế hoạch 5 năm 1991- 1995, đã thu hút 16 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao, vốn đăng ký năm 1991 là 1,275 tỷ USD thì năm 1995 là 6,6 tỷ USD, gấp 5,3 lần. Vốn thực hiện trong cả 5 năm là 7,153 tỷ USD, bằng 32% tổng vón đầu tư cả nước. Hai năm tiếp theo 1996- 1997 FDI tiếp tục tăng trưởng nhanh: thêm 15 tỷ USD vốn đăng ký và 6,06 tỷ USD vốn thực hiện. Từ năm 1998 đến năm 2000 là thời kỳ suy thoái của FDI. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1998 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Năm 1998 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Năm 1998, vốn đăng ký là 3,897 tỷ USD thì năm 1999 chỉ bằng 40,2%, còn 1,568 tỷ USD; năm 2000 là 1,973 tỷ USD. Sau khi đạt kỷ lục về vốn thực hiện vào năm 1997 với gần 3,2 tỷ USD, thì 3 năm tiếp theo đã giảm rõ rệt, năm 1998 là 2,4 tỷ USD, năm 1999 và năm 2000 mỗi năm 2,2 tỷ USD. Từ năm 2001 đến nay là thời kỳ phục hồi hoạt động của FDI. Vốn đăng ký năm 2001 là 2 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2000. Vốn thực hiện là 2,3 tỷ USD, tăng 3% so với năm trước. Năm 2002, vốn đăng ký gần 1,4 tỷ USD và vốn thực hiện 2,35 tỷ USD. Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2006, nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam có chiều hướng gia tăng với tốc độ nhanh. Trong 2001-2005, tổng số vốn đăng ký đã đạt 20,9 tỷ USD, vượt 39% so với mục tiêu. Tổng số vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 2001-2005 là 14,3 tỷ USD, vượt 30% kế hoạch. Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010, trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm, nguồn vốn FDI được dự báo khoảng 24 tỷ USD, chiếm 17,1% trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội của kế hoạch. Theo báo cáo nhanh của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), so sánh tình hình thực hiện vốn FDI trong 8 tháng đầu năm 2007 so với 8 tháng đầu năm 2006 Chỉ tiêu Đơn vị 8 tháng đầu 2006 8 tháng đầu 2007 So cùng kỳ Tình hình thực hiện: Vốn đầu tư thực hiện triệu USD 2485 2980 119,9% Doanh thu triệu USD 18350 21730 118,4% Xuất khẩu triệu USD 9660 12730 131,8% Nhập khẩu triệu USD 10559 13519 128% Nộp Ngân sách triệu USD 815 850 104,3% Số lao động cuối kỳ báo cáo nghìn người 1089 1217 111,8% Cấp mới và tăng vốn Số dự án cấp mới dự án 702 814 116% Vốn đăng ký cấp mới triệu USD 4316,2 7103,6 164,6% Số lượt dự án tăng vốn lượt dự án 409 247 60,4% Vốn tăng thêm triệu USD 1637,2 1220,4 74,5% Vốn cấp mới và tăng thêm triệu USD 5953 8324 139,8% Theo website Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.1.2 Tác động của FDI đến tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp FDI đó chiếm tỷ trọng 13 – 14% GDP, 35,5% tổng sản lượng công nghiệp và 18,6% tổng vốn đầu tư xã hội; ngoài dầu thô, chiếm tỷ trọng 33,8% kim ngạch xuất khẩu; hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế FDI (trừ ngành dầu khí) trong năm 2003 phát triển khá. So với năm 2002, doanh thu của các doanh nghiệp FDI tăng 36,8%; kim ngạch xuất khẩu tăng 35,3%; nộp ngân sách đạt 465 triệu USD, tăng 1,3%; tạo ra việc làm cho khoảng 665.000 lao động, tăng 7,3% so với năm 2002. Như vậy, ảnh hưởng của FDI đó góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế – xã hội của đất nước như tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm cho người dân, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp, đóng góp ngày càng lớn vào thu ngân sách và cải thiện môi trường sống của xã hội, hình thành và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm… để sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên trong những năm qua, lượng FDI vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (khoảng 66,6% số dự án và 56,8% vốn), lĩnh vực dịch vụ chiếm 19,5% số dự án. Số còn lại thuộc về lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Song, lượng FDI bình quân trên 1 dự án đầu tư chỉ khoảng 2,4 triệu USD (ở khu vực Đụng Nam Á là 5-7 triệu USD/1 dự án, Trung Quốc là 8-10 triệu USD/dự án), cho thấy, số vốn đầu tư và chất lượng đầu tư bình quân cho một dự án là chưa cao. Vấn đề là làm thế nào để tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như nâng cao chất lượng FDI vào các dự án. 2.2 Thị trường cho thuê tài chính 2.2.1 Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta hiện nay Cho thuê tài chính (CTTC) được xem là giai đoạn phát triển cao của hoạt động tín dụng thuê mua và được đánh giá là một hình thức mới để đầu tư vốn vào tài sản sản xuất. Ngày nay CTCC đang là một loại hình kinh doanh dịch vụ được ưa chuộng trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển. Hiện nay Việt Nam đã có 11 công ty CTTC, trong đó có 7 công ty trực thuộc ngân hàng thương mại Nhà nước và 3 công ty có vốn nước ngoài và 1 công ty liên doanh. Trong 8 năm, các công ty CTTC đã từng bước phát huy được vai trò quan trọng là hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Không chỉ có thế, tỷ lệ dư nợ quá hạn của các công ty CTTC thấp hơn nhiều so với các ngân hàng, lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước. Dư nợ CTTC gia tăng mạnh trong khoảng thời gian 1999-2004. Tỷ trọng dư nợ CTTC trong tổng tài sản chiếm đa số và tăng liên tục từ 65% năm 1999 lên 91% năm 2004. Tổng dư nợ cho thuê tại thời điểm cuối 2005 bằng 130,57% so với năm 2004, tính đến hết quý I năm 2006 tăng trưởng 13,52% so với cùng kỳ năm 2005. Do đó, vị trí các công ty CTTC ngày càng quan trọng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hiện nay nguồn vốn họat động của các công ty CTTC chủ yếu là vốn tự có và huy động, cụ thể: Stt Công ty cho thuê tài chính Vốn điều lệ 1 Công ty Sài gòn thương tín 100 tỷ VND 2 Công ty ANZ-VTRAC (100% vốn nước ngoài) 5 triệu USD 3 Công ty I - Nông nghiệp và phát triển nông thôn 150 tỷ VND 4 Công ty II - Nông nghiệp và phát triển nông thôn 150 tỷ VND 5 Công ty I - NH đầu tư và phát triển Việt Nam 150 tỷ VND 6 Công ty II - NH đầu tư và phát triển Việt Nam 102 tỷ VND 7 Công ty Ngân hàng Công thương Việt Nam 105 tỷ VND 8 Công ty Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 100 tỷ VND 9 Công ty Kexim (KVLC) (100% vốn nước ngoài) 13 triệu USD 10 Công ty quốc tế VN (VILC) (liên doanh) 5 triệu USD 11 Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu ACBL 100 tỷ VNĐ Do nắm bắt được nhu cầu về thuê mua của các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn trong tình trạng khát vốn, các công ty CTTC kể cả trong nước, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng nâng cao hạn mức cho thuê; đa dạng hoá sản phẩm, tài sản, dịch vụ cho thuê để thu hút ngày càng nhiều càng doanh nghiệp. Nhờ vậy, họat động cho thuê tài chính trong thời gian qua đã dần mở rộng quy mô, đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số tăng cao, chất lượng tương đối tốt. Hoạt động CTTC phần nào đã làm giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng trong cung ứng vốn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Hiện tại, nếu muốn sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính, các doanh nghiệp không phải đáp ứng yêu cầu về tài sản thế chấp nhưng các công ty CTTC vẫn có thể tài trợ xấp xỉ 100% mức chi phí, với tài sản là thiết bị, phương tiện, máy móc, bất động sản…; trong khi đó ở những thời kì trước đây thì mức tài trợ chỉ đạt có trên dưới 70%. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, dịch vụ cho thuê tài chính là giải pháp tối ưu nhằm giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện phát triển năng lực sản xuất, hiện đại hoá công nghệ, khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Hiện nay bên cạnh các công ty CTTC đang hoạt động trên thị trường, với mô hình hình thành các tập đoàn tài chính lớn trong tương lai thì một số ngân hàng thương mại và tổ chức kinh tế đã có kế hoạch thành lập các công ty CTTC. Bên cạnh đó, một số tổ chức nước ngoài cũng có dự định đầu tư vào lĩnh vực cho thuê tài chính Việt Nam. Chính điều này sẽ làm cho thị trường cho thuê tài chính phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ trong thời gian tới. 2.2.2 Những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động cung ứng cho thuê tài chính Tuy nhiên, thực tế phải nhìn nhận thời gian qua, rất ít doanh nghiệp mặn mà với dịch vụ này, trong tổng số 800.000 doanh nghiệp Việt Nam thì chỉ có 2/98% doanh nghiệp sử dụng nguồn huy động từ các công ty cho thuê tài chính.Theo đánh giá chung hoạt động CTTC trong thời gian qua đã dần mở rộng quy mô đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số cho thuê ngày một tăng cao, chất lượng hoạt động CTTC tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức cho phép, lợi nhuận năm sau tăng hơn năm trước... Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được hoạt động CTTC ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số vấn đề sau: Các công ty cho thuê tài chính cũng cũng không gặp ít khó khăn trong việc huy động vốn. Là cánh tay nối dài của ngân hàng thương mại, các công ty cho thuê tài chính đều được cấp vốn điều lệ ban đầu và được bổ sung vốn. Nguồn vốn bổ sung này có thể do các ngân hàng mẹ hoặc các tổ chức tín dụng chủ quản cấp. Trên thực tế, để tăng năng lực cho thuê tài chính, các công ty đều phải đi vay thêm vốn hoặc phát hành các công cụ nợ như trái phiếu công ty, nhận tiền gửi kỳ hạn trên 1 năm. Việc các công ty cho thuê tài chính thực hiện huy động trái phiếu, nhận tiền gửi kỳ hạn bước đầu đó giải quyết được những khó khăn trước mắt về vốn, nhưng xét về lâu về dài sẽ có nhiều hạn chế bởi chi phí đầu vào tăng cao (huy động vốn ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng khác) theo lãi suất của thị trường. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính không được huy động vốn trực tiếp mà phải thông qua một tổ chức tín dụng khác, điều này sẽ làm phát sinh thêm một lần chi phí. Việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo đó pháp luật Việt Nam quy định số vốn đầu tư cho các doanh nghiệp đi vay không được vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty. Trên thực tế những quy định này đang gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC. Bởi vì với quy định như trên phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Việc huy động được nguồn vốn cũng như khả năng tích luỹ của các công ty CTTC là rất khó khăn trong khi đó việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn gần như không thực hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động cho thuê tài chính của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh mún chưa có định hướng chiến lược phát triển trong tương lai. Trong đó vấn đề nhu cầu thị trường chưa được tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn. Không những thế hoạt động thuê mua ở Việt Nam cho đến nay còn khá đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn và phần lớn các công ty CTTC đều chưa thành lập được hệ thống các chi nhánh. Hơn nữa, chủ yếu các công ty CTTC hiện nay đều hoạt động dựa vào nguồn vốn của ngân hàng mẹ cung cấp, chưa có công ty CTTC nào tự huy động được nguồn vốn để cho thuê. Điều đó cũng giải thích tại sao tuy ra đời từ khoảng năm 1997 nhưng đến nay cả nước mới chỉ có 9 công ty CTTC. Các công ty CTTC chưa thiết lập được một mối quan hệ sâu rộng đến các cơ sở, các nhà cung ứng máy móc, thiết bị... Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ của công ty còn thiếu những chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến, điều này sẽ làm công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trường. Các công ty CTTC chưa có được sự bảo hộ của hệ thống pháp luật. Chẳng hạn như trong vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm hợp đồng cũng là một trong những vấn đề gây nhiều bàn cãi. Trên thực tế quyền này gần như không thể thực hiện được vì bên thuê thường không chịu giao tài sản, nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi hành pháp luật. Hoặc khi có tranh chấp xảy ra, các cơ quan pháp luật thường thu hồi tài sản, không trả lại cho bên cho thuê mà giữ làm tang chứng để xét xử vụ tranh chấp, đồng thời sẽ xem xét lại quá trình cho thuê nên chủ sở hữu gặp không ít khó khăn. Hay việc bán tài sản cho bên thứ ba lại phải được sự đồng ý của Bộ Thương mại và như vậy nảy sinh vấn đề truy thu thuế nhập khẩu. 5. Hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi đến các doanh nghiệp trong cả nước. Thực tế, chiếm đại đa số khách hàng giao dịch với các công ty cho thuê tài chính hiện tại là do sự giới thiệu từ “Ngân hàng mẹ”, nơi sáng lập ra phần lớn các công ty cho thuê tài chính hiện nay, và từ các nhà cung cấp các lọai máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải,… còn lượng khách hàng tìm đến do uy tín, họat động, thương hiệu được quảng bá,… của các công ty cho thuê tài chính là rất ít. Nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại. Theo kết quả nghiên cứu của quỹ hỗ trợ dự án Mêkông (MPDF) và Viện quản lý kinh tế TW tiến hành năm 2006 thì nguồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là bằng nội lực. Điều này hạn chế khả năng phát triển quy mô sản xuất kinh doanh và tiếp cận các công nghệ mới tiên tiến của thế giới để tăng chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường, trong khi số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 80% doanh nghiệp họat động tại Việt Nam. Một điều đáng chú ý khác là trong cuộc khảo sát này, gần 50% doanh nghiệp bị thiếu thông tin về các công ty cho thuê tài chính. Vì thế khi có nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị, các doanh nghiệp vẫn tìm đến các Ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để vay khó. Điều đó cho thấy trong thời gian tới, để thúc đẩy sự tăng trưởng dư nợ cho thuê và khẳng định họat động cho thuê tài chính là một kênh tài trợ tín dụng hiệu quả và không thể thiếu của nền kinh tế, các công ty cho thuê tài phải quan tâm đến họat động marketting, quảng bá thương hiệu. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM 3.1 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời nâng cao uy tín của môi trường đầu tư Việt Nam, chúng ta cần thực hiện ngay một số giải pháp nhằm thu hút mạnh mẽ vốn FDI như sau: 1. Tao lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư cao hơn và chất lượng hơn. Một môi trường đầu tư hấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23837 .doc
Tài liệu liên quan